Discover
Tạp chí kinh tế

239 Episodes
Reverse
Một làn sóng ngầm về lâu dài tác động đến mối liên hệ chặt chẽ về kinh tế, thương mại và đầu tư giữa Mỹ và các quốc gia Vùng Vịnh. Xung đột ở Gaza, vụ Israel xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của Qatar để tiêu diệt phong trào Hamas trước mắt chưa đe dọa đến những dự án đầu từ hàng trăm tỷ đô la các quốc gia dầu hỏa vừa cam kết với Hoa Kỳ nhưng đã khiến Washington khó xử. Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất, một trong 6 nước thuộc Hội Đồng Hợp Tác Vùng Vịnh GCC đã chính thức tham gia khối BRICS nơi Trung Quốc và Nga đóng vai trò chủ đạo. Một thành viên thứ nhì là Ả Rập Xê Út đã chính thức được mời tham gia nhóm các nền kinh tế đang trỗi dậy. Năm 2023 Bắc Kinh bắc nhịp cầu hỏa giải Ả Rập Xê Út, một đồng minh lầu đời của Mỹ ở Trung Đông với Iran. Riêng Qatar tuy không ngừng mở rộng giao thương với Trung Quốc, nhưng vẫn còn giữ khoảng cách với Bắc Kinh. Hoài nghi từ các đồng minh của Mỹ ở Trung Đông Có điều sau vụ Israel nhắm vào một phái đoàn đàm phán của Hamas đang có mặt tại Doha đã oanh kích một tòa nhà ngay tại thủ đô Qatar hôm 09/09/2025, căng thẳng leo thang giữa một bên là các quốc gia Vùng Vịnh, các nước Ả Rập Hồi Giáo và bên kia là Israel được Mỹ yểm trợ. Qatar dọa ngừng làm trọng tài giữa Israel và Hamas chấm dứt xung đột tại Gaza. Cùng lúc, Hoa Kỳ chỉ cảnh cáo chính quyền của thủ tướng Benjamin Netanyahu cho có lệ. Phải đợi đến 3 tuần sau sự cố nói trên thủ tướng Israel từ Washington mới chính thức bày tỏ « ân hận sâu sắc » đã vi phạm chủ quyền lãnh thổ của Qatar. Trước Qatar, Ả Rập Xê Út từng có cơ hội thử thách tính vững trắc của đồng minh Hoa Kỳ : Tháng 9/2019 Donald Trump trong nhiệm kỳ đầu đã không có phản ứng gì khi drone Iran nhắm vào các cơ sở dầu hỏa của Ả Rập Xê Út cho dù Ryiad mua hàng tỷ đô la vũ khí của Mỹ. Trả lời RFI tiếng Việt, chuyên gia Jean -Loup Samaan, Viện Nghiên Cứu Trung Đông trường Đại Học Quốc Gia Singapore, trước hết giải thích về tầm mức nghiêm trọng của đợt « oanh kích » nhắm vào Doha hôm 09/09/2025 không chỉ đối với Qatar mà cả với các quốc gia trong Vùng Vịnh. Jean-Loup Samaan : « Cuộc tấn công này đã gây ra phản ứng từ các nước vùng Vịnh vì nhiều lý do. Thứ nhất, đây là một cuộc tấn công bất ngờ bởi vì từ trước đến nay, việc Israel tấn công Qatar được xem như là một “lằn ranh đỏ” không thể vượt qua. Điểm thứ nhì, đây lại là một cuộc tấn công từ một đồng minh của Hoa Kỳ – điều này chưa từng xảy ra. Trước đây, các cuộc tấn công vào Qatar thường đến từ Iran, hoặc từ lực lượng Houthi ở Yemen, hay từ Irak. Nhưng lần này lại là từ Israel một đồng minh thân cận của Mỹ. Chính vì thế mà gây ra nhiều vấn đề, đặc biệt là do Washington đã kín đáo, không thực sự lên án cuộc tấn công. Điểm này khiến các quốc gia vùng Vịnh hoang mang. Họ tự hỏi liệu các thỏa thuận quốc phòng với Hoa Kỳ còn đáng tin cậy hay không và nên chăng tiếp tục duy trì mối quan hệ hợp tác quân sự với Washington? » Tựa như trong trường hợp của Ả Rập Xê Út sáu năm trước đây, lần này Qatar và các nước trong Vùng Vịnh tiếp tục thất vọng về thái độ của Hoa Kỳ. Mới tháng 5/2025 các quốc gia này đã trải thảm đỏ đón tổng thống Trump. Abou Dabi cam kết đầu tư 1.400 tỷ vào Mỹ trong 10 năm. Nhà Trắng khoe đã thu hoạch 1.000 tỷ đô la tại chặng dừng ở vương quốc Ả Râp Xê Út. Còn Qatar hứa đầu tư thêm 10 tỷ đô la vào Mỹ và như Donald Trump giải thích 10 tỷ đô la đó sẽ « nẩy nở thành 12.000 tỷ đô la trong tương lai » cho kinh tế Hoa Kỳ. Riêng trong trường hợp của Qatar, nhà sản xuất thứ nhì của thế giới về dầu hỏa và khí đốt này còn chiếm một vị trí then chốt từ quân sự, ngoại giao đến kinh tế trong chiến lược của Washington tại Trung Đông. Đây là nơi 10.000 quân Mỹ đang đồn trú tại căn cứ quân sự Al Udeid, căn cứ lớn nhất của Hoa Kỳ tại Trung Đông. Jean-Loup Samaan, đại học Singapore điểm lại mối quan hệ khá tốt đẹp và hiệu quả của Qatar. Jean-Loup Samaan : « Về mặt ngoại giao, Qatar đóng vai trò trung gian trong nhiều hồ sơ, như trong đàm phán giữa Mỹ và Taliban – Qatar đã đóng vai trò then chốt trong việc Mỹ rút khỏi Afghanistan năm 2021. Ngoài ra, trong vấn đề Palestine, Qatar cũng là một nhân tố trung tâm khi hỗ trợ các cuộc đàm phán với Hamas cho đến thời điểm hiện tại. Về mặt quân sự, Qatar là nơi đặt Bộ tư lệnh trung tâm của Hoa Kỳ tại khu vực Trung Đông – tức là bộ chỉ huy của quân đội Mỹ phụ trách khu vực này đặt tại căn cứ quân sự Al Udeid Điều đó đặc biệt đáng chú ý khi đặt trong bối cảnh các cuộc không kích của Israel – vì có hàng ngàn binh sĩ Mỹ hiện đang đóng quân thường trực tại Qatar ». 10 tỷ đô la : keo sơn giữa Doha và Washington Jean-Loup Samaan : « Qatar cũng là một đối tác kinh tế của Mỹ. Hai quốc gia này không còn phụ thuộc nhiều vào nhau về về mặt năng lượng như trước bởi vì Mỹ đã trở thành nhà sản xuất và xuất khẩu năng lượng lớn trong vòng 20 năm qua. Tuy nhiên, Qatar vẫn là một lực lượng tài chính quan trọng – quỹ đầu tư quốc gia của Qatar rất lớn, đầu tư vào bất động sản cao cấp và công nghệ mới. Ví dụ, trong chuyến thăm vùng Vịnh mùa xuân vừa rồi của tổng thống Trump, ông đã đến Qatar và có nhiều thông báo về các khoản đầu tư lớn của Qatar vào kinh tế Hoa Kỳ.Đây là một khía cạnh đáng chú ý trong quan hệ song phương ». Năm 1972 Mỹ thiết lập bang giao với Qatar. Từ đó đến nay quan hệ ngoại giao, quân sự liên tục phát triển « tốt đẹp » hợp tác song phương được phát triển mạnh me trong nhiều lĩnh vực từ quốc phòng đến năng lượng thương mại, đầu tư. Nhân dịp tổng thống Donald Trump vừa công du Qatar tháng 5/2025, Doha thông báo hợp đồng 96 tỷ đô la với tập đoàn Boeing, đầu tư thêm 2 tỷ vào lĩnh vực quốc phòng, 1 tỷ đô la để phát triển công nghệ mới … Chung cuộc, tổng thống Trump trở về Washington với cam kết 10 tỷ đô la đầu tư của Qatar vào Mỹ trong những năm sắp tới. Giới quan sát cho rằng 10 tỷ đô la đầu tư đó là keo sơn, gắn chặt hơn một chút nữa cho liên minh giữa Doha với Washington đề phòng trước những « áp lực và mối đe dọa tiềm tàng của khu vực ». Trong nhiều năm, Qatar từng bị Ả Rập Xê Út, Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất, Bahein và Ai Cập « phong tỏa » về mặt ngoại giao với lý do, Doha dễ dàng bắt tay với các tổ chức khủng bố… Vậy liệu rằng Mỹ bênh vực Nhà nước Do Thái có thể làm gián đoạn các mối quan hệ này, đặc biệt là về mặt kinh tế hay không ? Chuyên gia về Trung Đông tại Đại Học Quốc Gia Singapore trả lời : Jean-Loup Samaan : « Cho đến nay thì chưa. Phía Qatar đưa ra các tuyên bố ngoại giao khá thận trọng. Họ phân biệt rõ ràng giữa lập trường về Israel mà Doha mạnh mẽ lên án với lập trường của Mỹ. Hiện tại Qatar cho rằng về cơ bản, các cuộc tấn công không làm thay đổi quan hệ với Washington. Tuy nhiên, chúng ta sẽ phải chờ trong vài tháng tới để xem liệu có tác động nào về mặt ngoại giao hay quân sự. Còn về kinh tế, hiện tại rất khó để nói, nhưng có thể chắc chắn rằng Qatar sẽ tránh đối đầu trực diện với chính quyền Trump. Họ sẽ không thực hiện các biện pháp trả đũa kinh tế đối với các công ty Mỹ – điều đó có vẻ rất khó xảy ra ». Ông Samaan chú ý hơn cả đến « dư âm » đối với toàn khu vực Vùng Vịnh và thế giới Hồi Giáo từ vụ quân đội Israel truy đuổi một nhóm của phong trào Hồi Giáo Palestine đang có mặt tại thủ đô Doha để đàm phán trong đợt oanh kích hôm 09/09/2025 Jean-Loup Samaan : « Đúng vậy, tác động của đợt oanh kích này được cảm nhận rõ rệt bởi cả sáu quốc gia trong Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh – bao gồm Qatar, Ả Rập Xê Út, Bahrain, Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất UAE và Kuwait. Lý do là vì nếu Qatar có thể bị tấn công, thì 5 quốc gia còn lại cũng có thể là mục tiêu tiếp theo và đó cũng là nhóm các nước ở vùng Vịnh phụ thuộc nhiều vào sự hiện diện quân sự của Mỹ. Ả Rập Xê Út đã nhanh chóng phản ứng qua việc công bố một hiệp ước quốc phòng mới với Pakistan – dù thông tin chi tiết chưa rõ, nhưng có một điều khoản tương trợ lẫn nhau nếu một trong hai bị tấn công. Đây là dấu hiệu cho thấy các quốc gia vùng Vịnh đang xem xét những lựa chọn thay thế cho quan hệ chiến lược với Hoa Kỳ. Họ biết rằng sẽ không có quốc gia nào thay thế hoàn toàn vai trò của Mỹ, nhưng họ sẽ tìm cách đa dạng hóa quan hệ đối ngoại – đặc biệt là hướng tới châu Á ». Trung Quốc là một « lựa chọn thay thế » ? Jean-Loup Samaan : « Về kinh tế, đã có sự cạnh tranh giữa Trung Quốc và Mỹ tại vùng Vịnh trong vài năm trở lại đây – đặc biệt là trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng và công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo. Song, tôi không nghĩ các quốc gia vùng Vịnh sẽ đột ngột chuyển đầu tư của họ từ Mỹ sang Trung Quốc. Chính quyền Abou Dabi đã đầu tư mạnh vào trí tuệ nhân tạo và từ hai năm nay, điểm đến là Hoa Kỳ mà điển hình là hợp đồng rất lớn hồi 2024 với Microsoft năm 2024 và sau đó vương quốc này cũng đã thông báo sẽ giảm đầu tư vào Trung Quốc. Với những dự án như vậy, rất khó để một sớm một chiều thay đổi điểm đến. Do vậy, tôi không nghĩ Trung Quốc nhanh chóng chiếm lợi thế trong tình huống này, cho dù hướng đầu tư vào Hoa Lục là một khuynh hướng đã nhận thấy từ một vài năm trở lại đây và điều này không liên quan gì đến vụ tấn công nhắm vào Doha hôm 09 tháng 9 vừa qua » . Tháng 5/2025 Bắc Kinh cho phép một quỹ đầu tư của Qatar (QIA) mua lại 10 % vốn của một quỹ bất động sản Trung Quốc AMC. Trung Quốc là đối tác thương mại quạ trọng nhất của Qatar. Trong hai thập niên, từ 2004 đến20 24 tổng trao đổi mậu dịch của Trung Quốc với 6 nước vùng Vịnh đã được nhân lên gấp 10 lần. Cũng nhà nghiên cứu Jean-Loup Samaan, trong một bài tham luận đăng trên trang nhà của Việt Quan Hệ Quốc Tế Pháp năm 2021 đã nhắc đến hiện tượng Doha « bị kẹt » trong cuộc đọ sức giữa Bắc Kinh và Washington. Trung Quốc là nơi đang nắm giữ chìa khóa tăng trưởng của Qatar nhưng về mặt chiến lược, như nhiều quốc gia khác trong khu vực, Qatar vẫn đứng ngoài quỹ đạo của Bắc Kinh. Doha hiện là một mắt xích quan trọng trong kế hoạch Gaza tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump vừa trình bày nhân dịp tiếp thủ tướng Israel. Trước đây, các vòng đàm phán giữa phái đoàn Mỹ và đại diện của Taliban từng bí mật diễn ra tại thủ đô Doha. Căn cứ quân sự Al Udeid cũng là nơi hơn 40.000 nhân viên của Mỹ và Afghanistan sơ tán khi Hoa Kỳ rút quân khỏi Kaboul tháng 8/2021.
Bắt giữ hơn 300 người lao động Hàn Quốc sẽ tác động đến hơn 20 dự án đầu tư xứ Hàn tại Hoa Kỳ, trì hoãn việc đào tạo và tuyển dụng thêm hàng trăm nghìn việc làm cho người dân Mỹ ? Từ sau vụ nhân viên Cơ Quan Di Trú và Hải Quan Hoa Kỳ - ICE bố ráp nhân viên tại nhà máy Huyndai-LG - Ellabell, bang Georgia hôm 04/09/2025, những nỗ lực của Nhà Trắng chưa hoàn toàn san bằng căng thẳng ngoại giao với Seoul. 15.000 lao động Hàn Quốc sang Mỹ mỗi năm Thông tín viên Trần Công từ Seoul cho biết một cách cụ thể về sự hiện diện của người lao động Hàn Quốc tại Hoa Kỳ và những đóng góp của nguồn nhân lực này cho nền kinh tế lớn thứ tư tại châu Á : « Theo thống kê chính thức, mỗi năm có khoảng 15.000 công dân Hàn Quốc được phép sang Mỹ làm việc hợp pháp thông qua các loại visa lao động. Con số này được cấu thành bởi : E visa (lao động/đầu tư): khoảng 6.600-6.900 người/năm, thường là nhân sự quản lý, điều hành hoặc kỹ thuật viên được cử sang để hỗ trợ chi nhánh và dự án tại Mỹ. Còn loại L-1 visa dành cho cán bộ từ tập đoàn mẹ tại Hàn Quốc sang làm việc cho các chi nhánh ở Mỹ. Riêng thành phần khoảng 2.000 lao động chuyên môn cao (chủ yếu là kỹ sư, chuyên gia công nghệ thông tin, y tế, tài chính, khoa học) họ được cấp visa H-1B. Tính chung, khoảng 15.000 lao động Hàn Quốc sang Mỹ mỗi năm theo diện hợp pháp. Đóng góp kinh tế của những lao động này không chỉ dừng ở kiều hối mà còn ở việc họ duy trì vị trí chiến lược của các công ty Hàn tại Mỹ. Dù chưa có số liệu chính thức về tổng lượng kiều hối từ Mỹ về Hàn Quốc, nhưng theo Bộ Tư pháp Hàn Quốc, người lao động Hàn Quốc ở Mỹ nằm trong nhóm có mức thu nhập cao nhất trong cộng đồng người Hàn toàn cầu. Chỉ riêng nhóm kỹ sư, bác sĩ và chuyên gia công nghệ thông tin có thể mang về hàng tỷ đô la kiều hối mỗi năm ». Vì sao nhân viên ICE lại bắt giữ hơn 300 lao động Hàn Quốc trong đợt bố ráp ở nhà máy Huyndai-LG - Ellabell, bang Georgia hôm 04/09/2025 : phải chăng do họ không có giấy tờ hợp lệ ? Thông tín viên Trần Công giải thích : « Hệ thống thị thực Mỹ rất đa dạng, với hai nhóm chính : visa không định cư (H-1B, L-1, E, O-1, P, Q…) cho phép lưu trú có thời hạn ; và visa định cư (EB-2, EB-3) cho phép trở thành thường trú nhân. Ngoài ra, công dân Hàn Quốc cũng được hưởng lợi từ chương trình miễn thị thực VWP (Visa Waiver Program), cho phép nhập cảnh 90 ngày với đăng ký ESTA. Vấn đề nảy sinh khi các công ty Hàn Quốc tận dụng VWP để đưa kỹ sư sang Mỹ lắp đặt máy móc, đào tạo nhân sự hoặc tham gia các công việc ngắn hạn. Theo văn hóa doanh nghiệp Hàn Quốc, đây là thông lệ lâu đời: kỹ sư sang Mỹ nhận lương từ công ty mẹ tại Hàn Quốc chứ không phải là nhận tiền lương từ công ty Mỹ. Tuy nhiên, theo luật pháp Hoa Kỳ, mọi hình thức làm việc nhận thù lao, dù từ trong hay ngoài nước, đều bị coi là lao động và cần visa hợp pháp. Hậu quả là ngày 4/9 vừa qua, Cục Di Trú và Hải Quan Mỹ (ICE) đã phối hợp với nhiều cơ quan liên bang tổ chức một chiến dịch truy quét quy mô lớn tại công trường nhà máy pin liên doanh Hyundai Motor - LG Energy Solution ở bang Georgia. Kết quả: 475 người bị bắt giữ, trong đó có hơn 300 công dân Hàn Quốc. Họ bị cáo buộc đã lạm dụng visa du lịch hoặc diện miễn thị thực để làm việc, vi phạm pháp luật Mỹ. Những người Hàn bị bắt sau đó được đưa về nước bằng chuyến bay thuê bao của Korean Air, dưới sự giám sát của cơ quan di trú Mỹ. Chính phủ Hàn Quốc đã phải đàm phán để đảm bảo rằng họ sẽ không bị bất lợi nếu xin tái nhập cảnh sau này. Giọt nước làm tràn ly ? Đợt bố ráp ở bang Georgia vừa qua có tác động đến chính sách đầu tư của Hàn Quốc tại Hoa Kỳ hay không, nhất là vào lúc quan hệ giữa Seoul và Washington đang trong giai đoạn khó khăn vì chính sách thuế quan của Mỹ ? « Sự việc trên diễn ra trong bối cảnh Hàn Quốc đang đẩy mạnh đầu tư quy mô lớn vào Hoa Kỳ. Theo thông báo mới nhất, chính phủ Hàn Quốc đã cam kết đầu tư 350 tỷ đô la (khoảng 488 nghìn tỷ won) vào Mỹ. Tuy nhiên, con số này gây nhiều tranh cãi vì nó vượt quá tổng vốn FDI toàn cầu của Hàn Quốc trong 5 năm qua (2020-2024). Cần so sánh thêm : 350 tỷ đô la mà tổng thống Lee Jae Myung cam kết sẽ đầu tư vào Mỹ nhân chuyến công du Washington hồi tháng 8/2025 - gần bằng FDI trong suốt giai đoạn 25 năm, từ 1990-2024 của Hàn Quốc. Và con số này cũng lớn hơn tổng vốn Hàn Quốc đã đầu tư vào Mỹ trong lịch sử, khoảng 256,3 tỷ đô la. Các chuyên gia, như Giáo sư Kim Woo-cheol (Đại học Seoul), nhận định rằng việc huy động trực tiếp 350 tỷ đô la trong ngắn hạn là « không tưởng », ngay cả khi tính cả các khoản bảo lãnh, vay vốn và công cụ tài chính. Bộ trưởng Thương Mại Yeo Han Koo cũng đã phải giải thích với phía Mỹ rằng điều kiện của Hàn Quốc khác Nhật Bản, và không thể lặp lại mô hình đầu tư mà Tokyo từng cam kết ». Cơ chế hoán đổi tiền tệ Lo ngại này chính là rào cản lớn nhất trong tiến trình đàm phán Mỹ-Hàn hiện nay. Vụ Hoa Kỳ bố rắp người lao động Hàn Quốc chỉ là giọt nước làm tràn ly. Đối thoại song phương đang lâm vào bế tắc do bất đồng về cơ chế hoán đổi tiền tệ. Trả lời phỏng vấn hãng tin Anh Reuters hôm 19/09/2025, tổng thống Lee Jae Myung báo động kinh tế Hàn Quốc « có nguy cơ rơi vào khủng hoảng tương tự như cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 » nếu như trong tiến trình đàm phán thương mại với Washington, Seoul « chấp nhận các yêu sách hiện tại của Nhà Trắng và không có các biện pháp để tự vệ ». Cuối tháng 8/2025 tổng thống Lee cũng công du Hoa Kỳ, lãnh đạo nhiều tập đoàn lớn của Hàn Quốc đã tháp tùng ông đến Washington, trong đó có « tứ trụ của nền công nghiệp xứ Hàn » gồm Hyundai, LG, Samsung và SK Group trong lĩnh vực công nghệ bán dẫn. Trước đó, tháng 7/2025 Hàn Quốc và Hoa Kỳ đã đạt được một thỏa thuận thương mại theo đó Seoul cam kết đầu tư 350 tỷ đô la vào Mỹ, đổi lại hàng hóa xuất khẩu vào Mỹ bị đánh thuế 15 % (tương tự như mức thuế Washington đánh vào hàng Nhật hay của Liên Hiệp Châu Âu bán sang thị trường Hoa Kỳ). Hơn hai tháng sau, thỏa thuận thương mại quan trọng đó vẫn chưa được ghi vào văn bản chính thức. Hãng tinh Anh Reuters ghi nhận bộ trưởng Thương Mại Mỹ Howard Lutnick áp dụng phương pháp « kề dao vào cổ đối phương » qua tuyên bố gần đây « hoặc là Seoul phải chấp nhận thỏa thuận theo các điều kiện của Mỹ, hoặc là phải chịu đánh thuế hải quan ». « Cơ chế hoán đổi tiền tệ - Currency Swap » là một công cụ tài chính để hai ngân hàng trung ương mà ở đây là của Hàn Quốc và Hoa Kỳ, hỗ trợ lẫn nhau trong một thời gian nhất định giúp đối tác ổn định kinh tế và thị trường tài chính. Thí dụ trong trường hợp Ngân Hàng Trung Ương Hàn Quốc, vì một lý do nào đó cần huy động đô la thì sẽ được Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ đưa cho Seoul đô la và nhận vào đồng won. Cơ chế này nhằm giúp ổn định kinh tế và thị trường tài chính. Theo thỏa thuận, Hàn Quốc có thể đầu tư đến 350 tỷ đô la vào Mỹ, nhưng nếu không được Washington áp dụng cơ chế Currency Swap, thì trong trường hợp cấp bách nhất, nền kinh tế thứ tư của châu Á này có nguy cơ bị thiếu hụt tiền mặt. Khi đó Hàn Quốc sẽ bị đẩy vào một cuộc khủng hoảng về tiền tệ và tài chính, tương tự như kịch bản hồi năm 1997. Đó là mối lo tổng thống Lee Jae Myung đã nói tới trong cuộc trả lời phỏng vẫn hãng tin Reuters. Trước mắt Washington chưa chấp thuận đòi hỏi này của Seoul. Vẫn Reuters nhắc lại tổng thống Trump từng khẳng định mọi khoản đầu tư ngoại quốc vào Hoa Kỳ, mọi dự án đều do ông « chọn lọc » và phải đặt dưới quyền kiểm soát của Mỹ. Nói cách khác, Washington tự cho là toàn quyền định đoạt về số vốn đầu tư 350 tỷ đô la - tương đương với 20 % GDP của Hàn Quốc. Nói cách khác, hình ảnh hơn 300 lao động Hàn Quốc bị nhân viên sở di trú Hoa Kỳ còng tay tại Ellabell, bang Georgia hôm đầu tháng không chỉ là giọt nước làm tràn ly mà còn là « cái cây che khuất cánh rừng ». Ai có thể chấp nhận giao 20 % GDP cho Mỹ ? Dù vậy đầu tư 350 tỷ đô la của Hàn Quốc để « tiếp sức » cho nền công nghiệp của Hoa Kỳ không phải là nhỏ. Tổng thống Mỹ Donald Trump đã phải đích thân giải thích rằng Mỹ cần các « chuyên gia nước ngoài » và chính sách nhập cư của Hoa Kỳ không « nhằm cản trở các quốc gia ngoại quốc đầu tư vào Mỹ ». Hôm 11/09/2025, trừ một trường hợp, còn lại tất cả những người lao động Hàn Quốc từng bị nhân viên di trú Mỹ còng tay, đã hồi hương. Seoul tạm ngừng đưa nhân viên sang Hoa Kỳ làm việc. Các tập đoàn công nghiệp lớn của Hàn Quốc như SK, hay Samsung, Lotte Chemical… với những kế hoạch đầu tư đã được xúc tiến, trị giá hàng trăm triệu thậm chí là cả tỷ đô la tạm dừng một số các kế hoạch đang được triển khai ở các bang South Carolina, Tennessee… Darcie Draudt Vejares, ban châu Á thuộc quỹ nghiên cứu Carnegie Endowment ghi nhận : Hàn Quốc đánh cược nhiều vào các dự án đầu tư tại Hoa Kỳ, « giữ khoảng cách với Trung Quốc », nhưng giờ đây chính sách đối nội của Mỹ lại trở thành một chướng ngại vật mà Seoul bắt buộc phải vượt qua. Nhà Trắng đã cử nhân vật số 2 của bộ Ngoại Giao Christopher Landau đến Seoul để « giải độc » sau vụ nhân viên Hàn Quốc bị còng tay. Tổng thống Lee lên đường đến New York dự khóa họp thường niên của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Trước mắt ông không dự trù gặp riêng tổng thống Trump và đàm phán thương mại Mỹ - Hàn không nằm trong chương trình nghị sự. Tuy nhiên thượng đỉnh APEC ở Gyeongju cuối tháng 10/2025 sẽ là cơ hội tốt để tổng thống Hàn Quốc và nguyên thủ Mỹ giải tỏa những hiểu lầm chung quanh vụ nhân viên sở di trú Hoa Kỳ quá sốt sắng thi hành nhiệm vụ bắt giữ người lao động nước ngoài. Vả lại, cho dù về thương mại, Mỹ có bắt chẹt Hàn Quốc, nhưng Washington thừa hiểu rằng trong bối cảnh địa chính trị hiện nay, với mối đe dọa hạt nhân Bắc Triều Tiên ở sát cạnh mà Bình Nhưỡng đã tìm được điểm tựa khá vững chắc là Nga, trước những tham vọng quân sự của Trung Quốc, tổng thống Lee Jae Myung khó để rời xa Washington.
Cơ quan thẩm định tài chính Fitch hạ điểm tín nhiệm Pháp. Hai yếu tố khiến giới đầu tư xem Pháp là điểm đến có phần kém an toàn hơn trước : Nợ công tăng nhanh và bất ổn chính trị gây trở ngại cho việc thực hiện cam kết thu hẹp bội chi ngân sách trong một môi trường càng lúc càng nhiều bất trắc. Yếu tố chính trị làm mất lòng tin Mức nợ của Pháp đang từ AA- bị giáng xuống còn A+ ( tức là nợ của Pháp đang từ hạng được coi như « an toàn cao », bị hạ xuống mức « an toàn trung bình ». Fitch trong thông cáo hôm 12/09/2025 giải thích : « Kể từ sau bầu cử Quốc Hội trước thời hạn 2024, Pháp đã ba lần thay đổi chính phủ. Sự bất ổn đó làm suy yếu khả năng để có được một ngân sách đáng tin cậy. Mục tiêu đã cam kết thu hẹp thâm hụt ngân sách xuống dưới ngưỡng 3 % GDP khó có thể thực hiện ». Viễn cảnh bầu cử tổng thống 2027 lại càng khiến tình hình chính trị ở Pháp « thêm nhiễu nhương », những tranh cãi về ngân sách lại càng gay gắt hơn. Theo cơ quan thẩm định tài chính Fitch, nền kinh tế số 2 của Liên Âu có nguy cơ bị « bế tắc » từ nay cho đến -và thậm chí là sau, cuộc bầu cử 2027. Do vậy các nhà phân tích đồng loạt cho rằng nợ công của Pháp vừa bị cơ quan thẩm định tài chính Fitch giáng điểm tín nhiệm không phải là một bất ngờ. Trên đài RFI Pháp ngữ, chuyên gia kinh tế Mathieu Plane thuộc Đài Quan Sát về tình hình Kinh Tế Pháp OFCE đưa ra những yếu tố giải thích vì sao, cho dù đánh mất AA-, trước mắt Pháp không phải đi vay tín dụng với lãi suất cao hơn. « Bị hạ điểm tín nhiệm không phải là một thảm họa, do không làm thay đổi một cách căn bản tình hình kinh tế của Pháp, và qua đó không ảnh hưởng đến việc Pháp huy động vốn trên thị trường, tức là không tác động đến khả năng thanh toán nợ của Pháp. Tuy nhiên đây cũng sẽ là một tín hiệu xấu, phản ánh mức đáng tin cậy thấp hơn so với trước đây. Hiện tại Pháp đã phải đi vay với lãi suất cao hơn trước đây và điều này đã phản ánh cách mà thị trường tài chính đánh giá và nhìn nhận mức độ rủi ro về nợ công của Pháp (…) Khi các tổ chức xếp hạng đánh giá rủi ro vỡ nợ, họ không chỉ xem xét yếu tố chính trị nhưng đây cũng là một vấn đề mà họ quan tâm. Bên cạnh đó, bản thân các chỉ số về kinh tế mới là quan trọng hơn hết. Nếu nhìn vào nền tảng kinh tế của Pháp thì tình hình không hề tệ. Ai cũng biết, chính trị ở Pháp đang bất ổn và đang bị bội chi ngân sách. Nhưng đồng thời, Pháp có những điểm mạnh khác giúp vượt qua được 2 khó khăn vừa nêu. Không thể so sánh hoàn cảnh của Pháp hiện tại với trường hợp của Hy Lạp hồi 2011. Thực ra việc Fitch hạ điểm tín nhiệm đã được biết trước. Thị trường đã xác định, đã đánh giá mức độ an toàn khi đầu tư vào Pháp. Mức độ an toàn đó bị sụt điểm vì yếu tố chính trị chứ không phải vì rủi ro kinh tế ». Nền tảng tương đối vững chắc Vậy dưới góc độ tài chính, kinh tế, trường hợp của Pháp có gây lo ngại hay không ? Theo giới trong ngành, câu trả lời cũng sẽ là không : là nền kinh tế thứ 7 của thế giới, là một trong 7 quốc gia công nghiệp phát triển nhất, thành viên của Liên Âu này có cơ sở hạ tầng phát triển, có số lượng lao động ở trình độ cao và sức mua của 67 triệu dân Pháp cũng rất hấp dẫn. Tuy nhiên, thâm hụt ngân sách và nợ công cao đang là thách thức lớn, có thể ảnh hưởng đến mức độ ổn định tài chính của quốc gia, nhất là khi hơn 50 % nợ công của Pháp là do các chủ nợ nước ngoài nắm giữ. Về thâm thủng ngân sách, Pháp thuộc khối các quốc gia luôn bị chỉ trích quá « hào phóng » trong việc chi tiêu. Bội chi tương đương với 5,4 % GDP và Paris đang cam kết cắt giảm chi tiêu - giảm 44 tỷ euro trong tài khóa 2026, để từ nay đến cuối 2029 quay trở lại với quy định của khu vực eurozone, giữ thâm hụt ngân sách dưới ngưỡng 3 % GDP. Ở đây đặt ra câu hỏi về tính hiệu quả từ các khoản chi tiêu đã đẩy thâm hụt ngân sách của nước Pháp lên cao. Giải quyết nợ công là một « mệnh lệnh » Về nợ công của Pháp : báo cáo của Ngân Hàng Trung Ương Pháp - Banque de France công bố hôm 15/09/2025 cho thấy : tổng nợ công của Pháp hiện đã vượt ngưỡng 3.300 tỷ euro, tương đương với hơn 114 % GDP. Đây là mức cao nhất từ trước đến nay, cao hơn rất nhiều so với quy định 60 % tổng sản phẩm nội địa của khối đồng tiền chung châu Âu. Thống đốc BDF François Villeroy de Galhau giải thích vì sao nhanh chóng giải quyết nợ công là một « mệnh lệnh » : cuối 2020, Pháp dành 30 tỷ euro để thanh toán nợ đáo hạn. Với đà này chỉ trong 5 năm nữa các phí tổn tài chính ngân hàng mỗi năm sẽ là 100 tỷ euro. Có nghĩa là hàng năm Pháp sẽ « mất đi » thêm 70 tỷ euro để « nuôi »các chủ nợ thay vì dùng số tiền để đầu tư vào cơ sở hạ tầng, đầu tư vào giáo dục, y tế, quốc phòng … Theo quan điểm của giáo sư Jean Tirole, giải Nobel Kinh Tế 2014, các phí tổn về ngân hàng, vốn và lãi phải trả cho các chủ nợ là « một gánh nặng rất lớn » và tệ hơn nữa là những chi phí đó đặt ra vào lúc Pháp cần huy động vốn trước nhiều thách thức mới như phải đầu tư vào công nghệ xanh, công nghệ kỹ thuật số, chống biến đổi khí hậu … Nói cách khác, vì nợ cao và chi phí tài chính là một gánh nặng, Pháp sẽ mất đi khả năng đầu tư vào những lĩnh vực tạo đà cho tăng trưởng trong tương lai. Kinh tế gia Eric Dor Trường Quản Trị Kinh Doanh IESEG Paris ít bi quan hơn so sánh trường hợp của Pháp hiện tại với nhiều nước khác trong khối sử dụng đồng euro : « Một cách cụ thể, thì cho đến hiện tại Pháp đã phải đi vay với lãi suất cao hơn so với nhiều quốc gia khác như Tây Ban Nha hay Bồ Đào Nha cho dù cả nước này cùng có điểm tín nhiệm thấp hơn so với Pháp. Trước mắt việc Pháp đánh mất hai chữ AA không gây ra hậu quả lớn trên thị trường. Nhưng về dài hạn và nhất là trong trường hợp chính trị của Pháp không nhanh chóng ổn định, ngân sách không được thông qua thì lãi suất ngân hàng Pháp phải đi vay sẽ tiếp tục tăng thêm. Đây sẽ là gánh nặng cho người dân phải đóng thuế. Chúng ta không trong kịch bản khủng hoảng nợ công : Pháp không mất khả năng thanh toán và cũng không mất cơ hội tiếp cận thị trường nhưng sẽ phải đi vay tín dụng với lãi suất càng lúc càng cao. Phần lãi và vốn phải trả cho các chủ nợ càng lúc càng năng. Chi phí nợ tăng cao đè năng lên ngân sách. Những khoản chi tiêu khác cần huy động vốn sẽ bị ảnh hưởng ». Pháp vẫn là điểm đến an toàn Trên đài RFI Pháp ngữ, giám đốc nghiên cứu Đài Quan Sát về tình hình Kinh Tế Pháp OFCE Mathieu Plane đánh giá về thực chất Pháp vẫn là điểm đầu tư an toàn « Cái chính ở đây không phải là kinh tế của Pháp sa sút. Tăng trưởng vẫn ở số dương dù không phải là một điều gì ghê gớm nhưng GDP của Pháp vượt trội hơn hẳn so với các thành viên khác trong Liên Hiệp Châu Âu như Áo, Đức, Phần Lan và thậm chí là cả Ý từ 1 năm nay. GDP của Pháp trong năm tăng 0,8 %. Lạm phát được giữ ở mức 2 %. Tỷ lệ thất nghiệp ổn định ở khoảng 7,5 %. Thêm vào đó Pháp có nhiều tiền tiết kiệm mà chúng ta có thể khai thác. Và đấy chính là điểm mạnh tạo nên sự vững chắc kinh tế. Kinh tế Pháp không bị suy thoái dù đang phải đối mặt với một môi trường đầy biến động bất thường. Theo tôi điều đó chứng minh rằng chúng ta có khả năng thích ứng rất nhanh. Điểm đáng lo ngại hiện nay là thâm hụt ngân sách đã quá cao. Giải quyết vấn đề này là chuyện phải làm nhưng chúng ta có phương tiện : dân Pháp có tiền tiết kiện và vì thế mà Pháp không lo vỡ nợ như Hy Lạp hay gặp khó khăn như là Bỉ. Hai quốc gia này không thể tái cấp vốn vì họ có thâm hụt cao mà lại không có tiền tiết kiệm ». Báo cáo về tình hình kinh tế Pháp được cập nhật của Ngân Hàng Trung Ương công bố hôm 15/09/2025 dự báo tăng trưởng trong năm 2025 được duy trì ở mức 0,7-0,8 % Pháp không bị rơi vào suy thoái. Tỉ lệ thất nghiệp ổn định ở mức 7,5 %. Điểm son là chính phủ đã dập tắt được nguy cơ lạm phát. Chỉ số này cho năm nay được giữ ở ngưỡng 2 %. Trong một môi trường với nhiều bất ổn hiện nay cả về thương mại lẫn an ninh, Pháp có thêm lợi thế quan trọng khác trong mắt các nhà dầu tư : đó là một hệ thống pháp luật bảo về quyền sở hữu và hợp đồng nghiêm ngặt. Đó là những yếu tố khiến các chuyên gia cùng khẳng định : Pháp vẫn là bãi đáp an toàn cho các nhà đầu tư quốc tế. Song không thể phủ nhận là những đợt đình công, các phong trào biểu tình đòi quyền lợi cũng là một yếu tố khiến các nhà đầu tư quốc tế cân nhắc. Tân thủ tướng Pháp Sébastien Lecornu vừa nhậm chức. Ông đang tham khảo các đối tác xã hội, các đảng phái chính trị để thành lập nội các. Không có đa số rộng rãi tại Quốc Hội để điều hành đất nước, thủ tướng Lecornu cũng như hai người tiền nhiệm là Michel Barnier và François Bayrou rất dễ bị « bất tín nhiệm » và có thể sẽ không thông qua được dự luật về ngân sách cho năm tới. Các nhà đầu tư đang nhìn về nước Pháp với câu hỏi về độ bền của Sébastien Lecornu ở điện Matignon. Liệu tổng thống Macron có lại giải tán Quốc Hội, cho bầu cử trước thời hạn với nguy cơ hai đảng cực tả và cực hữu lên cầm quyền và khi đó Pháp sẽ lún sâu hơn vào một giai đoạn đầy bất trắc. Cuối tháng 10 và cuối tháng 11 tới đây, đến lượt hai công ty thẩm định tài chính khác là Moody’s và S&P sẽ cập nhật bảng đánh giá về mức độ tín nhiệm với khả năng tài chính phủ Pháp.
Đất hiếm là vũ khí lợi hại giúp Trung Quốc đối mặt với chính sách bảo hộ của Hoa Kỳ. Washington khai thác thuế nhập khẩu vì các mục đích kinh tế và nhất là địa chính trị. Lá chủ bài của Nga là năng lượng. Matxcơva đang dùng đòn « Ngoại giao ống dẫn khí đốt » để phá vỡ gọng kềm trừng phạt của phương Tây, mà mắt xích đầu tiên là Hoa Kỳ. RFI tiếng Việt phỏng vấn Igor Delanoë phó giám đốc Đài Quan Sát Pháp-Nga. Đến dự thượng đỉnh Tổ Chức Hợp Tác Thượng Hải Thiên Tân, dự lễ duyệt binh trên Quảng Trường Thiên An Môn Bắc Kinh, tổng thống Nga Vladimir Putin không bỏ lỡ cơ hội phô trương quan hệ thắm thiết với các lãnh đạo Ấn Độ, Bắc Triều Tiên và đặc biệt là với nước chủ nhà Trung Quốc. Ở Thiên Tân, hôm 01/09/2025 Trung Quốc, Nga và Ấn Độ khẳng định quyết tâm mở rộng tầm hoạt động của Tổ Chức Hợp Tác Thượng Hải (SCO) ra ngoài lĩnh vực an ninh. Các bên đồng ý thành lập một ngân hàng phát triển dành riêng cho các nước thành viên. Bắc Kinh, Matxcơva mạnh dạn hơn trên con đường xây dựng một trật tự thế giới mà ở đó tất cả không còn chỉ xoay quanh các nước phương Tây. Hai ngày sau, tổng thống Nga đến Bắc Kinh dự lễ duyệt binh nhân kỷ niệm 80 năm kết thúc Thế Chiến Thứ Hai và họp thượng đỉnh song phương Nga-Trung. Đây là dịp để lãnh đạo tập đoàn dầu khí Gazprom thông báo Matxcơva và Bắc Kinh « khởi động lại chương trình xây dựng đường ống đưa khí đốt Power of Siberia 2 ». Đây sẽ là tuyến đường thứ ba đưa khí đốt của Nga sang Trung Quốc, sau Siberia 1 và Tuyến đường Phương Đông. Power of Siberia 2, dự án trị giá 12 tỷ euro để xây dựng đường ống từ các mỏ khí của Nga ở Yamal đến khu vực đông bắc Trung Quốc, đi qua Mông Cổ. Một khi đi vào hoạt động, tuyến đường này cho phép cung cấp 50 tỷ mét khối khí đốt hàng năm cho Trung Quốc. Báo chí Matxcơva nói đến « dự án vĩ đại nhất thế giới trong ngành công nghiêp năng lượng ». Yếu tố chính trị trong thỏa thuận năng lượng Nga-Trung Trả lời RFI tiếng Việt, chuyên gia Igor Delanoë phó giám đốc Đài Quan Sát Pháp-Nga CCI, cộng tác viên của Viện Quan Hệ Quốc Tế và Chiến Lược Pháp IRIS, công nhận đây là một dự án vô cùng quan trọng đối với cả Matxcơva lẫn Bắc Kinh vào lúc Nga đã mất đi khách hàng quan trọng nhất là châu Âu. Song người Pháp có câu « le diable se cache dans les détails » nghĩa là thành công hay thất bại của dự án tùy thuộc vào những « chi tiết nhỏ ». Hiện tại còn nhiều « chi tiết » không hề nhỏ, hai đối tác chính là Gazprom của Nga và CNPC của Trung Quốc vẫn còn bất đồng. Igor Delanoë nhắc lại, tuần trước nhiều thỏa thuận hợp tác song phương đã được ký kết tại Bắc Kinh nhân chuyến công du Trung Quốc của tổng thống Vladimir Putin. Igor Delanoë : « Trong quan hệ giữa Nga và Trung Quốc, đôi bên đã ký kết khoảng 20 văn kiện liên quan đến nhiều lĩnh vực : nông nghiệp, y tế, giáo dục, không gian... Tuy nhiên nổi bật nhất là bản ghi nhớ về chương trình xây dựng đường ông dẫn khí Power of Siberia 2. Phía Nga đã nói đến một văn bản có giá trị pháp lý ràng buộc trong thời hạn 30 năm. Quá trình đàm phán đã kéo dài và theo chỗ tôi được biết thì hai tập đoàn Gazprom và CNCP vẫn chưa đạt đồng thuận về nhiều điểm : phía CNCP của Trung Quốc đòi mua khí đốt của Nga với mức giá như là Gazprom bán ra trên thị trường nội địa. Đó là điều kiện tập đoàn Nga không thể thỏa mãn, bởi vì buôn bán như vậy Gazprom không có lợi ích thương mại nào cả ». Khí đốt : Trung Quốc sẽ chấp nhận lệ thuộc đến 60 % vào một đối tác ? Igor Delanoë : « Dự án đường ống dẫn Siberia 2 đã bắt đầu được đàm phán từ lâu nay, nhưng mà trước đó, Siberia 1 đã đi vào hoạt động từ 2019, với công suất hiện tại là 38 tỷ mét khối mỗi năm. Trong chuyến công du Trung Quốc lần này, tổng thống Nga đã đồng ý nâng công suất của Siberia 1 lên tới 44 tỷ mét khối/năm. Hơn nữa giữa Matxcơva và Bắc Kinh còn có một đường ống thứ ba, cho phép xuất khẩu mỗi năm 10 tỷ mét khối khí đốt sang Trung Quốc. Một khi đi vào hoạt động thì đường ống Power of Siberia 2 mới là dự án quan trọng nhất : công suất của đường ống này là 50 tỷ mét khối hàng năm. Như vậy cộng cả ba đường ống để Nga cung cấp khí đốt cho Trung Quốc, trong tương lai Matxcơva có thể xuất khẩu đến 106 tỷ mét khối một năm cho quốc gia châu Á này. Đây là một điểm rất quan trọng đối với Gazprom vào lúc mà thị trường châu Âu đã khép lại – (trước đây mua vào 150 tỷ mét khối/năm). Trung Quốc tuy không thể hoàn toàn thay thế vào chỗ trống Liên Âu để lại, nhưng ít ra thì cũng bù đắp lại được khoảng 2 phần 3 thị phần của châu Âu ». Với Nga, dự án pipeline Siberia 2 rõ ràng là vô cùng quan trọng. Đối với Trung Quốc cũng vậy - nhất là khi mà Bắc Kinh đang đàm phán về giá cả với Gazprom. Chuyên gia về Nga Igor Delanoë lưu ý thêm những điểm như sau : Igor Delanoë : « Trong dự án Siberia 1, đường ống dài 2.200 km nối liền vùng Iakoutie đông Siberia của Nga với tỉnh Hắc Long Giang, đông bắc Trung Quốc, chi phí xây dựng chủ yếu do tập đoàn Nga đài thọ. Sở dĩ mà Gazprom có thể tài trợ là nhờ doanh thu từ xuất khẩu khí đốt sang châu Âu. Châu Âu mua khí đốt của Nga với giá cao. Giờ đây với chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng đó, liệu có sẽ do Trung Quốc đảm nhiệm hay không ? Chưa thể giải đáp câu hỏi này. Hiện tại Gazprom hiện tại đang gặp « khó khăn về tài chính » : ngân sách đầu tư của tập đoàn này cho năm nay giảm 7 % so với hồi 2024. Gazprom phải sa thải 40 % nhân sự tại trụ sở tại Saint Petersbourg ; Tháng 5/2024 lần đầu tiên từ hơn 2 thập niên qua, tập đoàn này thông báo làm ăn thua lỗ (lỗ hơn 3,5 tỷ đô la). Đây là hậu quả trực tiếp từ các biện pháp trừng phạt Âu, Mỹ đánh vào kinh tế Nga từ khi Matxcơva đưa quân xâm chiếm Ukraina ». Mượn bóng Trung Quốc để kích thích Hoa Kỳ ? Do vậy, giới trong ngành cho rằng, tổng thống Putin đã tận dụng chuyến công du Trung Quốc vừa qua để phô trương thành tích trong hợp tác năng lượng với Bắc Kinh. Từ trước đến nay bản thân tổng thống Putin luôn thận trọng với Siberia 2 khi Trung Quốc đòi mua khí đốt của Nga với giá rẻ và đòi Gazprom đài thọ phần lớn các phí tổn xây dựng đường ống. Về phía Bắc Kinh tới nay, Trung Quốc vốn chủ trương không để phụ thuộc quá 50 % vào bất kỳ một nhà cung cấp năng lượng nào. Với Siberia 2, một khi đi vào hoạt động, cùng với hai đường ống đã có sẵn thì Nga sẽ trở thành nguồn cung cấp chiếm đến 60 % nhập khẩu khí đốt của Trung Quốc ! Phải chăng vì chiến tranh Ukraina kéo dài mà hai nhà lãnh đạo quyền lực nhất ở Bắc Kinh và Matxcơva đã thay đổi quan điểm ? Không loại trừ khả năng « văn bản ghi nhớ mang tính ràng buộc » về Power Siberia 2 được thông báo hồi tuần trước là một thông điệp Matxcơva gửi tới Washington. Nga từng chính thức mời tập đoàn dầu khí ExxonMobil của Mỹ « trở lại » với dự án Sakhalin. Hơn một chục ngày sau thượng đỉnh Donald Trump -Vladimir Putin tại Anchorage, Alaska, báo tài chính Mỹ The Wall Street Journal đưa tin ExxonMobil dường như đang đàm phán với Rosneft để tham gia trở lại dự án khai thác dầu khí Sakhalin 1 trong vùng Viễn Đông Nga. Về điểm này chuyên gia Pháp, Igor Delanoë đánh giá : Igor Delanoë : « Có tin đồn rằng người Mỹ có thể quay lại tham gia dự án Sakhalin ở Viễn Đông Nga. Điều này sẽ đòi hỏi Washington phải ngừng trừng phạt Nga để cho phép các tập đoàn của Mỹ quay lại với dự án này. Nhưng chúng ta thấy rõ, tại thượng đỉnh Thiên Tân cũng như là sự kiện ở Bắc Kinh sau đó, hình ảnh thắm thiết giữa Nga - Ấn Độ - Trung Quốc còn là thông điệp nhắm tới Hoa Kỳ. Tuy vậy đây chỉ là một giải pháp tình thế khi các bên xích lại gần nhau vì đừng quên là vẫn có nhiều bất đồng sâu sắc, đặc biệt là về tranh chấp biên giới giữa Ấn Độ và Trung Quốc, rồi gần đây hơn là giữa Ấn Độ với Pakistan mà Mỹ thì đang sưởi ấm quan hệ với Pakistan và cả Trung Quốc thì đã đứng về phía Islamabad. Chẳng qua là do Mỹ gây áp lực với Ấn Độ và đã đẩy thủ tướng Modi vào vòng tay các ông Tập Cận Bình và Vladimir Putin. Đây là khuynh hướng chung. Về phía ông Putin, thông điệp ẩn đằng sau những sự kiện này là gửi đến người Mỹ, để nói rằng: nếu Hoa Kỳ không buông Ukraina, thì cái giá địa chính trị mà họ phải trả là việc củng cố liên minh tam giác Á-Âu gồm Nga, Trung Quốc và Ấn Độ - với các dự án năng lượng như khí đốt sang Trung Quốc và dầu mỏ sang Ấn Độ ». Nga « bắt đúng mạch » của Mỹ Igor Delanoë : « Trong lĩnh vực dầu khí, trước khi nổ ra chiến tranh Ukraina, ExxonMobil có một số dự án hơp tác với Nga ở vùng Bắc Cực và Viễn Đông. Nhưng tất cả đã bị đóng băng hoặc bỏ dở một khi Matxcơva đưa quân sang Ukraina và bị phương Tây trừng phạt. Từ khi Donald Trump trở lại cầm quyền, ông đã nối lại đối thoại song phương với Vladimir Putin. Năng lượng là một hồ sơ được đôi bên thảo luận. Nga đề nghị mời Mỹ quay lại và Matxcơva không chỉ mang dầu hỏa khí đốt ra để nhử mà còn để ngỏ khả năng cùng hợp tác khai thác đất hiếm, hợp tác trong nhiều lĩnh vực khác nữa. Các doanh nhân thân cận với Donald Trump rất chú ý đến điểm này và có thể là Washington đang buông tay với Ukraina để xích lại gần hơn với nước Nga của Vladimir Putin. Để đạt được mục tiêu này, thì điều kiện tiên quyết là đến một lúc nào đó phải dỡ bỏ các lệnh cấm vận kinh tế Nga. Trước mắt các bên mới chỉ bàn thảo đến dự án Sakhalin ». Vẫn Igor Delanoë ghi nhận, Nga dùng lá bài đầu tư, kinh tế, năng lượng và cả khoáng sản để thu hút trước hết là chú ý của các nhóm lợi ích bao quanh tổng thống Trump. Mục đích của Matxcơva là thuyết phục được chủ nhân Nhà Trắng vừa giảm hỗ trợ cho Ukraina, vừa nhờ Hoa Kỳ bẻ gấy mắt xích đầu tiên của loạt trừng phạt nhắm vào kinh tế Nga. Một khi mà Washington dỡ bỏ cấm vận với Nga, thì không có lý do gì để các đối tác của Hoa Kỳ như Nhật Bản, Hàn Quốc và châu Âu tiếp tục cô lập Matxcơva. Rất có thể là Vladimir Putin muốn dùng dự án Sakhalin như công cụ hiệu quả nhất bởi chỉ cần Mỹ thực sự quay lại, đó sẽ là một tín hiệu gửi đến các đối tác khác – hoặc đối tác cũ của Nga – về triển vọng nối lại hợp tác năng lượng. Theo nhà nghiên cứu Igor Delanoë Nhật Bản, Hàn Quốc cũng đang nóng lòng chờ đợi một tín hiệu « thuận lợi » nào đó theo chiều hướng này. Đâu chỉ có Trung Quốc hay Mỹ mới biết dùng các công cụ kinh tế để phục vụ các lợi ích địa chính trị.
Thỏa thuận thuế quan và thương mại Liên Hiệp Châu Âu đạt được với Hoa Kỳ về mức thuế 15 % còn chưa ráo mực, Washington mở thêm một mặt trận mới đòi Bruxelles xóa bỏ mọi rào cản để cho các tập đoàn công nghệ kỹ thuật số của Hoa Kỳ tự do tung hoành trên thị trường châu Âu. Một lần nữa Donald Trump lại sử dụng đòn thuế quan để hù dọa. Châu Âu, « con gà đẻ trứng vàng » của các GAFAM Vì sao chính quyền Trump muốn « phạt » Bruxelles trong lúc Liên Âu là thị trường màu mỡ nhất - ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ, của các tập đoàn Mỹ ? Trong số những vị khách mời có chọn lọc để được trực tiếp dự lễ nhậm chức của tổng thống Hoa Kỳ thứ 47 hôm 20/01/2025, chủ nhân Meta đã mau mắn hơn cả nhờ ông Trump giúp đỡ, nới lỏng các chuẩn mực của châu Âu điều tiết các hoạt động trong lĩnh vực digital. Hơn nửa năm sau, phải chăng Mark Zuckerberg sắp được toại nguyện ? Ngày 24/08/2025 tổng thống Donald Trump trên mạng xã hội cá nhân đã « ra lệnh » cho tất cả những quốc gia trên thế giới dẹp bỏ mọi hình thức thuế quan và luật lệ gò bó hạn chế hoạt động của các tập đoàn Mỹ trong lĩnh vực « digital ». Trong mắt ông, đó là những biện pháp mang tính « phân biệt đối xử ». Kèm theo là lời đe dọa những ai không thỏa mãn đòi hỏi này. Chủ nhân Nhà Trắng không nêu đích danh các mục tiêu Hoa Kỳ nhắm tới nhưng Liên Âu, thị trường số 1 của các ông khổng lồ trong ngành công nghệ High Tech Hoa Kỳ, đã gây dựng nhiều cơ sở pháp lý « tự vệ » mà Donald Trump gọi là những « biện pháp bảo hộ ». Ba cái gai trong mắt Donald Trump Từ tháng 2/2025 chỉ vài tuần sau khi tổng thống Trump trở lại cầm quyền, ông và phó tổng thống J.D Vance -người rất gần gũi với các đại gia trong lĩnh vực digital của Mỹ đã liên tục đòi châu Âu dẹp bỏ những đạo luật và quy tắc « che khuất những thành công rực rỡ » của nhóm GAFAM (Google, Amazon, Facebook, Apple và Microsoft), của những tên tuổi lớn trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, những nhà cung cấp các dịch vụ trên mạng … của Hoa Kỳ. Liên Hiệp Châu Âu hiện có ít nhất 3 đạo luật đang khiến Washington tức giận : Đạo luật Thị trường Kỹ thuật số (DMA), nhằm kiểm soát các hành vi gây trở ngại cho việc cạnh tranh giữa các nhà cung cấp dịch vụ digital. Kế tới là DSA, tức là Đạo luật Dịch vụ Kỹ thuật số nhằm tăng cường tính minh bạch của các thuật toán (algorithm), kiểm soát hoạt động kiểm duyệt nội dung và gần đây nhất là AI Act : đây là bộ luật đầu tiên trên thế giới « quản lý » các khâu phát triển, sử dụng trí tuệ nhân tạo. Theo phân tích của Andrea Renda giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Chính Sách Châu Âu -CEPS, trụ sở tại Bruxelles, đạo luật DSA chẳng hạn do muốn « cân bằng giữa các mục đích bảo vệ người sử dụng và các quyền tự do ngôn luận » nên là « hiện thân của quỷ dữ » như chính Trump đã nói. Vẫn theo chuyên gia này, trong suốt quá trình đàm phán với châu Âu về thuế quan và thương mại, lĩnh vực digital luôn luôn là nỗi ám ảnh của phía Hoa Kỳ. Một khi đạt được thỏa thuận về mức thuế 15 % với Bruxelles (tháng 7/2025) và giành được nhiều nhượng bộ từ phía châu Âu, Washington lập tức « quay lại tiếp tục gây sức ép, đe dọa Liên Hiệp Châu Âu », đòi khối này phải trả giá đắt nếu gây trở ngại cho đà phát triển của các « ông lớn » trong lĩnh vực công nghệ kỹ thuật số của Mỹ. Hơn nữa chính vì các đạo luận DMA và DSA nói trên mà Apple và Meta đã bị châu Âu phạt hàng trăm triệu đô la. Nói cách khác, cuộc chiến sắp tới Washington đang chuẩn bị nhắm vào châu Âu không hề xuất phát từ nhu cầu thu hẹp nhập siêu của Mỹ với 27 thành viên Liên Âu. Trên đài truyền hình Arte, chuyên gia kinh tế và địa chính trị, thuộc Viện nghiên cứu châu Âu Jacques Delors, bà Elvire Fabry cho rằng, các đòn tấn công liên tiếp của Donald Trump trong lĩnh vực thương mại hay sắp tới đây là công nghệ kỹ thuật số nhắm vào châu Âu trước hết không liên quan đến việc Mỹ bị nhập siêu với châu Âu « Phía sau cuộc chiến thương mại này còn có nhiều ý đồ chính trị. Donald Trump tìm cách xé nát Liên Âu ra thành từng mảnh nhỏ nhưng lại vừa muốn tiếp cận thị trường châu Âu giúp cho các hãng của Mỹ. Cùng lúc, Hoa Kỳ mượn tay các đảng phái chính trị cựu hữu ở châu Âu, để khuynh đảo Liên Âu từ ở bên trong. Chính vì thế mà Mỹ hiện đang ủng hộ các đảng cánh cực hữu tại nhiều nước châu Âu ». Về phần Jean Luc Demarty nguyên giám đốc đặc trách về thương mại của Ủy Ban Châu Âu (2011-2019), ông giải thích, ngay cả việc áp dụng « thuế đối ứng » cũng không có cơ sở. « Đành rằng khoản thặng dư mậu dịch của châu Âu đối với Mỹ là rất lớn, và mức xuất siêu đó lại càng tăng thêm trong năm 2024 vừa qua, bởi vì đồng đô la tăng giá. Nhưng đấy chỉ là xét riêng về các khoản xuất và nhập hàng hóa. Nếu cộng cả vế dịch vụ với hàng hóa thì cán cân thượng mại giữa Hoa Kỳ và Liên Hiệp Châu Âu khá cân đối, chênh lệnh chỉ khoảng 50 tỷ đô la chứ không phải là 200 hay 300 tỷ đô la như ông Donald Trump khẳng định ». Liên Âu luôn « run tay » khi cần tự vệ Trong mọi trường hợp, kinh tế gia Shahin Vallée thuộc cơ quan tư vấn về chính sách đối ngoại DGAP trụ sở tại Berlin đánh giá, châu Âu quá nhu nhược trong cuộc đọ sức với Hoa Kỳ. Mỹ đã nắm bắt rõ điều đó ngay từ khi mới chỉ vừa bắt đầu dọa nạt. « Thực ra chiến lược đàm phán của Liên Hiệp Châu Âu chưa bao giờ khiến ông Trump phải lo lắng. Bruxelles đã có nhiều cơ hội để đặt những điều kiện cứng rắn hơn với Hoa Kỳ lên bàn thương thuyết, nhưng đấy chỉ là những lời đe dọa suông. Thậm chí ngay cả khi đề cập đến các biện pháp trả đũa để khỏi bị Washington o ép, châu Âu cũng không thể đồng ý và có một tiếng nói chung. Bruxelles đã ‘run tay’ và ở phía bên kia, Washington thấy rõ điều ấy và đã tận dụng thời cơ ». Một nhược điểm khác của Liên Hiệp Châu Âu mà Hoa Kỳ đã chóng nhận thấy là tính thiếu đoàn kết của khối này. Cuộc chiến Digital còn chưa khai mào mà nhiều nhà phân tích đã báo động « coi chừng Đức sẽ bán rẻ tham vọng độc lập của châu Âu về kỹ thuật số cho Hoa Kỳ » để được Washington nương tay khi đánh vào công nghiệp xe hơi Đức. Mỹ cũng biết sử dụng chiến thuật « chia để trị ». Liên Hiệp Châu Âu đối tác nặng ký nhất của Mỹ Vài con số về trao đổi mậu dịch hai chiều : tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ giữa Liên Hiệp Châu Âu và Mỹ năm 2024 vượt hơn 1.600 tỷ đô la (867 tỷ euro cho hàng hóa và 817 tỷ euro cho dịch vụ). Để so sánh, theo các thống kê chính thức của Mỹ (US Bureau of Economic Analysis) cùng thời kỳ, trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới, tức Mỹ và Trung Quốc, là 660 tỷ đô la. Nghịch lý ở đây là Liên Hiệp Châu Âu tuy là khách hàng lớn nhất của Mỹ mà vẫn bị chèn ép. Hôm 27/07/2025 chủ tịch Ủy Ban Châu Âu, Ursula von der Leyen và tổng thống Mỹ Donald Trump đã đạt được một thỏa thuận quan trọng nhằm « tăng cường quan hệ thương mại và đầu tư » song phương và cũng vì thỏa thuận này bà đã bị nhiều thành viên trong khối chỉ trích gay gắt. Để hàng của châu Âu xuất khẩu sang Hoa Kỳ bị đánh thuế 15 % , thay vì 30 % như Donald Trump từng đe dọa, Liên Âu đã vội vã hứa mua thêm hơn 700 tỷ đô la dầu hỏa và khí đốt của Hoa Kỳ trong ba năm sắp tới và đầu tư thêm 600 tỷ đô la vào Mỹ từ nay đến năm 2029. Hàng rào phi quan thuế Nhưng bên cạnh đó, văn bản được ký kết còn kèm theo một điều khoản buộc các bên giảm thiểu các hàng rào phi quan thuế để thúc đẩy mâu dịch hai chiều. Chính trên điểm này Washington chuẩn bị một đợt tấn công sắp tới nhắm vào Liên Âu. Liên Hiệp Châu Âu là thị trường chiếm 27 % doanh thu của Google, 23 % thu nhập của Meta. Nhờ có 450 triệu dân châu Âu mà mỗi năm Marck Zuckerberg thu về 38 tỷ đô la … còn với ông Sundar Pichai, trong cương vị chủ tịch tổng giám đốc Alphabet Inc, công ty mẹ của Google thì năm ngoái Liên Hiệp Châu Âu cho phép thu về 90 kiếm được 96 tỷ đô la nhờ Liên Hiệp Châu Âu. Trong cuộc chiến về công nghệ kỹ thuật số đang manh nha giữa hai bờ Đại Tây Dương, chủ đích của tổng thống Trump là « diệt trừ hiểm họa » châu Âu cũng sẽ có những nhà vô địch trong thế giới digital.
Thuế quan và các đòn hù dọa phải chăng đang trở thành những công cụ chính trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ và hiệu quả đến đâu ? Dấu ấn tám tháng đầu nhiệm kỳ hai của tổng thống Donald Trump là những thông báo về mức thuế hải quan, là những tuyên bố Washington đạt được thỏa thuận về khoáng sản quan trọng với một số quốc gia, là hình ảnh nhiều lãnh đạo trên thế giới hối hả cam kết mua thêm hàng và đầu tư thêm cả trăm tỷ đô la vào Mỹ. Căn cứ vào những thông báo chính thức của Nhà Trắng, nếu không có thay đổi giờ chót, kể từ ngày 27/08/2025 một số mặt hàng của Ấn Độ xuất khẩu sang Hoa Kỳ sẽ bị đánh thuế đến 50 %. Ấn Độ bị « phạt » vì vẫn mua vũ khí của Nga và phớt lờ lệnh trừng phạt quốc tế vẫn nhập khẩu dầu hỏa của Nga. Gây áp lực với Ấn Độ, có là thượng sách ? Trung Quốc cũng mua dầu của Nga nhưng tổng thống Trump « không vội » trừng phạt Bắc Kinh. Vào lúc bị Hoa Kỳ o ép, New Delhi và Bắc Kinh sưởi ấm quan hệ : Cuối tháng này, thủ tướng Narendra Modi sẽ đến Thiên Tân, dự thượng đỉnh Tổ Chức Hợp Tác Thượng Hải. Mức thuế 50 % Mỹ đòi nhắm vào một số mặt hàng của Ấn Độ ít có khả năng « ly gián » New Delhi với Matxcơva : Ấn Độ là nguồn nhập khẩu dầu hỏa lớn thứ ba trên thế giới mà 37 % tiêu thụ nội địa tại quốc gia Nam Á này là dầu của Nga. Trên thị trường vũ khí Nga là đối tác quan trọng nhất của Ấn Độ, chiếm 36 % thị phần trong giai đoạn 2000-2024. Cùng lúc quan hệ giữa New Delhi và Washington đã xấu đi nhanh chóng từ tháng 4/2025 vì các biện pháp thuế quan thì Mỹ sưởi ấm quan hệ với Pakistan, một đối thủ truyền thống của New Delhi. Nhìn từ Úc, trung tâm nghiên cứu Lowy Institute không khỏi lo ngại là các đòn hù dọa và thuế quan của chính quyền Trump làm suy yếu liên minh Đối Thoại Tứ Giác An Ninh còn được gọi là Bộ Tứ QUAD gồm Mỹ, Nhật Bản, Úc và Ấn Độ : QUAD là một cột trụ của Hoa Kỳ để làm đối trọng với Trung Quốc trong chiến lược Châu Á-Thái Bình Dương. Hù dọa Trung Quốc : Phản tác dụng Với Trung Quốc, trong tám tháng qua tổng thống Trump gần như hàng ngày đều nhắc đến nền kinh tế số 2 toàn cầu, kể cả khi ông tiếp các lãnh đạo quốc tế như trong cuộc họp với tổng thống Hàn Quốc hôm 25/08/2025. Đàm phán thuế quan giữa Washington và Bắc Kinh đang tiếp diễn và Mỹ đã liên tục triển hạn cho Trung Quốc có thêm thời gian để điều đình về thương mại. Đáng chú ý hơn là với đối thủ này, các đòn hù dọa có phần phản tác dụng. Mỹ áp thuế Trung Quốc thì Bắc Kinh đáp trả bằng đất hiếm. Về công nghệ, Trung Quốc cũng không để bị lất lướt. Nhà Trắng gần đây đã đồng ý cho tập đoàn Nvidia cung cấp thiết bị điện tử « cao cấp », bọ H20 cho các đối tác tại Hoa Lục. Nội các Trump không che giấu là trên thương vụ này, 15 % doanh thu của Nvidia sẽ thuộc về nhà nước. Nhưng Bắc Kinh đã dội một gáo nước lạnh vào tham vọng đó khi cho mở điều tra, vì nghi ngờ « H20 không an toàn » đồng thời kêu gọi các tập đoàn Trung Quốc như như ByteDance, Alibaba, Tencent rất ưa chuộng loại bộ xử lý đồ họa này của Nvidia tránh dùng « hàng ngoại ». Hệ quả kèm theo là tập đoàn Mỹ, Nvidia, hôm 25/08/2025 tạm ngừng sản xuất H20 để dành cho các khách hàng Trung Quốc. Nhật-Hàn và Châu Âu những thắng lợi lớn của Mỹ Bên cạnh hai hồ sơ gai góc là Ấn Độ và Trung Quốc vừa nêu, trong cuộc chiến « thuế đối ứng », chính quyền Trump đã dễ dàng áp đảo các đối thủ : Anh Quốc là một trong số những bên hiếm hoi nhanh chóng được « ưu đãi », với mức thuể chỉ là 10 %. Ngay cả những « đồng minh chiến lược truyền thống » của Washington như Liên Hiệp Châu Âu, Nhật Bản hay Hàn Quốc đều phải chịu mức thuế đến 15 %. Philippines kém may mắn hơn vì hàng xuất khẩu sang Mỹ sẽ bị đánh thuế 19 %. Để đối lấy mức thuế đối ứng 15 % Nhật Bản, Hàn Quốc và nhất là Liên Âu đều áp dụng một công thức : cam kết mua thêm thật nhiều hàng của Mỹ để thu hẹp xuất siêu với Hoa Kỳ, hứa hẹn đầu tư hàng trăm tỷ đô la vào Mỹ trong tương lai. Chủ tịch Ủy Ban Châu Âu, Ursula Von der Leyen đang bị công kích gay gắt vì đã nhượng bộ Donald Trump quá nhiều khi hứa hẹn mua thêm hơn 700 tỷ đô la năng lượng của Mỹ trong 3 năm sắp tới, kèm theo đó là hàng loạt các dự án « rót » thêm đến gần 600 tỷ đô la đầu tư. Tổng thống Hàn Quốc Lee Jae Myung, lần đầu tiên đến Nhà Trắng đã mang theo cam kết đầu tư 150 tỷ đô la vào Mỹ với hy vọng ông Trump nhẹ tay khi đánh thuế hàng Made In Korea. Trước mắt Nhà Trắng duy trì mức thuế 15 % với Hàn Quốc. Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn Tuần trước, họp với tổng thống Ukraina và nhiều lãnh đạo châu Âu, tổng thống Mỹ đã khoe ông giải quyết được 6 - thậm chí là 7, cuộc xung đột trên thế giới mà không cần có một lệnh ngừng bắn làm tiền đề. Gần đây nhất là giao tranh ở biên giới Cam Bốt-Thái Lan. Điều ông Trump không nói ra hôm đó, là các cuộc xung đột tổng thống Hoa Kỳ muốn nói đến vẫn còn âm ỉ. Đồng thời bản hòa ước giữa Armenia và Azerbaidjan bao gồm một điều khoản liên quan đến dự án thành lập một « hành lang vì hòa bình và thịnh vượng quốc tế mang tên Trump : The Trump Route for International Peace and Prosperity (TRIPP) ». Để vãn hồi hòa bình cho hai nước châu Phi là Rwanda và Cộng Hòa Dân Chủ Congo (hiêp kịnh ký ngày 27/06/2025) thì cả hai quốc gia này cùng cam kết sẽ mở cửa cho các tập đoàn Mỹ vào khai thác tài nguyên. Tương tự như vậy để nhanh chóng vãn hồi hòa bình ở biên giới Cam Bốt-Thái Lan, tổng thống Trump đã mang thuế quan ra để dụ và dọa hai quốc gia Đông Nam Á này. Kết quả là thủ tướng Hun Manet ca ngợi công lao của ông Trump hết lời và vội vàng đề nghị trao Nobel Bình cho nguyên thủ Mỹ. Riêng với Ukraina, trở lại Nhà Trắng tổng thống Volodymyr Zelenski đưa ra cam kết mua 100 tỷ đô la vũ khí và thiết bị quân sự của Hoa Kỳ. Báo tài chính Anh, Financial Times nhận định : Hợp đồng 100 tỷ đô la để đổi lấy bảo hiểm an ninh của Mỹ. Trong cuộc hội đàm qua cầu truyền hình hai ngày sau các cuộc họp tại Washington, phó giám đốc Đài Quan Sát Pháp-Nga, Igor Delanoe cho rằng, tổng thống Zelensky và các nước đồng minh yểm trợ ông đã hiểu rằng với tổng thống Donald Trump những, đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn : Igor Delanoe : « Hai sự kiện ở Alaska cũng như tại Washington, thực ra là một cuộc đọ sức về mặt chiến lược giữa một bên là Ukraina cũng các đồng minh châu Âu và bên kia là nước Nga của ông Putin để tranh thủ lôi kéo Donald Trump về phía mình. Sau hai hiệp đấu đầu tiên đó, tạm thời Nga là bên thắng cuộc. Chúng ta thấy tổng thống Hoa Kỳ giữ nguyên lập trường là không cần một lệnh ngừng bắn, làm tiền đề cho các đàm phán vãn hồi hòa bình. Châu Âu nhắc lại đòi hỏi có lệnh ngừng bắn, nhưng Trump đã xua tan tất cả khi khẳng định là ông đã giải quyết 6 cuộc xung đột mà không cần có lệnh ngừng bắn. Một điểm quan trọng khác, thượng đỉnh Alaska và các cuộc họp ở Washington diễn ra trong hai bối cảnh hoàn toàn khác : tại Alaska, Nga và Mỹ là hai cường quốc, ngang hàng đối thoại với nhau. Trái lại ở Washington, Ukraina và châu Âu trong thế đi năn nỉ. Tổng thống Zelensky mang 100 tỷ đô la -tiền của châu Âu ra "làm đầu câu chuyện" trước khi đàm phán với Trump. (…) Sau các cuộc họp ở Washington vừa qua, ngược thời gian, trở lại với thượng đỉnh của Liên Minh Bắc Đại Tây Dương ở Hà Lan, rồi cuộc họp giữa chủ tịch Ủy Ban Châu Âu, Ursula von der Leyen với nguyên thủ Mỹ ở Scotland hồi tháng 7 và lần này tại thủ đô Washington thì mỗi lần, châu Âu đều phải chi ra rất nhiều tiền : tại Hà Lan các thành viên cam kết tăng chi tiêu quân sự, mà chủ yếu là để mua vũ khí của Hoa Kỳ. Tại Scotland, để chỉ bị đánh thuế hải quan 15 %, bà Ursula von der Leyen cam kết mua hàng trăm tỷ đô la năng lượng của Mỹ và đầu tư không biết bao nhiêu vào Mỹ trong những năm sắp tới. Giờ đây châu Âu lại đưa thêm 100 tỷ đô la cho Ukraina mua vũ khí, thiết bị quân sự của Hoa Kỳ. Mấy trăm tỷ đô la trong vài ba tháng. Châu Âu đặt lên mặt bàn một số tiền rất lớn. Trump thì chủ trương ép cho bằng được để có thêm đồng nào tối đồng nấy mỗi lần ông họp với các nước châu Âu ». Hù dọa, vô ích với Nga Theo quan điểm của Arnaud Dubien giám đốc Đài Quan Sát Pháp-Nga, với Matxcơva, tổng thống Mỹ tuy có hù dọa nhưng « chẳng ăn thua ». Arnaud Dubien : « Tại Alaska, Mỹ không ban hành thêm các lệnh trừng phạt mới nhắm vào kinh tế Nga. Ngoại trưởng Rubio đã xác nhận điểm này. Điều đó phản ánh tâm trạng của chính quyền Trump vào thời điểm hiện tại. Bên cạnh đó thì cũng đã không có những thông báo, không có tín hiệu nào về việc Nga -Mỹ nối lại hợp tác về kinh tế, cũng như trong một số lĩnh vực cụ thể như công nghệ hàng không, các hoạt động thăm dò ở Bắc Cực... Nối lại hợp tác song phương là một lằn ranh đỏ mà chính quyền Trump đã không vượt qua. Ít ra là cho đến hiện tại, Mỹ chủ trương chỉ mở rộng đối thoại với Nga trên những lĩnh vực khác nếu như đạt được một số tiến triển trên hồ sơ Ukraina. Về phía Matxcơva, Nga đã loan báo cho phép tập đoàn dầu khí ExxonMobil tham gia trở lại dự án Sakhalin 1 để cùng thăm dò và khai thác dầu ở ngoài khơi. Dù vậy các dự án hợp tác hiện vẫn bị đóng băng. Một điểm khác nữa là vấn đề giới hạn vũ khí hạt nhân, một chủ đề mà Donald Trump từng nhắc tới khi ông trên đường từ Washington đến Alaska, nhưng về mặt chính thức, không thấy đôi bên đả động đến hồ sơ nay (…) Alaska là một thượng đỉnh quan trọng theo truyền thống các cuộc họp thượng đỉnh giữa Hoa Kỳ với Liên Xô rồi với Nga. Vladimir Putin và Donald Trump phô trương một thái độ gần gũi. Tuy nhiên không có bất kỳ một thỏa thuận nào được đưa ra cuộc họp và cũng không thể chờ đợi có những kết quả từ một cuộc gặp ngắn ngủi đó. Theo quan điểm cá nhân, phía Nga đã đưa ra một lập trường cứng rắn hơn. Còn về phía Hoa Kỳ thì tổng thống Trump muốn nhanh chóng thúc đẩy hồ sơ Ukraina. Chính sự nóng ruột này dẫn đến việc rất có thể là Washington ngả theo quan điểm của Vladimir Putin, kể cả trong trường hợp là điều đó có bất lợi cho Ukraina đi chăng nữa ».
Văn hóa, giáo dục, tư cách, lòng yêu nước là một phần của phép lạ kinh tế Nhật Bản. Mô hình ấy đã « lan tỏa » đến những nền kinh tế khác trong khu vực, từ Hàn Quốc đến Đài Loan hay Trung Quốc. Đang « chuẩn bị cho một kỷ nguyên mới », bắt đầu vào năm 2026, « thử xem kinh nghiệm của Nhật Bản » có thể giúp ích gì cho Việt Nam ? RFI giới thiệu Hồi Ức Đến Tương Lai- của GS Trần Văn Thọ. Tháng 5/2025 tiến sĩ kinh tế Trần Văn Thọ vừa cho ra mắt độc giả tại Việt Nam cuốn sách mang tựa đề Hồi Ức Đến Tương Lai - Suy ngẫm về văn hóa, giáo dục và con đường phát triển của Việt Nam - NXB Đà Nẵng. Sang Nhật du học từ năm 1968, chọn học ngành kinh tế, đặc biệt là kinh tế phát triển và kinh tế quốc tế, tác giả từng giảng dậy tại các đại học danh tiếng như Đại học Obirin và Waseda ở Tokyo. Ông nguyên là thành viên Tổ Tư Vấn Kinh Tế của nhiều thủ tướng Việt Nam, là người đóng góp rất nhiều trong quan hệ giữa hai quê hương của ông là Việt Nam và Nhật Bản. Giáo sư Thọ cũng đã cho xuất bản nhiều cuốn sách về kinh tế Nhật Bản và Việt Nam*. Cuốn Hồi Ức Đến Tương Lai-Suy ngẫm về văn hóa, giáo dục và con đường phát triển của Việt Nam, hơn 500 trang, tập hợp những bài viết tác giả đã cho đăng trên các tờ báo ở Việt Nam và hải ngoại. Đây là những bài viết về kinh tế, về văn hóa, văn học Việt Nam và Nhật Bản về những tấm gương sáng trong sử sách tại hai quốc gia nói trên. Trong khuôn khổ hạn hẹp của chương trình, xin chỉ tập trung vào những bài viết của giáo sư Trần Văn Thọ về mô hình phát triển thần kỳ Nhật Bản, Hàn Quốc ; về quá trình phát triển, về « những cơ hội bị bỏ lỡ », về « sự chuẩn bị cho một kỷ nguyên mới » của Việt Nam. Ở những trang đầu cuốn sách giáo sư Trần Văn Thọ viết : « Học tập và làm việc tại Nhật, tôi được chứng kiến giai đoạn phát triển thần kỳ của nước này và hiện tượng lan tỏa kinh tế từ Nhật sang Hàn Quốc, Đài Loan rồi đến một số nước ASEAN và Trung Quốc, tạo nên vùng kinh tế năng động châu Á Thái Bình Dương. Việt Nam nằm giữa vùng năng động này, nhưng chỉ từ khi có đổi mới chuyển sang thể chế kinh tế thị trường, chúng ta mới có điều kiện tham gia vào quá trình phân công quốc tế này (…) Tuy nhiên Việt Nam tiến hành cải cách quá chậm, một phần do một số lãnh đạo lo ngại phát triển chệch hướng, nhiều quan chức thì muốn duy trì những lợi ích từ thể chế cũ. Việt Nam đã bỏ lỡ nhiều thời cơ nên thành quả phát triển bị hạn chế nhiều. Trong khi các nước chung quanh, nhất là Trung Quốc phát triển mạnh mẽ. » (tr. 21). Năng lực xã hội Nhật Bản Đi sâu hơn vào trường hợp của Nhật Bản giáo sư Trần Văn Thọ nói về bí quyết phát triển của xứ hoa anh đào : « Nhật Bản là nước đi sau trong dòng thác công nghiệp của thế giới, đã tích cực thu nhập công nghệ, chế độ và tri thức quản lý từ các nước tiên tiến Âu Mỹ và đã thành công trong việc đuổi kịp các nước đi trước ». Đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và bài viết về thành công của Nhật Bản, về chiến lược phát triển công nghiệp của quốc gia này, riêng giáo sư Thọ, ông đã « thử tìm một nguyên nhân tổng hợp nhất » để các nước đi sau Nhật Bản có thể tham khảo. Nguyên nhân là cái mà tác giả gọi là « năng lực xã hội » tức là : « Năng lực và tố chất của các nhân tố cấu thành xã hội, cụ thể là chính trị gia, quan chức, lãnh đạo kinh doanh, trí thức và tầng lớp lao động. Mỗi nhân tố này phải có những tố chất nào để thúc đẩy kinh tế phát triển. » (tr.23). Giáo sư Thọ ở những trang 153 -154 giải thích cặn kẽ hơn : « Tố chất quan trọng nhất của một chính trị gia là năng lực lãnh đạo, của một quan chức là quản lý hành chính, của một doanh nhân là tinh thần doanh nghiệp » và không chỉ có thế : « Tố chất chung nhất của chính trị gia, của quan chức, của nhà kinh doanh Nhật Bản là lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc và phải là những người có văn hóa, có giáo dưỡng. Tố chất này biểu hiện rất rõ qua những câu chuyện về lãnh đạo chính trị, về những nhà kinh doanh tiêu biểu thời Minh Trị cũng như thời kỳ phục hưng và hậu chiến, những tố chất đó biểu hiện mạnh mẽ nhất ». Trong trường hợp của một nhà kinh doanh chẳng hạn, để thành công, thì cần « có tinh thần mạo hiểm, có năng lực cách tân công nghệ, tích cực khám phá thị trường, ứng dụng công nghệ để làm ra các sản phẩm và dịch vụ cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu của thị trường ». Những nhà kinh doanh tiêu biểu của Nhật không phải chỉ có thế : « Hầu hết các nhà sáng lập những công ty tiêu biểu của Nhật hiện nay đều xuất phát từ lòng yêu nước, từ trách nhiệm xã hội » mà điển hình là câu nói để đời của đồng sáng lập viên tập đoàn Sony, Ibuka Masaru. Trong diễn văn năm 1946, giữa cảnh hoang tàn, đổ nát của đất nước một năm sau chiến tranh nhà kinh doanh này tuyên bố : « Ta phải nỗ lực đem công nghệ góp phần phục hưng tổ quốc. » (tr.154). Từ giữa thập niên 1950 Nhật Bản đã bước vào giai đoạn phát triển cao độ với tăng trưởng kinh tế trung bình 10% trong suốt thời gian 18 năm. Hàn Quốc dựng nước trên cơ sở học tập của nước ngoài Hàn Quốc cũng vậy, quốc gia này cũng đã làm nên phép lạ kinh tế để mới chỉ năm 1962 còn là một trong những nước nghèo nhất thế nhưng chỉ ba thập niên sau đã trở thành một quốc gia tiên tiến (1996). Giáo sư Trần Văn Thọ phân tích : « Hàn Quốc thành công vì hai yếu tố chính. Thứ nhất, ngay từ đầu đã có ngay sự đồng thuận của xã hội về sự cần thiết phải phát triển, phải theo kịp các nước tân tiến. Nhất là theo kịp Nhật (nước láng giềng từng đô hộ mình). Để có sự đồng thuận, năng lực, ý chí và chính sách của lãnh đạo chính trị là quan trọng nhất. Dù dưới chế độ độc tài (..) quyết tâm phát triển của lãnh đạo chính trị được thể hiện bằng các chiến lược và chính sách do lớp kỹ trị xây dựng, quan chức được tuyển chọn theo năng lực, người tài được trọng dụng. Thứ hai, Hàn Quốc đã thực hiện công nghiệp hóa trên cơ sở của học tập (…) Học tập nước ngoài và học tập để có điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế lên cao, đưa vị trí đất nước lên cao trên vũ đài thế giới ». (tr.23). Xác định vị trí trên thế giới bằng tinh thần dân tộc Giáo sư Trần Văn Thọ nhận thấy trong quá trình công nghiệp hóa, Nhật Bản, Hàn Quốc và những nước đi sau đã có nhiều mẫu số chung : « Lấy chủ nghĩa dân tộc để xác định vị trí của mình trên thế giới », để đề xuất chiến lược có lợi nhất cho đất nước, để động viên toàn dân đuổi kịp các nước đi trước. Các quốc gia này đều đã « đề cao chủ nghĩa phát triển » khi nhận thấy rằng « phát triển là con đường duy nhất để thoát khỏi những nguy cơ trước mắt và lâu dài ». Điểm tương đồng thứ ba là các nền kinh tế đó đã « huy động các tầng lớp trí thức, kỹ trị có năng lực để hoạch định chiến lược phát triển, trọng dụng nhân tài (...) loại trừ tất cả các quan hệ họ hàng, huyết thống, bản vị địa phương và giai tầng xuất thân trong xã hội ». Việt Nam đã đúng nghĩa là một quốc gia tiên tiến ? Việt Nam đương nhiên là trọng tâm cuốn sách có tiểu tựa : Suy ngẫm về văn hóa, giáo dục và con đường phát triển của Việt Nam. Tác giả băn khoăn với câu hỏi : « Tại Đại hội toàn quốc lần thứ 13 (tháng 1/2021) Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước tiên tiến phát triển thu nhập cao vào năm 2045 » (tr.25) nhưng Việt Nam đã « đúng nghĩa là một quốc gia tiên tiến hay chưa ? ». Cần làm những gì để đạt đến mục tiêu đó ? Sau đổi mới, kinh tế Việt Nam phát triển trung bình 6,5 % mỗi năm, đạt mức thu nhập trung bình thấp năm 2008 và hiện nay đang tiến đến mức thu nhập trung bình cao. Năm 2023 tổng thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam là 4.316 đô la, dự kiến sẽ đạt ngưỡng trung bình cao trong vài năm tới. Giáo sư Thọ trong cuốn sách vừa cho ra mắt độc giả phân tích : trong trường hợp của Việt Nam, « để trở thành một quốc gia tiên tiến phát triển thu nhập cao vào năm 2045, tăng trưởng bình quân trong 20 năm tới phải là 6 % ». Để đạt được mục tiêu đó, Việt Nam cần vượt qua những rào cản mang tính « định lượng » và « chất lượng ». Riêng về chất lượng, tác giả nêu bật hai nhóm vấn đề cần chú ý. Nhóm 1 liên quan đến 2 « vấn đề tồn tại từ lâu nhưng chưa được giải quyết » : « Một là bộ máy công quyền và tình trạng giáo dục như hiện nay rất xa lạ với một nước đang trên đường tiến tới một quốc gia tiên tiến. Thu nhập ngoài lương của công chức, quan chức còn rất lớn, gây ra tệ nạn tham nhũng và làm cho bộ máy nhà nước kém hiệu quả » và « Hai là chất lượng của kinh tế thị trường cần được cải thiện sớm (..) vì hiện nay ở Việt Nam, nhiều người vẫn còn hiểu sai về kinh tế thị trường. Họ không hiểu rằng giao dịch và trao đổi (..) chỉ bền vững khi chất lượng của thị trường được bảo đảm », mà hiện tại thì chất lượng đó lại « liên quan đến chất lượng, đến sự tin cậy giữa các bên tham gia » (tr. 27). Nhóm vấn đề thứ hai liên quan đến hình ảnh của một đất nước và tác giả cuốn Hồi Ức Đến Tương Lai đã tóm tắt những điểm như sau mà đầu tiên hết trong nhóm này là quyền lực mềm : « Cho đến nay, sức mạnh kinh tế và quân sự thường được sử dụng để ảnh hưởng đến nước khác thông qua các quan hệ quốc tế về chính trị, quân sự, kinh tế gọi là sức mạnh cứng, hard power » nhưng bên cạnh đó quyền lực mềm có thể nâng cao vị trí của một quốc gia trên trường quốc tế. « Sức mạnh mềm đó thể hiện qua sức mạnh văn hóa, uy tín quốc tế và sự lôi cuốn, hấp dẫn của một quốc gia, một dân tộc » (tr.27-28). Tác giả đặc biệt chú trọng đến những yếu tố chất lượng cuộc sống : « Cần làm cho thành quả phát triển mang lại hạnh phúc cho tuyệt đại đa số dân chúng. Nhìn chung kinh tế càng phát triển, con người càng được hạnh phúc vì thỏa mãn được các nhu cầu trong cuộc sống. Tuy nhiên cần thêm hai điều kiện : môi trường sống và tình hình phân phối thu nhập. Ô nhiễm môi trường, ách tắc giao thông.. làm giảm chất lượng cuộc sống. Phân phối thu nhập quá bất bình đẳng làm cho tầng lớp thu nhập thấp chẳng những chẳng được cải thiện mà còn cảm thấy bất mãn khi thấy xã hội bất công (...). Đây là mầm mống gây bất ổn xã hội » (tr.29). Tính tự chủ về kinh tế Song để phát triển vững mạnh thì yếu tố quan trọng không kém là « tính tự chủ về kinh tế » của một quốc gia và tác giả so sánh : « Giữ vững độc lập tự chủ về kinh tế » nghĩa là làm thế nào để « tránh được các cú sốc từ sự thay
Vãn hồi hòa bình tại Ukraina không phải là ưu tiên của cả Trump lẫn Putin. Trong phiên giao dịch 11/08/2025, bốn ngày trước thượng đỉnh Alaska, chỉ số chứng khoán tại Matxcơva tăng giá, phản ánh kỳ vọng của giới đầu tư Nga trước những viễn cảnh kinh tế tươi sáng hơn : Mỹ ngừng các biện pháp trừng phạt Matxcơva về việc xâm chiếm Ukraina. Chấm dứt chiến tranh Ukraina hay thảo luận để đưa đầu tư của Mỹ trở lại Nga mới là trọng tâm thượng đỉnh Trump- Putin ngày 15/08/2025 ? Tháng 2/2025, một tuần lễ sau cuộc điện đàm đầu tiên giữa tổng thống Mỹ thứ 47 Donald Trump và đồng cấp Nga Vladimir Putin, Quỹ đầu tư quốc gia của Nga dự phóng « từ quý 2/2025, một số công ty Mỹ sẽ quay lại » Nga. Cuối tháng 3/2025, đặc phái viên của điện Kremlin Kirill Dmitriev khẳng định, lãnh đạo hai nước đã « bắt đầu đàm phán về hợp tác khai thác đất hiếm và các dự án khác ở Nga ». Cũng nhân vật này, được báo Anh The Guardian trích dẫn, đã đầy tự tin tuyên bố các công ty dầu khí của Hoa Kỳ « không bỏ qua cơ hội tiếp cận tài nguyên của Nga ». Washington dưới chính quyền Trump và điện Kremlin thẳng thắn nhìn nhận « những thỏa thuận kinh tế khổng lồ là một phần trong mối bang giao » giữa hai quốc gia, như tác giả cuốn Zero Sum: The Arc of International Business in Russia, Charles Hecker đã ghi nhận trên tạp chí tài chính Fortune. Đất hiếm và khoáng sản, chiêu bài của Nga dễ « dụ » Mỹ Vào lúc Trung Quốc, một đối tác mật thiết của Nga, đã khai mào cuộc chiến đất hiếm với Hoa Kỳ, rồi Washington o ép Kiev để đạt cho bằng được một « thỏa thuận khổng lồ về khoáng sản » dễ dàng mở đường cho Putin dùng lá bài đất hiếm để « nói chuyện » với chủ nhân Nhà Trắng. Đầu tháng 3/2025, lãnh đạo điện Kremlin đã nhấn mạnh « sẵn sàng hợp tác với các đối tác Mỹ, gồm cả các tập đoàn nhà nước và tư nhân » trong các dự án đồng khai thác đất hiếm, và « Nga có thể giúp làm hạ nhiệt thị trường nhôm, qua việc cho phép xuất khẩu trở lại » mặt hàng này sang Hoa Kỳ. Tổng thống Putin đã chỉ định một người thân tín dẫn đầu phái đoàn đàm phán với Washington : Kirill Dmitriev là một chuyên gia về tài chính từng được đào tạo và giàu kinh nghiệm ở Hoa Kỳ. Ông hiện điều hành Quỹ đầu tư quốc gia của Nga và được Thời Báo Matxcơva mệnh danh là người đã « kiến tạo chiến lược mang những dự án đầy hứa hẹn ra để chiêu dụ » Donald Trump, đặc biệt là những dự án về khoáng sản, do Nga được cho là 1 trong 5 quốc gia tiềm năng nhất trên thế giới về đất hiếm. Nhà nghiên cứu Alexandra Prokopenko trong một bài viết trên trang mạng của trung tâm Carnegie Politika cảnh báo Quỹ đầu tư quốc gia của Nga có thể là « bãi đáp cho vốn đầu tư của Mỹ ». Số tiền đó sẽ được dành để « phát triển các lĩnh vực đang trong tay những nhân vật thân cận với tổng thống Vladimir Putin ». Vẫn Thời Báo Matxcơva nhắc lại, dưới tác động chiến tranh Ukraina và chính sách trừng phạt Matxcơva, xuất khẩu của Mỹ sang Nga năm 2024 bị đẩy xuống còn khoảng 500 triệu đô la, trái lại thì Hoa Kỳ vẫn mua vào đến 3 tỷ đô la nguyên liệu và cả năng lượng của Nga. Trước 2022, Mỹ từng là « nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất » vào Nga, tham gia nhiều tập đoàn của Nga như Yandex trong lĩnh vực tin học, hay Ozon chuyên về mua bán trên mạng. Đôi bên cùng đang « diễn tuồng » Câu hỏi kế tiếp là liệu Nga-Mỹ có dễ hợp tác về kinh tế hay không, Maximilian Hess, sáng lập viên công ty tư vấn Ementena Advisory, Luân Đôn cho rằng « đầu tư hay hợp tác với Matxcơva sẽ không dễ, nhất là khi liên quan đến những dự án nhạy cảm » như khai thác tài nguyên quốc gia. Ngoài ra, trong một số lĩnh vực như năng lượng, Nga và Mỹ là hai đối thủ cạnh tranh trực tiếp : Washington luôn gây áp lực với Bruxelles đòi Liên Hiệp Châu Âu « mua khí hóa lỏng của Mỹ thay vì nhập khẩu nguyên liệu này của Nga ». Trong cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Ấn Độ, New Delhi cũng đang « khốn đốn » vì lách lệnh cấm vận dầu hỏa của Nga … Do vậy, những đề xuất hay tuyên bố « hợp tác Nga-Mỹ » về khoáng sản và đất hiếm « chỉ là một màn trình diễn », « thực chất không nhiều » và « môi trường làm ăn ở Nga không mấy thân thiện » như chuyên gia về Nga của viện Chatham House - Luân Đôn, Timothy Ash ghi nhận. Dù vậy, một bên là Vladimir Putin chính thức kêu gọi Mỹ đầu tư vào Nga và bên kia, đích thân Donald Trump (ngày 24/02/2025) xác nhận « thảo luận nghiêm túc » về những « thỏa thuận lớn để phát triển kinh tế » giữa hai nước, mọi việc đang « tiến triển tốt ». Vẫn trên mạng xã hội cá nhân, nguyên thủ Hoa Kỳ khẳng định « hợp tác kinh tế với Nga bảo đảm người dân Mỹ lấy lại được hàng chục tỷ đô la, đó là số tiền Mỹ đã viện trợ và cấp thiết bị quân sự cho Ukraina ». Matxcơva hiểu rằng Trump thích những « dự án chóng sinh lợi, dễ đem về lợi nhuận cao và nhất là dễ có sức thu hút các phương tiện truyền thông », như Alexandra Prokopenko phân tích. Còn nhìn từ Matxcơva, hợp tác với Hoa Kỳ là chìa khóa tốt nhất để phá vỡ vòng vây cấm vận của phương Tây, đồng thời tiếp cận công nghệ cao và thiết bị điện tử của Âu, Mỹ. Trong bối cảnh đó, báo tài chính Mỹ Bloomberg ngày 12/08/2025 đặt câu hỏi liệu tổng thống Trump có sẽ lại bị đồng cấp Putin « qua mặt » lần nữa tại thượng đỉnh Alaska ngày 15/08/2025? Vãn hồi hòa bình cho Ukraina chỉ là một phần của thượng đỉnh Alaska Trên đài truyền hình tư nhân BFM TV (ngày 09/08/2025) phóng viên Olivier Weber cũng cho rằng, chấm dứt chiến tranh Ukraina chỉ là một phần trong số các hồ sơ sẽ được Putin à Trump thảo luận tại Alaska trong vài ngày nữa. Cả hai cùng không muốn « có bất kỳ một sự hiện diện nào khác » của Liên Âu hay của quốc gia liên quan là Ukraina: « Donald Trump mong muốn một mối quan hệ cá nhân cực kỳ mạnh mẽ với Vladimir Putin, do đó trên nguyên tắc, tại thượng đỉnh lần này, có thể là Ukraina, Liên Âu và cả NATO cùng đứng ngoài, để chiều theo ý tổng thống Nga. Về phía Matxcơva, Putin cũng sẽ làm tất cả để Trump hài lòng vì vừa muốn Ukraina nhượng lãnh thổ và hơn thế nữa, Nga đang chờ đợi Mỹ dỡ bỏ các lệnh cấm vận. (...) Trên nguyên tắc thượng đỉnh Alaska hoàn toàn thuận lợi cho Matxcơva. (…) Điều mà Kremlin muốn tránh bằng mọi giá là Washington tăng cường các biện pháp trừng phạt, và nhất là áp dụng các biện pháp trừng phạt gián tiếp nhắm vào những khách hàng của Nga. Ấn Độ, Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ mua dầu khí của Nga với giá rẻ. Mỗi ngày Nga sản xuất 4,7 triệu thùng dầu. Thiệt hại từ đòn trừng phạt này sẽ rất nghiêm trọng. (…) Tổng thống Putin thừa biết lãi suất ngân hàng Nga hiện tại ở khoảng 20-21 %, tức là ở ngưỡng quá cao. Bằng mọi giá ông muốn tránh để kinh tế Nga rơi vào khủng hoảng cho hai năm sắp tới. (…) Tuy nhiên, đây sẽ không là một cuộc họp thượng đỉnh mang lại hòa bình, mà chỉ dẫn tới lệnh ngừng bắn và có thể là phía Nga sẽ rút quân khỏi một số vùng trên lãnh thổ Ukraina, như những thông tin hiện có do Nhà Trắng cung cấp. Có khả năng hai vùng Luhansk và Donetsk sẽ vẫn do Nga kiểm soát, nhưng quân Nga sẽ dừng lại ở địa điểm đang chiếm đóng, lùi bước và sẽ không đi xa hơn. Ngay cả trong việc đình chiến cũng có lợi cho phía Nga, giúp cho lực lượng quân sự của Nga lấy lại sức. Ukraina rất sợ kịch bản này. Trái lại với Mỹ, điều quan trọng là phải đạt được một chút kết quả gì đó để cho phép Trump khoe thành tích ông là một nhà trung gian hòa giải hiệu quả. Điều quan trọng nhất đối với Donald Trump là thượng đỉnh Alaska sẽ thỏa mãn được cái « tôi » quá lớn của ông ấy. Về phía Nga, rõ ràng là Vladimir Putin rất hài lòng khi đàm phán riêng với nguyên thủ Mỹ không qua bất kỳ một trung gian nào khác, nhất là không muốn tổng thống Ukraina Volodymyr Zelensky tham dự. Nhìn đến Ukraina, về cơ bản, việc Mỹ càng lúc càng ít cấp vũ khí cho Kiev khiến Ukraina kiệt quệ. Kiev và công luận Ukraina luôn khẳng định muốn giữ tất cả lãnh thổ. Điều này có thực tế hay không ? Tôi không dám chắc ». Người muốn khoe thành tích, kẻ muốn bẻ gấy vòng vây cấm vận Nhìn từ Mỹ, báo tài chính The Wall Street Journal trích lời Guy Anderson, chuyên theo dõi các hoạt động trong lĩnh vực công nghệ quốc phòng, khẳng định : Đối với ông Putin thì ưu tiên lần này tại Alaska không phải là Ukraina, mà là thuyết phục tổng thống Hoa Kỳ dỡ bỏ trừng phạt đang gây phương hại đến thu nhập của các tập đoàn năng lượng của nước Nga, mà đây vốn là những nguồn tài trợ cho cỗ máy chiến tranh của Matxcơva: « Từ khi xâm lược Ukraina, Matxcơva đã tăng chi tiêu quân sự. Hồi 2022, chi tiêu quốc phòng của Nga khoảng 50 tỷ đô la một năm. Hiện nay, ngân sách đó là 150 tỷ đô la. Dưới tác động các biện pháp trừng phạt của phương Tây, năm đó, kinh tế Nga đã suy giảm nghiêm trọng. GDP giảm 2 %. Nhưng điều thú vị là kinh tế của nước này đã nhanh chóng bật dậy trở lại. Trong khi đó Liên Âu mất hẳn thị trường của Nga. Matxcơva chuyển sang trông cậy chủ yếu vào Trung Quốc và Ấn Độ. Nhưng giờ đây, Hoa Kỳ đòi mở rộng các biện pháp trừng phạt đến các khách hàng của Matxcơva. Ấn Độ và Trung Quốc hiện đang mua vào đến 50 % tổng kim ngạch xuất khẩu dầu hỏa của Nga. Đây sẽ là một thảm họa đối với Matxcơva vì xuất khẩu năng lượng bảo đảm đến 1 phần 3 ngân sách liên bang hàng năm ». Tuần báo Anh The Economist ghi nhận : Thứ Sáu 08/08/2005 là hạn chót để tổng thống Mỹ đưa ra một quyết định mạnh mẽ đòi Nga ngừng chiến tranh Ukraina. Đến cuối ngày, Nhà Trắng thông báo thượng đỉnh Trump-Putin tại Alaska. Một lần nữa Trump tuyên bố rất hùng hồn, nhưng luôn áp dụng chiến thuật « dơ cao đánh khẽ » và tạo điều kiện thuận lợi cho chủ nhân điện Kremlin.
Kể từ giữa tháng 7/2025 chính phủ Anh tung ra một chương trình 650 triệu bảng, tương đương với 75 triệu đô la để tài trợ trực tiếp cho người mua xe hơi động cơ điện - EV. Tiền hỗ trợ giá mua lên tới £3.750 cho một chiếc xe điện để cả nước Anh đẩy nhanh hơn tiến trình chuyển đổi sang từ xe dùng nhiên liệu hóa thạch sang xe điện. Vì sao chính phủ Anh quyết định dùng ngân sách để tác động vào thị trường xe hơi như vậy? Chính phủ Anh sau nhiều suy tính cuối cùng cũng phải chọn biện pháp mà các nước trong Liên Hiệp Châu Âu - EU đã làm từ lâu : dùng tiền ngân sách để tác động vào thị trường xe hơi, nhằm đẩy số xe điện lên cao hơn, vì ở Anh, con số này đang quá thấp so với Liên Âu. Theo số liệu của Hiệp hội Sản xuất Xe hơi châu Âu (European Automobile Manufacturers’ Association-ACEA) vào hai tháng đầu năm 2025, số xe điện dùng pin (battery-electric vehicles) ở EU chiếm tới 15,2% tổng số xe hơi. Con số này tăng mạnh so với cùng kỳ của năm 2024. Nếu tính số xe động cơ hỗn hợp (hybrid-electric) thì con số là 35,2% thị phần xe hơi cá nhân. Còn ở Anh, các số liệu chính thức nói xe EV mới có chừng 1,3 triệu chiếc trên tổng số 35 triệu xe có đăng ký, tức là chỉ có chừng 4%. Con số có tăng, nhưng quá chậm, vì báo cáo của Quốc Hội Anh cho biết năm 2024 số xe EV trên cả nước mới chiếm có 3% thị phần xe hơi và xe hybrid được 8%. Trong khi đó Anh đã cam kết phi carbon (decarbonisation) vào năm 2050, còn gọi là Net Zero. Để đạt mục tiêu đó thì Anh phải có số xe không phát thải chiếm 80% thị trường xe cộ vào năm 2030. Đây là mục tiêu quá tham vọng, chỉ còn chưa đầy 5 năm nữa là phải đạt được. Nhìn lại thì mục tiêu cho năm 2024 là đẩy số xe không phát thải lên 22% thị phần xe hơi đã không đạt được rồi. Lý do vì sao tiến trình giảm xe xăng và xe đốt dầu diesel ở Anh chậm như vậy? Thực ra có nhiều lý do khách quan, ngoài ý muốn của người tiêu dùng, như một số tạp chí về xe hơi phân tích. Đó là giá xe điện, thực chất là giá cục pin, quá cao. Ví dụ dòng xe Tesla bán ở Anh với giá từ 40 nghìn đến 100 nghìn bảng, nhiều hơn từ 1/3 tới gấp hơn 3 lần thu nhập cả năm trước thuế của người lao động bình thường, nên ai mà mua nổi ? Nay, giá xe EV của Trung Quốc nhập vào Anh có rẻ hơn, cũng phải ở mức 20-30 nghìn bảng. Chính sách của nhà nước Anh có sự mâu thuẫn. Từ tháng 4 năm nay, xe điện không còn được miễn thuế đường, và xe mua với giá trên 40 nghìn bảng thì phải đóng thêm thuế “hàng hóa xa hoa” (luxury car fee). Nay thì chính phủ lại trợ giá gần 4.000 bảng cho một đầu xe điện mới, để khuyến khích người ta mua nhiều hơn. Tình trạng là nửa năm qua thì số xe EV đăng ký tăng lên nhiều, đạt gần 150 nghìn chiếc từ đầu năm đến hết tháng 4, tức là trên đà tăng, nhưng người ta phàn nàn là xe điện mất giá rất nhanh. Giá bán xe sau 1 năm sử dụng từ lúc mới chỉ còn giá trị 50% giá ban đầu, và sau 2 năm thì chỉ còn 40% giá trị. Mua EV là chấp nhận chi phí ban đầu cao, giá bán lại (resale) thấp. Ngoài ra thì hiện cả nước Anh mới có 84 điểm sạc pin công cộng, nên cơ sở hạ tầng cần triển khai nhanh và đại trà thì mới đẩy số xe EV lên được. Kế hoạch kích cầu (push demand) cho xe điện ở Anh có gì đặc biệt, so với các nước khác ? Theo thông báo của chính phủ thì từ ngày 17/07/2025, xe EV có giá 37.000 bảng Anh trở xuống nằm trong diện được trợ cấp giá mua. Và những xe có chỉ số kỹ thuật thân thiện với môi trường nhất sẽ nhận được mức giảm giá lớn nhất, tối đa là 3.750 bảng. Các nhà sản xuất ô tô có thể đăng ký nhận tài trợ và Hiệp hội Xe hơi RAC cho biết xe giảm giá sẽ bắt đầu xuất hiện tại các đại lý “trong vòng vài tuần tới”. Đây không phải là lần đầu tiên chính phủ Anh can thiệp vào thị trường để thúc đẩy nhu cầu xe mới. Năm 2008, chính phủ đảng Lao động của thủ tướng Gordon Brown lần đầu cho áp dụng chế độ hỗ trợ mua xe mới, hủy xe cũ, thường là loại 7-10 năm tuổi, có động cơ thế hệ cũ, xả thải gây ô nhiễm cao. Kế hoạch đó đã giúp thu hồi và hủy tới 400 nghìn chiếc xe ô-tô cũ ở nước Anh, tất nhiên các xe mới vẫn là xe xăng hoặc dầu diesel nhưng có chỉ số phát thải thân thiện hơn với môi trường. Hiện nay, nhà nước làm hai bước. Một là cấm bán và đăng ký mới các xe có động cơ toàn bộ bằng xăng hoặc dầu diesel từ năm 2030. Hai là trợ giá để người ta mua xe điện. So với các nước EU khác thì Anh có vẻ chậm hơn. Pháp, Hà Lan, Bỉ, Ireland...và Đức đều đã có trợ cấp nhằm giảm chi phí mua xe điện, hoặc bù giá, hoặc miễn thuế giao thông, hoặc hỗ trợ tín dụng... Riêng Đức có dừng chương trình bù giá mua xe điện vào cuối năm ngoái để chuyển sang một hình thức khác. Nhưng nhìn chung các nước EU giàu có nhất đều đã làm. Anh Quốc đang phải chạy đua với thời gian, và tung ra chương trình trị giá 650 triệu bảng Anh có hiệu lực trong vòng ba năm tới để trợ giúp thị trường xe điện. Tất nhiên, ngoài xe điện thì các mẫu xe động cơ hỗn hợp (hybrid) cũng đang ngày càng phổ biến ở Anh và chính phủ sẽ đầu tư 63 triệu bảng để xây dựng các điểm sạc xe điện, phục vụ cho hai loại xe này. Không chỉ ở Anh mà ở một số nước khác, việc chuyển đổi xe xăng dầu sang xe điện đột ngột sẽ gây áp lực cho mạng lưới cung cấp điện quốc gia. Theo một đánh giá chuyên ngành thì nếu ngay lập tức tất cả 34 triệu xe hơi có đăng ký trên toàn Vương quốc Anh biến thành EV thì lưới điện quốc gia (UK National Grid) phải chịu tải tăng lên 30-50%. Thế nhưng việc chuyển đổi sang xe điện (EV) sẽ diễn ra một cách từ từ, có lộ trình qua nhiều năm, đồng hành với quá trình tăng công suất điện toàn quốc, nên sẽ không có vấn đề gì. Ví dụ chính phủ hiện hành công bố kế hoạch xây 5 thêm 5 nhà máy điện nguyên tử - hiện Anh có 4 nhà máy đang hoạt động, trong vòng 10-15 năm tới. Công trình lò phản ứng hạt nhân dân dụng Sizewell C ở hạt Suffolk vừa được ký lại với Pháp để cùng triển khai. Đây là công trình đã ký với Pháp 18 năm trước nhưng bị trì hoãn. Giờ thì được tái đầu tư để khởi động quá trình xây cất, dự kiến hoàn tất vào trong khoảng từ 9 đến 12 năm tới và sẽ cung cấp điện đủ cho 4 triệu hộ gia đình hoặc điện năng tương đương 7% công suất toàn quốc. Ngoài ra là 4 lò nhỏ gọi là module hạt nhân (Small Modular Reactors -SMRs) và mỗi lò có thể cung ứng điện cho 750 nghìn hộ gia đình. Một lò phản ứng nguyên tử nhỏ này chỉ có giá chừng 2,5 triệu bảng, tức là rất rẻ. Anh cũng như Pháp, Hoa Kỳ...là các nước đã làm chủ những công nghệ năng lượng hiện đại nhất thế giới nên họ đã làm là sẽ làm được. Các nhà máy điện nguyên tử này là nòng cốt của chiến lược Net-Zero (phát thải bằng không) của Anh. Nhìn từ góc độ người tiêu dùng và người lái xe, chính phủ Anh làm gì để hỗ trợ lái xe và các gia đình không có điều kiện lắp ổ sạc riêng? Vấn đề phiền phức hơn cả việc xây nhà máy điện nguyên tử thực ra là cơ sở hạ tầng cho đầu ra, ví dụ Anh cần thêm hàng trăm nghìn điểm sạc điện công cộng. Một phần của chương trình hỗ trợ là chính phủ cấp tiền cho các địa phương sửa vỉa hè để lập ra các ống ngầm khô ráo, giúp dân kéo dây nạp điện cho xe của họ đỗ ngoài phố vào nhà. Hiện nay chỉ có người có bãi đậu xe riêng trước nhà hoặc gara riêng thì mới lắp được ổ điện chuyên dụng, chịu tải cao. Còn người dân ở chung cư, ở nhà không có chỗ đỗ xe riêng (driveway), thì không thể sạc pin cho xe điện tại nhà. Thế nên việc cải tạo vỉa hè sẽ giúp họ nạp điện qua đêm ở nhà với giá rẻ. Bởi ở Anh, giá điện về đêm rẻ hơn giá ban ngày. Vì về mặt kỹ thuật, xe điện muốn sạc pin nhanh thì cần voltage ở mức 400V trở lên (DC fast charging), cao hơn tiêu chuẩn ổ sạc điện dân dụng bình thường trong hộ gia đình là 120V hay 240V. Anh quốc cũng đang cho xây thêm số điểm sạc pin công cộng giá rẻ (30 xu Anh/kWh, so với giá thương mại lên tới 79 xu/kWh) từ 82 nghìn hiện nay lên thêm 100 nghìn nữa. Ngoài việc bỏ tiền trợ giá cho người dân mua xe điện, Anh Quốc có chính sách công nào khác thúc đẩy quá trình tiến tới Net Zero và khả năng thành công có cao không? Đây là quá trình có tác động sâu rộng tới sinh hoạt xã hội. Chính phủ có ý thức về điều này. Ví dụ với các điểm thiết yếu cho cuộc sống như bệnh viện công thì họ sẽ lắp thêm 1200 trạm sạc pin. Người ta cũng sẽ đặt các trạm sạc của nhà nước dọc xa lộ trên toàn quốc. Hiện tình hình là khu vực Luân Đôn và vùng phụ cận có nhiều điểm sạc pin, nhưng các vùng xa của Anh, Wales và Scotland thì rất hiếm. Muốn phổ cập xe điện thì chính phủ phải bỏ tiền đầu tư cho giao thông công cộng. Đầu tư cho xe bus chạy điện hoặc dùng động cơ hydrogen cũng sẽ được tăng lên. Cả Luân Đôn hiện nay mới có một đội xe buýt dùng động cơ đốt hydrogen, thân thiện với môi trường. Chính quyền Luân Đôn sẽ phải tăng số xe này lên. Xe taxi ở đô thị và xe cứu thương cũng được khuyến khích chuyển sang xe điện. Cũng cần nói là bên cạnh chính phủ thì có các sáng kiến tư nhân từ chính các tập đoàn năng lượng. Ví dụ năm 2022 tập đoàn dầu khí BP đã cam kết đầu tư 1 tỷ bảng vào mạng lưới trạm sạc pin cho xe điện. Anh Quốc có đạt Net-Zero vào năm 2050 hay không là câu hỏi quan trọng. Điều chắc chắn, theo như Quốc Hội đánh giá thì việc đạt mục tiêu này phụ thuộc rất nhiều vào cải tổ thị trường xe điện, vì giao thông vận tải đường bộ ở Anh đang đóng góp 54% vào toàn bộ số CO2 Anh quốc thả vào khí quyển hàng năm. Tóm lại là quá trình chuyển đổi từ xe đốt nhiên liệu hóa thạch sang chạy điện của Anh đã không đạt tiến độ và chiến lược vừa tung ra là cần thiết, tuy chưa rõ có đủ để tạo bước ngoặt hay là không. Thế nhưng dù sao thì chậm còn hơn không và có thể tới đây, Anh Quốc sẽ tăng tốc được quá trình này. Chúng ta hãy chờ xem. Sources: https://commonslibrary.parliament.uk/research-briefings/cbp-7480/ https://emobilityplus.com/2025/07/15/uk-unveils-63-million-boost-for-ev-infrastructure-to-cut-charging-costs-support-nhs-fleet-electrification-and-back-green-jobs/ https://www.autocar.co.uk/opinion/business-government-and-legislation/winners-and-losers-uks-new-ev-incentives https://emobilityplus.com/2022/04/05/bp-to-invest-1-billion-in-uk-ev-charging-infrastructure/
Trung Quốc có còn cần vốn đầu tư và công nghệ của Liên Hiệp Châu Âu nữa hay không ? Bắc Kinh không để « bị lừa » như châu Âu trên vấn đề chuyển giao công nghệ. Bruxelles, « tiền đầy túi, có quyền sinh sát » với hàng xuất khẩu của Trung Quốc nhưng lại trong thế yếu. Nhà nghiên cứu Isabelle Feng, Trung Tâm Asia Centre-Paris phân tích về những nghịch lý trong mối quan hệ « bất cân đối » và bất lợi cho Liên Âu sau 50 năm thiết lập bang giao. 50 năm hành trình một cuộc « cách mạng» trong bang giao Liên Âu -Trung Quốc Tương quan lực lượng giữa Liên Hiệp Châu Âu và Trung Quốc trong nửa thế kỷ qua đã hoàn toàn thay đổi. Năm 1975 phó chủ tịch kiêm ủy viên châu Âu đặc trách về đối ngoại, Christopher Soames đến Bắc Kinh khởi động bang giao với Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Chuyến viếng thăm này mở đường cho những « hiệp định thương mại » năm 1978 rồi « hiệp định kinh tế và thương mại » năm 1984 ». Trung Quốc gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới, tăng tốc đầu tư vào Liên Âu từ 2008 khi thế giới tư bản chao đảo vì cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. 2019 Bruxelles xem Trung Quốc là một « đối tác, một đối thủ cạnh tranh có hệ thống » trước khi hướng tới mục tiêu « de-risking » giảm bớt mức độ lệ thuộc vào nền kinh tế thứ hai toàn cầu. Với chiến tranh Ukraina, an ninh của Liên Âu bị Nga đe dọa thì Bắc Kinh thắt chặt bang giao với Matxcơva. Vào lúc các nền công nghiệp tiên tiến toàn cầu bị các nền kinh tế đang trỗi dậy cạnh tranh mà nguy hiểm nhất là hàng rẻ Trung Quốc, Hoa Kỳ không còn che đậy chủ trương bảo hộ. Riêng Bruxelles vẫn chủ trương « mở cửa thị trường » và « tạo điều kiện cạnh tranh bình đẳng » giữa các nhà sản xuất vì « lợi ích của người tiêu dùng ». Bước vào thời kỳ công nghệ số Lục Địa Già hoàn toàn phụ thuộc vào các tập đoàn Mỹ và đã bất ngờ bị các đối thủ Trung Quốc qua mặt. Về thương mại, Liên Âu xuất siêu sang Mỹ nên trong tầm ngắm của chính quyền Trump ngay từ nhiệm kỳ đầu 2017-2021 và lại càng bị tấn công mạnh hơn nữa trong từ sáu tháng qua khi nhà tỷ phú địa ốc này quay lại Nhà Trắng. Cũng là nạn nhân trong chính sách bảo hộ của Washington, Bắc Kinh không còn dễ dàng xuất khẩu và đầu tư sang Mỹ nên đã tăng tốc « đổ hàng » sang châu Âu, đe dọa sự sống còn của các nhà sản xuất trên Lục Địa Già. « Tiền đầy túi » mà vẫn phải đi « năn nỉ » Với bạn hàng Trung Quốc, trao đổi mậu dịch hai chiều năm 2024 lên tới 845 tỷ đô la, nhưng Liên Âu trong thế nhập siêu : thâm hụt mậu dịch với Bắc Kinh đạt ngưỡng 300 tỷ, cao gấp đôi so với đúng 10 năm trước đó. Ý thức được mối đe dọa nay, từ 2019 Bruxelles liên tục tìm cách « giành lại chủ quyền » về công nghiệp, về công nghệ, đòi được Trung Quốc đối xử với các doanh nghiệp châu Âu « công bằng hơn » khi họ đầu tư vào Hoa Lục. Bất lực của một khối giàu có và thịnh vượng Nhưng thượng đỉnh Bắc Kinh hôm 24/07/2025 là bằng chứng rõ rệt cho thấy sự bất lực của khối 450 triệu dân có mãi lực « thừa sức » để áp đặt điều kiện với nền kinh tế thứ hai toàn cầu. Mời quý vị theo dõi phần phỏng vấn Isabelle Feng chuyên về kinh tế và chính sách đối ngoại của Trung Quốc, phó chủ nhiệm chương trình nghiên cứu thuộc trung tâm Asia Centre tại Paris. RFI : Kính chào Isabelle Feng, câu hỏi đầu tiên là bà đánh giá thế nào thượng đỉnh Bắc Kinh tuần qua. Trước hội nghị, trong bài tham luận đăng trên trang nhà của trung tâm nghiên cứu Asia Centre bà đã xem đây là một « thất bại được báo trước » khi Liên Hiệp Châu Âu đòi « cân bằng lại » quan hệ về kinh tế, về thương mại với Trung Quốc ? Isabelle Feng : « Ngay từ trước hội nghị hôm 24/07/2025, trên báo chí, các nhà phân tích đồng loạt cho rằng thượng đỉnh lần này không mang lại điều gì cụ thể. Và quả là như vậy. Rõ ràng là Bruxelles chẳng được gì khi cử phái đoàn đến Bắc Kinh. Sự kiện tuần trước chỉ là cơ hội chứng minh chính sách tuyên truyền của chủ tịch Trung Quốc rất hiệu quả. Báo chí ở Bắc Kinh nhấn mạnh rằng phái đoàn của Liên Hiệp Châu Âu đã vượt 10.000 cây số sang Trung Quốc – đây là cách nói để nhất mạnh rằng lãnh đạo châu Âu từ rất xa đến để được gặp ông Tập Cận Bình, để cho thấy người ta phải đến yết kiến ông. Các tờ báo chỉ tập trung vào những phát biểu của lãnh đạo Trung Quốc, và mãi đến tận cuối bài người ta mới nhắc qua một vài câu nói của chủ tịch Ủy Ban Châu Âu, Ursula von der Leyen nhưng đấy là những tuyên bố nhạt nhẽo… Về vấn đề Ukraina châu Âu không đạt được gì cả. Trên các hồ sơ về thuế nhập khẩu về ô tô điện cũng vậy. Vào lúc Liên Âu mong muốn các tập đoàn Trung Quốc chuyển giao công nghệ chế tạo bình điện cho ô tô thì phía Bắc Kinh đã chẳng nói năng gì. Cuối cùng tuyên chung chỉ đề cập đến hợp tác chống biến đổi khí hậu, giảm phát thải carbon. Vì có nhắc đến vấn đề « cân bằng lại trong quan hệ giao thương kinh tế », hôm 09/07 bà von der Leyen đã có bài phát biểu và đưa ra một bản báo cáo với những lời lẽ cứng rắn và rất mạch lạc, đòi một mối quan hệ bình đẳng hơn giữa Bắc Kinh với Bruxelles. Nhưng khi nào mà còn chưa chuyển lời nói thành hành động, thì cũng không ăn thua gì cả. Hơn nữa ngay sau những tuyên bố của lãnh đạo châu Âu này thì một quan chức cao cấp của Bắc Kinh đã đáp lời bà Leyen bằng tiếng Hoa, rằng điều cần thiết hiện nay trong bang giao song phương là một sự 'cân bằng trong cách tư duy' của Bruxelles. Đây không hơn không kém là một lời thóa mạ Bắc Kinh ném vào mặt châu Âu và một sự khinh thường Bruxelles quá rõ rệt ». Tử huyệt của Liên Âu : Một khối không đoàn kết RFI : Hiện tại về công nghiệp cũng như trong nhiều lĩnh vực công nghệ mũi nhọn, Trung Quốc đã vượt trội hơn cả Liên Âu, sau 50 năm « bang giao » hữu hảo. Vừa là công xưởng cung cấp hàng rẻ cho thế giới, vừa nắm giữ những lá bài then chốt như đất hiếm, Trung Quốc có còn cần đến công nghệ và vốn đầu tư của châu Âu nữa hay không ? hay Bắc Kinh chỉ còn trông thấy ở đối tác này là một thị trường để giải quyết hàng không bán được sang Hoa Kỳ ? Isabelle Feng : « Nhìn từ Bắc Kinh, Liên Âu có nhiều lá chủ bài trong tay nhưng Bruxelles không biết cách sử dụng hay không muốn khai thác những lợi thế đó trong quan hệ với Trung Quốc. Liên Hiệp Châu Âu là một khối 27 thành viên, với hơn 450 triệu dân và là một thị trường vừa lớn vừa có sức tiêu thụ cao. Về thương mại, Liên Âu mua hàng của Trung Quốc nhiều hơn là xuất khẩu sang nước này. Nhập siêu của Bruxelles với Bắc Kinh năm ngoái lên tới 300 tỷ đô la. Tức là Liên Âu trong thế mạnh vì nếu ngừng mua hàng của Trung Quốc là đẩy các nhà sản xuất của nước này vào thế kẹt. Vậy mà với tiềm lực kinh tế mạnh như vậy, Liên Âu lại không thể tạo ra một thế đối trọng với Trung Quốc. Ngoài ra, tuy là một khối nhưng lại không đoàn kết trước một đối tác và cũng là đối thủ như Bắc Kinh. Trung Quốc hiểu được điều đó từ lâu nay. Liên Âu cũng không khai thác được sức mua của mình để áp đặt luật thuế quan với lại Trung Quốc như điều mà Mỹ đang làm hiện nay. Châu Âu rõ ràng là người mua, có ví đầy tiền nhưng lại đi năn nỉ người bán là Trung Quốc : đây là một điều kỳ lạ ! » RFI : Có rất nhiều lợi thế trong tay, mà đầu tiên hết là sức mua, là thị trường chung 450 triệu dân, là vốn đầu tư, là mạng lưới công nghiệp và sức sáng tạo của các nguồn nhân lực … tại sao Liên Âu không thể áp đặt một tiếng nói chung trong quan hệ với Bắc Kinh ? Isabelle Feng : « Cần nhắc lại nguồn gốc của Liên Hiệp Châu Âu : ban đầu đây là một cộng đồng kinh tế. Chừng nào mà khối này vẫn chưa tìm được bản sắc riêng, chưa có chủ quyền thực thụ về quân sự và trong chính sách đối ngoại, thì Liên Âu sẽ không thể có chung một tiếng nói, dù là với Trung Quốc hay với Mỹ. Đồng thời, Liên Âu có một cấu trúc riêng, và rõ ràng là cơ chế đó không còn thích nghi với thế giới mới ngày nay. Hiện tại thế giới xoanh quanh ba trục chính là Bắc Kinh, Washington và Matxcơva. Châu Âu cố gắng khẳng định mình là cột trụ của thế giới nhưng vẫn chưa thành công. (...) Tôi nhớ là năm 1964 khi Pháp công nhận Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa của Mao Trạch Đông, thu nhập bình quân đầu người một năm của Châu Âu là 1.680 đô la, tại Trung Quốc là 80 đô la. Giờ đây Trung Quốc là nền kinh tế thứ hai toàn cầu. Trong khi đó các nước châu Âu nếu xé lẻ, thì không có trọng lượng gì cả so với Trung Quốc. Vì thế nên bắt buộc khối này phải đoàn kết với nhau. Nhưng đoàn kết đó lại không tạo ra sức mạnh cho khối này vì thực tế đây là một khối bị chia rẽ. Đây là một nghịch lý và cũng là nhược điểm của Liên Âu khi mà khối này cần nhất trí để có một lập trường mạnh mẽ cả với Hoa Kỳ lẫn Bắc Kinh. Chúng ta cũng biết rằng Bắc Kinh đang yếu thế vì thị tường Mỹ đang dần dần đóng cửa với hàng Trung Quốc, cho nên hàng Trung Quốc phải đổ sang thị trường châu Âu. Bởi vì ngoài Hoa Kỳ ra thì châu Âu là thị trường có sức mua hấp dẫn nhất. Làm thế nào để hàng hóa của châu Âu có thể cạnh tranh lại được so với hàng Trung Quốc khi mà lương công nhân Trung Quốc là 2 đô la một giờ ? » RFI : Trong một số lĩnh vực khoa học và công nghệ mới, như bình điện cho ô tô, pin mặt trời hay trí tuệ nhân tạo, viễn thông … và không ít các tập đoàn Trung Quốc đang dẫn đầu. Một trong những đòi hỏi của Liên Âu trong mục tiêu « cân bằng hóa » quan hệ với Trung Quốc là chuyển giao công nghệ. Phản ứng của Trung Quốc ra sao ? Và trong quan hệ song phương cho những thập niên sắp tới, liệu Bruxelles còn có thể hợp tác với Trung Quốc trong những lĩnh vực nào ? Isabelle Feng : « Vẫn còn những lĩnh vực đôi bên có thể hợp tác. Bruxelles mong muốn các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư vào châu Âu – chẳng hạn như trong lĩnh vực công nghệ chế tạo các bình điện cho ô tô và nhiều ngành công nghệ cao khác. Nhưng đồng thời Liên Âu cũng muốn các hãng Trung Quốc chuyển giao công nghệ, tức là Bruxelles cũng đặt điều kiện như Bắc Kinh 20 năm về trước. Châu Âu đòi Trung Quốc chuyển giao công nghệ. Nhưng Bắc Kinh phản bác điểm này và cho là đi ngược lại với các quy định của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới. Hãy đợi xem liệu Bruxelles có đủ cứng rắn để áp đặt những điều kiện của mình với đối phương hay không khi biết rằng các doanh nghiệp Trung Quốc đang ráo riết đi tìm những bãi đáp mới. Năm 2024 hơn 170 tỷ đô la đầu tư của các doanh nghiệp Trung Quốc rời khỏi hoa lục. Vào lúc môi t
Đổi dầu lửa lấy vũ khí, thiết bị quân sự và nguyên liệu chế tạo tên lửa : Phải chăng đó sẽ là thỏa thuận sắp tới giữa Iran và Trung Quốc ? Trong hai nhà bảo trợ cho chế độ Teheran, Bắc Kinh « hơn điểm » so với Matxcơva sau chiến dịch quân sự 12 ngày đêm Iran phải đương đầu với Israel và sau đợt tấn công của Hoa Kỳ nhắm vào các cơ sở hạt nhân Iran. Cả về an ninh lẫn kinh tế Teheran trông cậy nhiều vào Bắc Kinh. Từ sau cuộc Cách Mạng Hồi Giáo năm 1979, rồi vụ bắt con tin Mỹ trong tòa đại sứ Teheran cho đến tận ngày hôm nay, Iran liên tục bị Hoa Kỳ và quốc tế trừng phạt. Sau giai đoạn 2015-2018 tưởng chừng phương Tây nới lỏng gọng kềm cấm vận, nhưng rồi năm 2018 Washington dưới thời tổng thống Donald Trump đã đơn phương ban hành những biện pháp nghiêm ngặt, trừng phạt Iran phát triển vũ khí hạt nhân. Một lần nữa các doanh nghiệp quốc tế vì sợ trừng phạt của Hoa Kỳ lần lượt rút lại các dự án đầu tư khỏi Iran, ngừng mọi giao dịch với quốc gia bị Washington đưa vào danh sách các « Nhà nước yểm trợ khủng bố ». Trả lời RFI tiếng Việt, nhà báo Đài Phát Thanh Quốc Tế Pháp, ban tiếng Ba Tư Vahid Shamsoddinnezhad trước hết cho biết qua về bức tranh ảm đạm của nền kinh tế Iran : « Hiện tại tình hình kinh tế Iran hết sức khó khăn, do bị áp lực từ các biện pháp trừng phạt. Các biện pháp trừng phạt đó chủ yếu do Mỹ ban hành và nhắm vào xuất khẩu dầu hỏa, vào ngành các khoản giao dịch tài chính. Hệ quả kèm theo là lạm phát ở mức hai con số, dao động từ 30 đến 40 % từ nhiều năm qua. Sức mua của các hộ gia đình bị chao đảo. Giá cả những mặt hàng thiết thực nhất, thuốc men, nhu yếu phẩm tăng lên đến mức chóng mặt. Cùng lúc đơn vị tiền tệ quốc gia -đồng rial, mất giá khiến hàng nhập khẩu càng thêm đắt đó. Iran rơi vào vòng luẩn quẩn của lạm phát. Đối với dân chúng, sống được qua ngày là cả một sự hy sinh to lớn. Một phần dân số bị đẩy vào cảnh nghèo khó và họ phải thích nghi với môi trường đầy bất trắc. Thất nghiệp tràn lan, lại càng khiến kinh tế thêm khó khăn ». Nguy cơ khủng hoảng trong xã hội Thống kê gần đây nhất của Iran cho thấy 20 % thanh niên trong độ tuổi từ 19 đến 25 bị thất nghiệp, gần 35 % phụ nữ có bằng cấp bị gạt ra ngoài thị trường lao động. Cùng lúc, đơn vị tiền tệ quốc gia, đồng rial mất giá 50 % trong 6 tháng đầu năm 2025. Là một quốc gia dầu hỏa và có nhiều nguồn dự trữ về khí đốt, vậy mà Iran thường xuyên thiếu hụt năng lượng, bị mất điện nên phải đóng cửa các nhà máy, ảnh hưởng trực tiếp đến lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Nhà nghiên cứu Nima Khorrami học viện OSCE Bishkek-Kyrgyzstan trên báo The Diplomat hôm 03/07/2025 khẳng định, sau 2 đợt bị Israel và Mỹ thách thức về quân sự trong tháng 6/2025, Iran đang đứng trước hai nhu cầu cấp bách : Một là chấn chỉnh kinh tế để mong « giữ được khế ước xã hội » với người dân, qua đó bảo đảm sự tồn tại cho chế độ và hai là nhanh chóng gây dựng lại cả một hệ thống an ninh đã hoàn toàn sụp đổ. Teheran thực sự cần « gấp rút » trang bị vũ khí và mua thêm các thiết bị quân sự. Chiếc phao kinh tế Trong cả hai mục tiêu này Iran kỳ vọng nhiều vào các điểm tựa là Nga và Trung Quốc. Thế nhưng Bắc Kinh có phần chiếm ưu thế. Về kinh tế Trung Quốc hơn hẳn nước Nga. Nhà báo Vahid Shamsoddinnezhad giải thích : « Về kinh tế, Nga và Trung Quốc là hai đối tác chính của Iran. Nhưng vai trò của Trung Quốc có phần quan trọng hơn, nếu không muốn nói đây là bình dưỡng khí duy nhất có trọng lượng. Bất chấp trừng phạt về dầu hỏa Mỹ ban hành, Trung Quốc vẫn nhập khẩu dầu của Iran với một khối lượng rất lớn và mua với giá rẻ. Bắc Kinh lách cấm vận của Mỹ. Điều đó giúp Trung Quốc vừa có dầu vừa duy trì ảnh hưởng ở khu vực Trung Đông. Về phía Teheran giao dịch với Trung Quốc nên Iran thu về ngoại tệ và tài trợ cho ngân sách quốc gia. Không có hàng của Trung Quốc thì kinh tế Iran còn bi đát hơn nữa cho dù một mình đối tác này không thể giúp Teheran giải quyết tất cả các vấn đề cơ bản vốn đã ăn sâu vào kinh tế Iran ». Theo báo cáo của Cơ Quan Năng Lượng Mỹ công bố hồi tháng 5/2025, xuất khẩu dầu hỏa của Iran sang Trung Quốc trong năm 2024 « cao gấp đôi so với hồi 2022 ». Iran bán dầu với giá rẻ hơn từ 6 đến 8 đô la một thùng cho bạn hàng Trung Quốc. Dù bị cấm vận, « mỗi ngày, Iran vẫn xuất khẩu từ 1,2 triệu đến 1,5 triệu thùng dầu thô mà 90 % trong số đó chỉ để bán cho Trung Quốc ». Iran trước thách thức « xây dựng lại » hệ thống phòng thủ Bất chấp thỏa thuận hợp tác chiến lược mà Teheran ký kết với Bắc Kinh hồi 2021 hay hiệp ước « đối tác an ninh » ký kết với Matxcơva đầu năm 2025 cả Trung Quốc lẫn Nga cùng khoanh tay đứng nhìn Iran một mình đương đầu với hai trong số các cỗ máy quân sự lợi hại nhất thế giới là Mỹ và Israel. Vẫn nhà báo ban tiếng Ba Tư đài RFI Vahid Shamsoddinnezhad phân tích « 12 ngày giao tranh với Israel đã để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng đối với Iran. Chúng ta đã đề cập đến vế kinh tế, nhưng tai hại hơn nữa đối với Teheran là hệ thống phòng không của Iran hoàn toàn bị phá hủy. Chính vì thế mà Iran đã hối hả cầu viện Matxcơva để xây dựng lại hệ thống phòng thủ, mua thiết bị phòng không của Nga. Trước mắt kết quả không nhiều. Cùng lúc, Iran nhìn về phía Bắc Kinh, đặc biệt là sau khi chiến đấu cơ của Trung Quốc đã chứng minh tính hiệu quả trong cuộc xung đột giữa Pakistan và Ấn Độ hồi tháng 5/2025. Iran mong muốn mua thiết bị quân sự của Trung Quốc và của Nga. Nhưng câu hỏi đặt ra là liệu rằng Bắc Kinh có sẵn sàng đáp ứng nguyện vọng đó của Teheran hay không, trong bối cảnh Washington vẫn duy trì cấm vận với Iran, đồng thời quan hệ Mỹ -Trung đang rất phức tạp. Liệu Trung Quốc có sẵn sàng dương đầu với Hoa Kỳ và thỏa mãn yêu cầu của Teheran hay không ? Còn phải đợi thêm thời gian để trả lời câu hỏi này. Tờ L’Orient du Jour hôm 21/07/2025 tiết lộ, vào lúc Israel vẫn thuyết phục Hoa Kỳ « đánh tiếp » vào các cơ sở hạt nhân ủa Iran, Teheran cần vũ khí tối tân. Chiến tranh Ukraina huy động gần như toàn bộ khả năng sản xuất vũ khí và đạn dược của Nga. Matxcơva khó có thể nhanh chóng thỏa mãn đòi hỏi của Teheran. Còn lại có Trung Quốc. Thỏa thuận đổi dầu hỏa lấy vũ khí hiện đại ? Tờ báo này trích dẫn nhiều nguồn tin thông thạo từ Teheran cho biết « dường như Iran yêu cầu Bắc Kinh cung cấp nhiều loại thiết bị quân sự và vũ khí tối tân như radar giám sát đến dàn phóng tên lửa địa đối không ». Đòi hỏi này đặt Trung Quốc vào thế khó xử, sứ quán Trung Quốc tại Israel đã bác bỏ tin trên. Giáo sư Figueroa đại học Groningue -Hà Lan, được tờ báo trích dẫn giải thích : vì những liên hệ chặt chẽ về kinh tế, Bắc Kinh không thể « bỏ rơi » Iran nhưng công khai yểm trợ chính quyền của giáo chủ Khamenei về mặt quân sự là « một nước cờ mạo hiểm » : Thứ nhất, Trung Quốc cũng rất ngại phản ứng khó lường của chính quyền Mỹ trong tay ông Donald Trump. Thứ hai, là ngoài Israel ra, Bắc Kinh tuyệt đối muốn tránh làm phật lòng một quốc gia thù nghịch khác với Iran là Ả Rập Xê Út. Riyad là một nhà xuất khẩu dầu hỏa « có trọng lượng hơn nhiều so với Iran ». Nima Khorrami cân nhắc những được, thua nếu của Bắc Kinh trong trường hợp Trung Quốc trở thành « điểm tựa chính của Iran về an ninh, quốc phòng ». Bài toán của Bắc Kinh Giúp Iran, Trung Quốc được lợi gì ? Lợi thế đầu tiên là Trung Quốc càng thắt chặt thêm quan hệ với Iran cả về kinh tế lẫn chiến lược trong vùng eo biển Hormuz, bắt rễ vào Vịnh Ả Rập và nhất là dùng lợi thế với Teheran, kết nối một trục giao thương Irak, Iran với Pakistan … Bắc Kinh kỳ vọng dự án xây dựng hành lang kinh tế nối liền Trung Quốc và Pakistan sẽ nhanh chóng cất cánh sau nhiều năm dậm chân tại chỗ. Lợi thế thứ hai là Iran cũng sẽ trở thành một đầu cầu của Bắc Kinh ở Trung Đông và vùng Vịnh. Điểm thứ ba đáng chú ý về mặt địa chiến lược, vẫn theo tác giả bài viết trên báo The Diplomat, là về lâu dài hợp tác với Iran góp phần giảm thiểu ảnh hưởng của Ấn Độ tại Trung Á, chận đứng tham vọng của New Delhi muốn gắn kết Ấn Độ với Trung Á và Afghanistan qua dự án « hành làng giao thương quốc tế Bắc -Nam INTSC mà ở đó Ấn Độ dự định đầu tư ồ ạt vào cảng Chabahar của Iran. Tuy nhiên tất cả những tính toán đó của Trung Quốc cũng cần phải cân nhắc kỹ lưỡng bởi vì theo nhà nghiên cứu Nima Khorrami, hiện tại Bắc Kinh và Nhà nước Do Thái đang có nhiều chương trình họp tác về kinh tế và công nghệ. Trung Quốc có nhiều dự án đầu tư tại Israel. Ngoài ra, « thân thiện » quá với Teheran, Trung Quốc có nguy cơ làm mất lòng cac quốc gia trong vùng Vịnh, vốn vẫn vẫn xem Iran là « kẻ thù ». Ả Rập Xê Út và Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất là những đối tác thương mại, và đặc biệt là những nguồn cung cấp năng lượng mà Bắc Kinh không thể bỏ qua. Về yếu tố Hoa Kỳ : Vào thời điểm Mỹ-Trung đang lao vào một cuộc đối đầu cả về kinh tế, quân sự và nhất là công nghệ, cung cấp vũ khí cho quốc gia bị Hoa Kỳ coi là « kẻ thù » là một nước cờ đầy mạo hiểm. Cuối cùng, trong chính sách đối ngoại của Bắc Kinh, « Iran không là đồng minh, hay đối tác ». Trung Quốc luôn coi Iran là một « mắt xích quan trọng về địa chính trị kềm tỏa ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực Trung Đông ». Do vậy cho dù có hợp tác với Iran về quân sự, quốc phòng, thì tác giả bài nghiên cứu đăng trên báo Nhật Bản The Diplomat tin rằng, Trung Quốc đủ khôn ngoan để « tiếp sức cho Iran đủ mạnh để hưởng lợi một khi mà Teheran phải phụ thuộc vào Bắc Kinh ». Cùng lúc, Bắc Kinh sẽ dừng lại đúng lúc, tránh để Iran trở thành một quốc gia quá mạnh về quân sự để có thể trở thành một mối đe dọa, gây bất ổn ở Trung Đông. Điều này sẽ trái ngược với những quyền lợi của Trung Quốc.
Triển lãm hàng không và không gian le Bourget 2025 ( 16-22/06/2025 ) đã đặt trọng tâm vào mục tiêu phi carbon hóa hàng không để giảm bớt tác hại của ngành này đối với khí hậu của hành tinh chúng ta. Triển lãm đã là dịp để giới thiệu những tiến bộ trong việc sản xuất “nhiên liệu hàng không bền vững” ( SAF ), mà trong tương lai sẽ được sử dụng ngày càng nhiều, kết hợp với nhiên liệu hóa thạch để giảm bớt lượng khí thải gây hiệu ứng lồng kính phát ra từ máy bay. Giao thông hàng không trong những năm tới được dự báo là sẽ tiếp tục tăng đều đặn, với tổng số hành khách trên toàn thế giới trong năm 2025 ước tính sẽ là khoảng 5 tỷ người. Các hãng chế tạo máy bay liên tục nhận được đơn đặt mua hàng chục, thậm chí hàng trăm phi cơ mới từ các hãng hàng không để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng. Nhưng trong khi đó, các nhà công nghiệp phải làm sao thực hiện được cam kết đạt trung hòa carbon vào năm 2050, cho nên họ đang tăng tốc phát triển các loại nhiên liệu hàng không bền vững. Đây là lần thứ tư Triển lãm Le Bourget dành riêng một khu mang tên Paris Air Lab để giới thiệu những sáng chế mới, những dự án mới cho giao thông hàng không tương lai, trong đó nhiên liệu hàng không bền vững được nêu bật. Trả lời RFI Việt ngữ tại khu Paris Air Lab năm nay, bà Julie Lhomme-Maublanc, đại diện công ty IFP Energies nouvelles (IFPEN), cho biết: “Nhiên liệu hàng không bền vững là phương tiện thiết yếu để phi carbon hóa ngành hàng không ngày nay và tương lai. Nếu không có nhiên liệu hàng không bền vững, ta sẽ không thể thành công trong việc phi carbon hóa ngành này. Có nhiều cách để sản xuất các loại nhiên liệu hàng không bền vững. Ngày nay, đã có một số loại được pha trộn với nhiên liệu hóa thạch. Liên Hiệp Châu Âu đã đưa một quy định yêu cầu tăng dần việc kết hợp các loại nhiên liệu bền vững này với nhiên liệu mà máy bay đang sử dụng. Có bốn loại nhiên liệu hàng không bền vững. Đầu tiên phải kể đến loại gọi là HEFA, dùng dầu ăn đã qua sử dụng hoặc mỡ động vật để sản xuất nhiên liệu sinh học, hiện đang được sử dụng kết hợp vào dầu hỏa. Các loại nhiên liệu bền vững khác sẽ được phát triển. Theo quy định của Liên Âu, kể từ năm 2025, nhiên liệu bền vững phải chiếm tỷ lệ 2% trong nhiên liệu máy bay.” Trong số những loại nhiên liệu hàng không bền vững đang được phát triển, đầu tiên phải kể đến BTL, bà Julie Lhomme-Maublanc giải thích: “BTL là viết tắt của “biomass to liquid”. Đó là quá trình chuyển đổi chất thải và cặn bã sinh khối thành nhiên liệu lỏng thông qua quá trình khí hóa, sau đó là quá trình tổng hợp Fischer-Tropsch, giúp tái tạo hydrocarbon tổng hợp, có thể được kết hợp dầu hỏa được sử dụng trong máy bay ngày nay. Những dự án sử dụng công nghệ này đang trong giai đoạn phát triển. Đáng chú ý là một dự án ở miền Nam nước Pháp, dự án BioTJet, sẽ sử dụng công nghệ này và trên nguyên tắc nhà máy sẽ hoạt động kể từ năm 2028-2030. Ta cũng có thể kết hợp điện ít carbon vào quá trình khí hóa, để tăng hiệu quả của quá trình này.” Loại nhiên liệu thứ hai đang được phát triển là ethanol, tương tự như ethanol, được sử dụng cho xe hơi, theo lời bà Julie Lhomme-Maublanc, đại diện công ty IFP Energies nouvelles: "Cơ sở là như nhau, có nghĩa là sản xuất loại ethanol thế hệ thứ hai hoặc ethanol tiên tiến. Nhiên liệu này cũng được sản xuất từ chất thải và cặn bã lâm nghiệp hoặc nông nghiệp không cạnh tranh với các nguồn tài nguyên mà chúng ta sử dụng làm thực phẩm cho con người hoặc động vật. Sau khi được sản xuất, ethanol sẽ được chuyển đổi bằng một loạt quy trình để thu được một loại nhiên liệu mà chúng ta có thể kết hợp với nhiên liệu hóa thạch. Ở đây chúng tôi có trưng bày những chất thải và cặn bã, như rơm rạ, cặn bã từ tre, chất thải và cặn bã từ các hoạt động lâm nghiệp, như các mảnh vụn gỗ.” Cuối cùng, là loại nhiên liệu mang tên i-Fuel, được sản xuất từ khí CO2 được thu giữ bởi các nhà máy, như giải thích của bà Julie Lhomme-Maublanc: “Nhóm nhiên liệu lớn thứ 4 là tất cả những gì chúng ta gọi là i-Fuel, cũng là nhiên liệu tổng hợp sẽ được sản xuất từ CO2, có thể là từ khói công nghiệp, vì vậy chúng ta cần xây dựng các hệ thống thu giữ CO2. Để sử dụng công nghệ này, chúng ta sẽ phải thiết lập các quy trình thu giữ CO2. Chúng ta sẽ thu giữ CO2 từ khói công nghiệp, từ khói phát ra từ các ngành công nghiệp sử dụng sinh khối, hoặc từ CO2 thu được trực tiếp từ khí quyển. Kể từ năm 2041, đây sẽ là điều bắt buộc, theo các quy định của Liên Hiệp Châu Âu. Nước Pháp có nhiều thế mạnh trong lĩnh vực nhiên liệu hàng không bền vững. Một số dự án hiện đang được phát triển. Bây giờ chúng ta thực sự cần chuyển sang giai đoạn công nghiệp, và điều đó đòi hỏi ngành này phải tự cải tổ cơ cấu để thực hiện được mục tiêu đó. Nhưng phải có sự hỗ trợ từ chính phủ và tất cả các bên liên quan để có thể có những nhà máy sản xuất nhiên liệu sinh học.” Chính phủ Pháp trong tháng 6 vừa qua đã chính thức hóa chiến lược công nghiệp nhằm phát triển ngành nhiên liệu hàng không bền vững quốc gia có sức cạnh tranh, hướng tới đáp ứng nhu cầu trong nước và củng cố vị thế xuất khẩu của Pháp vào năm 2030. Chương dành cho nhiên liệu hàng không bền vững (SAF) của Hợp đồng chiến lược cho các hệ thống năng lượng mới (CSF NSE) đã được chính phủ Pháp chính thức ký kết vào ngày 18/06/2025 với các lãnh đạo công ty hàng không, công đoàn và ngành công nghiệp. Chương này xác định lộ trình cụ thể cho giai đoạn 2024-2027, với mục tiêu là đáp ứng đầy đủ nhu cầu SAF của Pháp, đồng thời tìm các cơ hội xuất khẩu. Mục tiêu là vào năm 2030 Pháp sẽ tự cung tự cấp nhiên liệu hàng không bền vững, tích hợp cả nhiên liệu sinh học và nhiên liệu tổng hợp được sản xuất từ hydro tái tạo và carbon dioxide thu được (eSAF và ebioSAF). Ngành công nghiệp Pháp đã bắt đầu đi theo hướng này, với một số nhà máy lọc dầu tham gia sản xuất nhiên liệu sinh học cho hàng không. Thách thức hiện nay là chuyển lộ trình này thành các dự án công nghiệp cụ thể có khả năng cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Ngày càng có nhiều công ty đặt cược vào nhiên liệu hàng không bền vững. Cụ thể là tại Triển lãm hàng không và không gian Le Bourget 2025, hãng Haffner Energy của Pháp, chuyên về nhiên liệu sinh học, và hãng hàng không Luxaviation của Luxembourg đã công bố một thỏa thuận hợp tác trong khuôn khổ sáng kiến SAF Zero, một sáng kiến đầy tham vọng nhằm đẩy nhanh quá trình sản xuất nhiên liệu hàng không bền vững. Mục tiêu của SAF Zero là tạo ra một nền tảng cho việc đầu tư và triển khai các dự án SAF quy mô lớn. Sự hợp tác giữa Luxaviation và Haffner Energy là một phần của phong trào rộng lớn hơn: Cả hai công ty đều là thành viên của dự án SkyPower, một sáng kiến quốc tế để đẩy nhanh quá trình sản xuất và áp dụng SAF trên toàn thế giới. Trước đây rất thận trọng về SAF, tập đoàn dầu khí TotalEnergies Pháp trong tháng 6 vừa qua thông báo họ sẽ có thể sản xuất nửa triệu tấn nhiên liệu bền vững vào năm 2028 và 1,5 triệu tấn trên toàn thế giới vào năm 2030. TotalEnergies chi ra 400 triệu euro để chuyển đổi nhà máy lọc dầu Grandpuits tại vùng Seine-et-Marne thành "nền tảng không dầu hỏa". Một phần lớn trong khoản đầu tư này sẽ được dành cho SAF. Tập đoàn Pháp cũng đã đầu tư 340 triệu euro để chuyển đổi cơ sở La Mède thành nhà máy lọc dầu sinh học. Neste, công ty Phần Lan chuyên về công nghệ tái chế dầu ăn và mỡ động vật, có kế hoạch đạt được ngưỡng 1,5 triệu tấn ngay từ năm tới. Tập đoàn Shell của Anh thì dự kiến sẽ cung cấp 800.000 tấn mỗi năm bắt đầu từ năm 2025 từ cơ sở Rotterdam của họ. Nhưng theo cảnh báo của nhật báo kinh tế Les Echos ngày 26/06/2025, rào cản chính đối với thị trường này vẫn là khả năng tiếp cận nguyên liệu thô. Do đó, ngành công nghiệp này đang nghiên cứu thế hệ nhiên liệu bền vững thứ hai hoặc thậm chí là thứ ba. Dự án nhà máy Lacq, cũng được công bố tại lễ khai mạc Triển lãm hàng không Paris, có kế hoạch huy động một tỷ euro để sản xuất 110.000 tấn nhiên liệu tái tạo, bao gồm 75.000 tấn cho hàng không. Để so sánh, Neste đã đầu tư 1,9 tỷ euro vào việc mở rộng nhà máy lọc dầu Rotterdam, sẽ giúp tăng công suất của nhà máy thêm 1,3 triệu tấn mỗi năm. Đầu tư của tập đoàn Phần Lan này như vậy sẽ hiệu quả hơn gấp sáu lần. "Việc thu hồi chất thải, dầu đã qua sử dụng và lipid là điều cần thiết. Nhưng những nguồn tài nguyên này không phải là vô hạn", theo giải thích của ông Pascal Pénicaud, chủ tịch của Elyse Energy, công ty đang dẫn đầu dự án Lacq BioTJet. Với các đối tác của mình (Avril, Axens, BioneXt và IFP Investissements), Elyse Energy đang tập trung vào chế biến chất thải từ gỗ thành nhiên liệu bền vững. Tiềm năng này được cho là rất lớn và hiện chưa được khai thác hết, như chất thải từ ngành lâm nghiệp hoặc từ đồ nội thất. Trong mọi trường hợp, các khoản đầu tư cần thiết sẽ rất lớn. Công ty Pháp Global Bioenergies ước tính họ sẽ cần tới 200 triệu euro để đưa nhà máy tương lai vào hoạt động vào khoảng năm 2028-2029. Đây là số tiền tương đương mà chính phủ Pháp đã hứa cho tất cả hoạt động sản xuất nhiên liệu sinh học trong giai đoạn 2024-2030, trong kế hoạch phi carbon hóa ngành hàng không.
Khai mạc Tuần lễ Công nghệ Luân Đôn (London Tech Week 09-13/06/2025), thủ tướng Anh Keir Starmer tuyên bố mở ra một chương mới, trong đó trí tuệ nhân tạo là trọng tâm, cho ngành công nghệ cao của Vương quốc Anh. Chính phủ công bố bản tổng dự toán chi tiêu công quốc gia giai đoạn 2025-2030, với con số khổng lồ là 86 tỷ bảng Anh (116 tỷ đô la) dành cho các ngành công nghệ cao, giáo dục và trí tuệ nhân tạo AI. Vậy tham vọng của Luân Đôn là gì và cơ hội nào để Anh Quốc trở thành cường quốc về ‘trí tuệ nhân tạo’? Tường thuật của thông tín viên tại Luân Đôn Nguyễn Giang. Nguyễn Giang : Trước tiên xin giải thích rõ hơn về các con số lớn mà chính phủ Anh đưa ra để đầu tư vào phát triển công nghệ cao, gọi chung là R&D (Research & Development – Nghiên cứu và Phát triển sản phẩm mới). Khoản chi của ngân sách hàng năm từ nay đến năm 2029-2030 là 22,6 tỷ bảng, và đến cuối nhiệm kỳ Quốc Hội này, tổng mức sẽ là 86 tỷ bảng Anh, tương đương 116 tỷ đô la Mỹ. Trong các lĩnh vực, ưu tiên hàng đầu là nghiên cứu và phát triển các cơ sở trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence – AI) để ứng dụng ngay vào giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực, công nghệ tài chính (fintech). Ngoài ra, AI cũng sẽ được đưa vào như một giải pháp công nghệ nhằm giảm chi phí dài hạn cho y tế, quốc phòng và an ninh biên giới. Tôi sẽ nói rõ hơn về các ngành kỹ thuật, bộ môn khoa học, công nghệ nhận được khoản đầu tư lớn sau, nhưng tổng thể thì thông điệp của chính phủ Starmer là muốn tạo ra sự thay đổi cả về lượng và chất để đưa Anh trở thành một cường quốc hàng đầu trong cạnh tranh quốc tế về công nghệ cao và AI. RFI: Cụ thể hơn, Anh Quốc muốn chi tiền vào lĩnh vực nào và đặt ra các mục tiêu cụ thể ra sao? Nguyễn Giang : Về giáo dục, riêng khoản tiền dành cho ứng dụng AI trong giảng dạy và đào tạo nhân công có khả năng sử dụng trí tuệ nhân tạo là 2 tỷ bảng mỗi năm. Anh muốn thúc đẩy dự án AI trong giáo dục từ trung học tới đại học và sau đại học nhằm huấn luyện kỹ năng AI cho hơn 7 triệu nhân công (được hiểu là thế hệ trẻ) và đào tạo 1 triệu kỹ sư chuyên về AI trong 5 năm tới. Ngân sách dành cho y tế công (National Health Service – NHS) là 10 tỷ bảng để hiện đại hóa công nghệ và chuyển đổi sang công nghệ kỹ thuật số từ nay đến 2028-2029. Xin nhắc lại, ngân sách y tế công hiện đã là 29 tỷ bảng, nên khoản đầu tư thêm vào công nghệ cao cho y tế là rất lớn. Luân Đôn cũng sẽ hỗ trợ các công ty khởi nghiệp bằng cách điều chỉnh quy định tài chính để các ngân hàng thử nghiệm AI trong lĩnh vực fintech. Một số ngân hàng như HSBC đã sử dụng AI từ lâu, nhưng tổng thể thì thị trường fintech của Anh đã trở thành một lĩnh vực rất lớn, với hàng nghìn công ty, thu hút hàng tỷ đô la đầu tư, chủ yếu phục vụ doanh nghiệp và thương mại quốc tế, hơn là phục vụ người dân. Chính phủ muốn số hóa dịch vụ khách hàng, triển khai mạnh các ứng dụng ngân hàng (in-bank app) thay thế dịch vụ truyền thống dùng giấy tờ và thư bưu điện. Điều đáng chú ý là chính phủ Anh nói họ sẽ đầu tư vào AI để giải quyết nhanh hơn các hồ sơ xin tỵ nạn, tăng tốc thủ tục trục xuất người trượt tị nạn. Bộ trưởng Tài Chính Rachel Reeves cho biết, chỉ riêng việc nâng cao hiệu quả xử lý giấy tờ cư trú, tị nạn sẽ giúp tiết kiệm ngân sách khoảng 1 tỷ bảng khi chương trình này hoàn tất. Gần 300 triệu bảng cũng sẽ được đầu tư vào Bộ Tư lệnh An Ninh Biên Giới (thành lập năm 2024) và các đơn vị biên phòng của Anh sẽ sử dụng AI để nâng cao hiệu quả trong việc ngăn chặn người nhập cư trái phép. Thêm vào đó, Anh Quốc cũng sẽ tiến hành nghiên cứu chế tạo vũ khí sử dụng AI nhằm đảm bảo an ninh quốc gia và an ninh châu Âu. RFI : Để thực hiện các mục tiêu này, chính phủ Anh sẽ phải làm gì? Chiến lược của họ là gì? Nguyễn Giang : Chiến lược của Anh là “dựa trên vai của những người khổng lồ”. Trong Tuần lễ Công nghệ Luân Đôn, đã có hàng trăm công ty tham dự, gồm các tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới như Microsoft, Amazon Web Services, Google Cloud và NVIDIA. Ngay trong buổi khai mạc, thủ tướng Anh Keir Starmer đã đứng cạnh ông Jensen Huang (Hoàng Nhân Huân), tỷ phú Mỹ gốc Đài Loan, chủ hãng Nvidia. Ông Jensen Huang khen Anh có “hệ sinh thái tuyệt vời cho công nghệ trí tuệ nhân tạo”, nhưng còn thiếu cơ sở hạ tầng. Cụ thể, ông Jensen Huang cho biết Anh có các trường đại học hàng đầu thế giới, các nhà sáng chế, các nhà tư tưởng, và các công ty startup trong môi trường lý tưởng, nhưng thiếu một thứ quan trọng nhất là cơ sở hạ tầng cho AI. Ông cam kết sẽ đầu tư vào lĩnh vực này tại Anh, nhằm đáp ứng sự đón nhận tích cực từ công chúng dự hội nghị London Tech Week. Ngay lập tức, Anh Quốc sẽ dùng 10 nghìn GPU (xử lý đồ họa) của Nvidia để xây dựng một trung tâm dữ liệu lớn, phục vụ hạ tầng AI tại Loughton, Essex, phía Đông Luân Đôn. Tuy nhiên, cách làm của Anh không dựa vào một hoặc hai công ty lớn, mà phân chia thị phần cho nhiều doanh nghiệp của Mỹ, Hà Lan, và các quốc gia khác tham gia. Ví dụ, Vantage Data Centres sẽ xây dựng một trung tâm dữ liệu tại xứ Wales; Latos Data Centres của tỷ phú người Anh Mike Carlin cũng sẽ xây dựng trung tâm ở Wales; tập đoàn Kyndryl thành lập trung tâm tại Liverpool; trong khi Nscale (dùng GPU của Nvidia) sẽ đầu tư 2,5 tỷ USD để phát triển mạng lưới dữ liệu toàn quốc. Tham vọng của Anh là đến năm 2030, sẽ có tới 40 trung tâm dữ liệu chuyên về AI trên khắp đất nước. RFI: Vì sao chính phủ của đảng Lao Động muốn thúc đẩy số hóa và áp dụng trí tuệ nhân tạo vào thời điểm này? Nguyễn Giang : Ở đây chúng ta cần nhìn bức tranh toàn cảnh quốc tế, gồm mối quan hệ Anh – Liên Hiệp Châu Âu và Anh – Hoa Kỳ sau Brexit. Ngoài lý do rõ ràng là AI ngày càng đóng vai trò then chốt trong nền kinh tế và giáo dục, còn có hai vấn đề lớn đặt ra thách thức cho Anh. Một, là thiếu hệ sinh thái hạ tầng tốt cho R&D. Nhiều nhà khoa học Anh đã từng đoạt giải Nobel, sở hữu các phát minh, sáng chế hàng đầu thế giới trong di truyền học, y sinh, điện toán, nhưng thiếu hệ sinh thái để biến các ý tưởng, bằng sáng chế thành sản phẩm thương mại. Nhiều nhà khoa học này buộc phải sang Mỹ, hoặc hợp tác với các đại học, tập đoàn công nghệ của Mỹ để phát triển sản phẩm. Chính sách của Anh nhằm xây dựng các trung tâm công nghệ như Hành lang Oxford-Cambridge nhằm kết nối các đại học danh tiếng, tạo ra sức mạnh về nghiên cứu và đổi mới sáng tạo (critical mass). Trước đó, ngành xe hơi chạy động cơ điện (EV) cũng cần hạ tầng số, vệ tinh dân sự, AI, nhưng tới nay, Anh mới bắt đầu thử nghiệm xe tự lái và dự kiến đến 2027 mới chính thức cho xe tự lái hoạt động trên đường. Hai, là yếu tố địa chính trị. Tháng 2/2025, Pháp khai mạc Hội nghị về Trí tuệ Nhân tạo (AI Summit) và cam kết đầu tư hơn 100 tỷ euro vào AI, mong muốn dẫn đầu khối Liên Âu trong lĩnh vực này. Bruxelles còn hứa sẽ chi 200 tỷ euro cho AI. Trong khi đó, Hoa Kỳ dưới thời Donald Trump muốn bỏ ra hơn 500 tỷ đô la để dẫn đầu cuộc đua AI. Tuy nhiên, cả Anh và Mỹ đều từ chối ký Tuyên bố chung Paris về AI tại Paris vài tháng trước. Như vậy, Luân Đôn đã chọn hướng đi riêng, muốn có chủ quyền về AI (AI sovereignty) và không muốn bị Châu Âu kiểm soát chặt chẽ. Tổng thể, Anh mong muốn có một vị trí vững chắc trong lĩnh vực đổi mới sáng tạo AI toàn cầu – của Mỹ, Trung Quốc và Liên Hiệp Châu Âu. Để đạt được điều đó, Anh Quốc sẽ kết nối với Hoa Kỳ qua các hệ thống cáp dưới biển, tăng cường khả năng tính toán của các trung tâm dữ liệu và mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực AI và công nghệ cao. Trong bức tranh lớn, các ngành công nghệ của Vương quốc Anh đã đạt giá trị thị trường tổng hợp lên tới 1,2 nghìn tỷ đô la vào năm 2025, đứng vị trí số một trong hệ sinh thái công nghệ châu Âu. Tuy nhiên, nếu không tăng cường đầu tư, Anh Quốc sẽ gặp khó khăn cạnh tranh với các quốc gia như Pháp, Đức, Hà Lan, các nước châu Á và Mỹ, Trung Quốc. Năm 2023, Anh đã tổ chức Hội nghị về quản trị toàn cầu của AI tại Bletchley (tham khảo Bletchley Declaration on Frontier AI and AI Governance), nhấn mạnh nhu cầu quản lý, xây dựng khung pháp lý để giảm thiểu các rủi ro do công nghệ AI gây ra. Hiện nay, thái độ của chính giới Luân Đôn đã hướng tới đổi mới, sẵn sàng chấp nhận rủi ro để thúc đẩy sự phát triển của các sản phẩm, kinh tế và tăng trưởng. AI đang được xem là điểm mấu chốt để tạo đà phát triển cho kinh tế Anh trong những năm tới. Khả năng thành công của chiến lược này còn phụ thuộc vào thực tế và còn phải chờ xem.
Pháp có thể mang lại những gì cho các tập đoàn công nghiệp vũ khí của Ukraina ? Họ tìm kiếm gì và có thể học hỏi được những kinh nghiệm nào từ một quốc gia đang phải đối mặt với chiến tranh ? Phương Tây đánh cược vào một đối tác không chỉ là một « kho lương thực của thế giới », mà còn từng là « kho vũ khí » của Liên Xô. Tuy đang sa lầy trong chiến tranh, nhưng Ukraina đã khẳng định thế thượng phong trong lĩnh vực công nghệ chế tạo drone. Tháng 05/2025 hơn 500 doanh nghiệp tham dự diễn đàn Liên Âu-Ukraina về công nghệ quốc phòng, tổ chức tại Bruxelles. Ba tuần lễ sau đó, Paris thông báo kế hoạch một hãng xe hơi của Pháp chế tạo drone ngay trên lãnh thổ Ukraina, và được biết đó là hãng xe nổi tiếng Renault. Thông báo dự án hôm 06/06/2025, bộ trưởng Quân Lực Sébastien Lecornu đã nói đến « Một chương trình chưa từng có ». Còn trong mắt các tập đoàn công nghiệp vũ khí thì Ukraina được ví như một « phòng thí nghiệm nơi cho ra đời những sản phẩm phù hợp nhất với thực tế » của chiến tranh. Do phải đối mặt với quân đội Nga từ tháng 02/2022 ngành công nghiệp quốc phòng Ukraina, mà đặc biệt là trong lĩnh vực chế tạo drone đã chứng minh được khả năng sáng tạo, với những phương tiện hạn hẹp để có được những sản phẩm « hiệu quả » nhất và « hoàn toàn thích ứng với những đòi hỏi trên thực địa ». Đó là điểm quan trọng nhất thu hút các tập đoàn và công ty khởi nghiệp của Pháp trong lĩnh vực quốc phòng. Drone và « chiến tranh du kích công nghệ » Trong một bài tham luận đăng trên tạp chí chuyên về địa chính trị Revue des Conflits, hồi tháng 03/2025 hai đồng tác giả, Arnaud Dassier và Mat Hauser ghi nhận drone của Ukraina đã « cho thấy tính hiệu quả trong mọi lĩnh vực (tình báo, tấn công sâu, tấn công chiến thuật, phá hủy tàu thuyền, v.v.). Chúng cũng cho phép Ukraina tiến hành một dạng ‘chiến tranh du kích công nghệ’ đủ mạnh để chặn đứng đà tiến của Nga » đặc biệt là các loại drone biển rất hiệu quả ở Hắc Hải. Arnaud Dassier là một doanh nhân rất năng động tại Ukraina từ 2005, còn Mat Hauser là đồng sáng lập viên công ty chuyên thu thập các thông tin về kinh tế Stratéon, trụ sở tại Paris và Stratéon tập trung quan sát những cơ hội kinh doanh tại Ukraina. Trên đài truyền hình Pháp France 24 hôm 13/05/2025, Mat Hauser, giải thích vì sao các nhà sản xuất vũ khí của Pháp xem Ukraina là địa bàn hoạt động đầy hứa hẹn. « Chúng tôi quan niệm, do hoàn cảnh chiến tranh đẩy đưa, Ukraina đang chiếm lợi thế cực kỳ lớn trong lĩnh vực quốc phòng. Đây là cơ hội cho phép các công ty của Pháp học hỏi những kinh nghiệm của Ukraina đã được cọ sát với thực tế. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và công nghệ quốc phòng của chúng ta - còn được biết đến dưới tên gọi là một BIDT -tức là nền tảng công nghiệp và công nghệ quốc phòng, đang rất chú ý đến những chuyển động tại Ukraina. Sau hơn 3 năm chiến tranh, các doanh nghiệp Ukraina đã liên tục phải thích nghi với tình huống, phải đổi mới với rất nhiều phát minh về sản phẩm, và cũng đã phải tổ chức lại dây chuyền sản xuất sao cho có những thành phẩm nhanh hơn, hoạt động hiệu quả và luôn luôn bắt kịp những chuyển biến trên thực địa … Đương nhiên đây là những kinh nghiệm rất quý giá đối với Pháp trong lĩnh vực này ». Một điểm quan trọng khác thôi thúc các doanh nghiệp trong ngành của Pháp nhanh chóng tìm kiếm các đối tác Ukraina, do trong những điều kiện khan hiếm tất cả các « đầu vào/input » (vốn, nhân lực, thiết bị điện tử ...) vậy mà phía Ukraina vẫn đáp ứng nhu cầu của quân đội, cung cấp 1,4 triệu drone trong năm 2024 và có thể sẽ là 4 triệu drone trong năm nay. Trong khi đó Pháp mới chỉ đề ra mục tiêu chế tạo 700 chiếc một năm. Nền tảng vững chắc về công nghệ quốc phòng Khi còn thuộc về Liên Xô, Ukraina từng là « kho đạn » của Matxcơva, cung cấp đến 30 % vũ khí đủ loại, từ đạn dược đến thiết giáp và tên lửa cho Liên Bang Xô Viết. Giới trong ngành nhắc lại « Ukraina từng là một tên tuổi trong số các nền công nghiệp quốc phòng, trong một thời gian dài đây không chỉ là một vựa ngũ cốc của khối các nước xã hội chủ nghĩa mà còn từng được mệnh danh là kho vũ khí của Liên Xô, rồi của nước Nga khi Liên Xô tan rã. Kể từ 2015 sau khi Nga chiếm bán đảo Crimée, Ukraina mới bắt đầu ngừng cung cấp vũ khí cho Matxcơva ». Ukraina cần vốn và công nghệ mới Trên đài France24, Mat Hauser lưu ý, nhờ quá khứ đó mà Ukraina đã có sẵn nhiều nền tảng vững chắc trong lĩnh vực công nghệ quốc phòng, có nhiều trường đại học rất tốt để đào tạo ra các kỹ sư chuyên môn. Có điều do không còn có thể xuất khẩu cho khách hàng duy nhất là Nga từ 10 năm qua, nên các nhà sản xuất của Ukraina hơn bao giờ hết cần tìm kiếm những thị trường mới. Đương nhiên là trong giai đoạn hiện tại, chiến tranh đã hủy hoại một phần các cơ sở của Ukraina, và những nhà máy còn hoạt động là nhằm đáp ứng nhu cầu quân sự để đối đầu với lực lượng của Nga. Nhưng theo nhà quan sát này, các tập đoàn Âu Mỹ thực sự « nhìn xa hơn sau cuộc chiến với câu hỏi là làm thế nào để đổi mới nền công nghiệp quốc phòng của Ukraina ». Đồng sáng lập viên Stratéon, Mat Hauser phân tích : « Ngân sách quốc phòng của Kiev hiện tại là 50 tỷ đô la cho tài khóa 2025, đó là một số tiền rất lớn nhưng vẫn chưa đủ cho phép mua tất cả những quân cụ nếu như Ukraina khai thác 100 % các khả năng sản xuất. Cụ thể là nếu như mỗi nhà máy có khả năng sản xuất ra 100 khẩu súng thì trên thực tế họ chỉ huy động các nguồn lực để sản xuất ra 30 khẩu, vừa đủ cho nhu cầu của bên bộ Quốc Phòng. Họ dừng lại ở đó vì có sản xuất thêm nữa thì cũng không biết để làm gì khi mà Nhà nước không có phương tiện để mua thêm, khi mà các nhà máy Ukraina không được quyền xuất khẩu 70 cây súng còn lại cho bất kỳ một quốc gia nào khác. Từ khi có chiến tranh năm 2022 tổng thống Zelensky ban hành lệnh cấm xuất khẩu vũ khí để đối phó với quân Nga ». Kiev cần thu hút đầu tư và công nghệ để trở thành một nguồn cung cấp vũ khí cho thế giới Các doanh nghiệp Ukraina sắp được cởi trói Giới hạn này bị coi là một trở lực để các tập đoàn vũ khí Ukraina phát triển và vươn mình ra thế giới. Nhưng Mat Hauser tiết lộ, Kiev đang chuẩn bị một dự luật để tháo gỡ nút thắt đó. Điều này đã lập tức thu hút chú ý của các doanh nhân Pháp và châu Âu, đặc biệt là nhân diễn đàn về công nghiệp quốc phòng giữa Liên Hiệp Châu Âu và Ukraina hồi giữa tháng 5/2025 tại Bruxelles. Trong chiều hướng đó, Ukraine sẽ sớm mở cửa cho đầu tư nước ngoài. Vì vậy, các công ty Mỹ, Anh và Đức đã bắt đầu định vị để mua lại các công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực này. « Dự luật này hiện tại chưa được thông qua. Nhưng nhiều người quan niệm là để phát triển, các nhà sản xuất của Ukraina cần đi tìm những thị trường mới để xuất khẩu bởi vì không thể chỉ sản xuất để phục vụ nhu cầu nội địa. Lĩnh vực tiêu biểu nhất nói lên điều này là ngành chế tạo drone và đây cũng là chủ đề được mọi người chú ý đến nhiều hơn cả, nhưng thực ra còn phải kể đến những lĩnh vực từ chế tạo xe bọc thép, đạn dược, đến sản xuất bộ đàm với khả năng bảo mật cao hay các sản phẩm gây nhiễu sóng… Chắc chắn là một khi kết thúc chiến tranh, Ukraina vẫn cần có được một mạng lưới công nghiệp quốc phòng vững chắc. Đây sẽ là một điều mang tính sống còn vì 2 lý do : một là phải tạo điều kiện để cho các những người lính khi giải ngũ - mà trong số này có nhiều kỹ sư, hội nhập trở lại vào đời sống chính trị của đất nước. Lý do thứ hai là cho dù có vãn hồi hòa bình, Ukraina ý thức được rằng Nga vẫn là một mối đe dọa cận kề nên cần có một nền công nghiệp quốc phòng mạnh mẽ để tự vệ ». Anh, Mỹ được coi là đã nhanh chân chen vào Ukraina. Còn các công ty Pháp thì sao ? Mat Hauser trả lời : « Có nhiều cách để tiếp cận thị trường Ukraina. Đương nhiên các hãng lớn chủ trương mở công ty liên doanh. Thí dụ như đại tập đoàn Rheinmetall của Đức đã ký hợp đồng cộng tác với Ukraina cùng chế tạo xe bọc thép. Còn các hãng nhỏ thì quan tâm nhiều đến các công ty khởi nghiệp Ukraina. Gần đây, một hãng của Pháp trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo phục vụ các hoạt động quân sự đã liên hệ để cộng tác và chia sẻ kinh nghiệm với Ukraina… Nhìn chung, có khá nhiều đơn vị của Mỹ, của Đức, Anh, Đan Mạch, Hà Lan và một vài hãng của Nhật đã đầu tư vào các công ty khởi nghiệp của Ukraina, Pháp hơi chậm chân … Hình thức đầu tư này mang tính rủi ro cao bởi vì như vừa nói hiện tại các doanh nghiệp của Ukraina chưa được phép xuất khẩu tức là chỉ để phục vụ thị trường nội địa. Chiến tranh kết thúc, coi như họ mất việc. Hơn nữa chắc chắn trong số các công ty khởi nghiệp đang mọc lên, nhiều thực thể sẽ không tồn tại được một khi chấm dứt chiến tranh, thị trường vũ khí của Ukraina sẽ phải được tổ chức lại và những thực thể yếu kém nhất sẽ bị loại bỏ một cách tự nhiên. Thành thử đầu tư nhiều vào Ukraina cũng là một bài toán đầy mạo hiểm ». Ukraina có khả năng sản xuất nhanh, nhiều và có chất lượng Vũ Khí - Quốc Phòng : Ukraina, « một dạng Trung Quốc thứ hai » đe dọa châu Âu ? Theo đồng sáng lập công ty chuyên thu thập các thông tin về kinh tế hướng về Ukraina, nếu như Pháp « chậm chân hay bỏ lỡ cơ hội » hơp tác với các nhà sản xuất vũ khi Ukraina, thì mối nguy hiểm hơn nữa là sắp tới « nguy cơ vũ khí và thiết bị quân sự giá rẻ của Ukraina đe dọa hàng của châu Âu và Pháp ». « Phía Pháp còn hơi rụt rè và chậm trễ trong việc dấn thân vào Ukraina và điều này nguy hiểm ở hai khía cạnh : một là Pháp không nắm bắt được tiềm năng của thị trường Ukraina, và hai là trong tương lai, thậm chí là với sự hỗ trợ của các doanh nghiệp phương Tây khác, Pháp có nguy cơ bị hàng của Ukraina cạnh tranh. Tôi xin giải thích : Trong ba năm vừa qua, Ukraina đã có những bước tiến rất xa về công nghệ chế tạo drone, về kỹ thuật …. Vậy nếu không cộng tác với họ để nắm bắt được những kinh nghiệm quý giá đó thì thật là phí ! Nhưng thành thực mà nói, đã có không ít liên hệ giữa các doanh nghiệp của Pháp và Ukraina. Hơn nữa Ukraina từng được mệnh danh là kho vũ khí của Liên Xô tức là họ đã có hẳn những nền tảng và cơ sở vững chắc về quốc phòng. Ukraina có thể sản xuất vừa nhiều vừa rẻ. Cho nên với vốn đầu tư nước ngoài, họ sẽ phát triển rất nhanh. Ngay
Giá dầu hỏa bị đẩy lên cao và thị trường thêm căng thẳng kể từ khi xung đột Israel-Iran khai mào. Cộng đồng quốc tế nín thở trước nguy cơ một lần nữa tăng trưởng của thế giới lại bị khủng hoảng dầu lửa nhận chìm. Chưa ai nói đến một cơn « sốt dầu » cho đến khi Mỹ « nhập cuộc » ngày 22/06/2025. Nhiều lý do giải thích cho hiện tượng nói trên, nhưng tất cả đều có thể thay đổi nhanh chóng nếu chiến tranh lan rộng. Tại Matxcơva, tổng thống Vladimir Putin ắt hẳn hài lòng, vì nhờ « Sư Tử » Israel « Vươn Mình » sang tận lãnh thổ Cộng Hòa Hồi Giáo Iran trong đợt oanh kích đêm 12 rạng sáng 13/06/2025, mà giá một thùng dầu của Nga mới ngoi lên được đến 5000 rúp. Đây là mức cao nhất từ nửa năm nay. Trong vỏn vẹn chưa đầy một tuần lễ, thu nhập từ xuất khẩu dầu lửa của Matxcơva tăng 12 %. Căng thẳng thì có, khủng hoảng thì chưa Nga là một trong những nguồn cung cấp năng lượng cho thế giới. Bất chấp chiến tranh Ukraina và các đợt trừng phạt của Âu - Mỹ, dầu khí vẫn đem về gần 1/3 thu nhập cho ngân sách của chính phủ. Đây là nguồn tài trợ cho cỗ máy chiến tranh của tổng thống Vladimir Putin. Ở những nơi khác trên thế giới, giá một thùng dầu Brent tăng hơn 10 % và hiện dao động ở mức khoảng 75 đô la/thùng, tương đương với giá dầu hồi tháng 1/2025 trước khi chính quyền mới ở Washington khuấy lên một cuộc chiến thương mại với gần như toàn thế giới. Các nhà sản xuất thì hài lòng, nhưng đối với những quốc gia phải nhập khẩu năng lượng, đứng đầu là Trung Quốc hay Nhật Bản và nhiều nước trong Liên Hiệp Châu Âu, đây là một mối đe dọa mới. Trả lời đài RFI Pháp ngữ, chuyên gia về năng lượng Francis Perrin, giám đốc nghiên cứu Viện Quan Hệ Quốc Tế và Chiến Lược IRIS của Pháp, ghi nhận « chảo dầu ở Trung Đông có nguy cơ bốc cháy bất cứ lúc nào »: « Hậu quả đầu tiên đương nhiên là giá dầu hỏa tăng lên. Điều này không có gì ngạc nhiên do chuyển biến tại Trung Đông, nơi tập trung khoảng một nửa trữ lượng dầu của thế giới. Hơn nữa căng thẳng và xung đột lần này lại liên quan trực tiếp đến Iran, một nhà sản xuất dầu mỏ lớn trên thế giới. Giá dầu đã tăng ngay từ thứ Sáu 13/06/2025 sau đợt không kích đầu tiên của Israel đêm hôm trước. Trên các thị trường ở Luân Đôn hay New York, giá dầu đều tăng 7% trong phiên giao dịch hôm đó và 7% trong một ngày là mức tăng rất mạnh ». Những tác động cụ thể đến người tiêu dùng Francis Perrin giải thích cụ thể về những tác động khi giá dầu bị đẩy lên cao: « Khi giá dầu tăng thì các nước nhập khẩu thấm đòn. Như trường hợp của Pháp chẳng hạn, 99 % lượng dầu tiêu thụ là phải mua của nước ngoài, có nghĩa là hóa đơn thanh toán mỗi thùng dầu sẽ đắt hơn. Điều này ảnh hưởng đến cán cân thương mại, cán cân thanh toán, cũng như đến các ngành công nghiệp cần dầu mỏ, hoặc các sản phẩm tinh chế từ dầu. Kế tới là tác động đối với người tiêu dùng : giá xăng dầu bị đẩy lên cao, giá dầu sưởi cũng vậy. Mỗi khi giá dầu tăng, câu hỏi đặt ra là mức độ tăng giá dầu sẽ lên đến đâu, và tác động đến giá cả ở mức độ nào, cơn sốt dầu sẽ kéo dài trong bao nhiêu ngày. Hiện tại không thể trả lời những câu hỏi này, nhưng rõ ràng là người tiêu dùng, các nước nhập khẩu và các ngành công nghiệp cần dầu mỏ, hoặc sản phẩm tinh chế từ dầu sẽ bị ảnh hưởng. Tác động càng mạnh nếu giá dầu tăng quá cao và trong một thời gian dài. Tôi xin đưa ra một giả định để chúng ta dễ hiểu: Giả sử giá dầu tăng lên 90 đô la một thùng, hậu quả sẽ hoàn toàn khác nếu tình trạng này chỉ kéo dài hai ngày, hai tuần, hay kéo dài hai tháng, cả năm ». Trung Quốc thiệt hại lớn Như vừa nói, Trung Quốc là nguồn tiêu thụ dầu hỏa lớn thứ hai thế giới, chỉ sau Mỹ, nhưng là bên nhập khẩu nhiều dầu nhất. Nhập khẩu bảo đảm ¾ lượng dầu tiêu thụ trên cả nước. Theo Théo Nencini, chuyên nghiên cứu về quan hệ giữa Iran và Trung Quốc, Trường Khoa Học Chính Trị Grenoble, xung đột tại Trung đông hiện nay là một thách thức mới cho kinh tế và tăng trưởng Trung Quốc. Ông giải thích : « Hơn một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu dầu lửa của Trung Quốc phải đi qua eo biển Hormuz. Tùy theo cách tính toán, Iran bảo đảm từ 12 đến 18 % nhu cầu về dầu hỏa cho Trung Quốc ». Từ khi lên cầm quyền năm 2012, ông Tập Cận Bình « liên tục mở rộng bang giao với Teheran » vì hai lý do : Trung Quốc và Iran cùng phản đối trật tự quốc tế trong tay Hoa Kỳ và Bắc Kinh muốn mở rộng ảnh hưởng ở Trung Đông vì mục đích địa chính trị và nhất là kinh tế. Năm 2016 ông Tập công du Iran. Năm năm sau đó, đôi bên ký « Hiệp định hợp tác chiến lược » trong vòng 25 năm và Bắc Kinh đã cam kết đầu tư 400 tỷ đô la trong giai đoạn này để giúp Iran phát triển kinh tế, thoát khỏi vòng vây của các biện pháp trừng phạt phương Tây. Đổi lại, Teheran ưu tiên cung cấp dầu cho Trung Quốc. Trung Quốc là khách hàng lớn nhất mua dầu hỏa của Iran. Giám đốc nghiên cứu Viện Quan Hệ Quốc Tế Pháp Francis Perrin nói rõ hơn về trọng lượng của Trung Quốc đối với thị trường dầu hỏa Iran : « Trong lĩnh vực dầu hỏa Iran là nhà sản xuất lớn thứ 8 thế giới và một phần lớn khối lượng sản xuất là để xuất khẩu. Iran cũng là một nguồn cung cấp quan trọng của thế giới, nhưng đã bị Hoa Kỳ ban hành lệnh cấm vận trong nhiều năm và lệnh cấm đã được áp dụng trở lại hồi 2018. Trong nhiệm kỳ đầu, ông Trump đã tuyên bố kể từ ngày 05/11/2018, bất kỳ công ty hay quốc gia nào nhập khẩu dầu mỏ từ Iran sẽ bị Mỹ trừng phạt chiếu theo nguyên tắc ngoài lãnh thổ. Lập tức hầu như tất cả các quốc gia đều ngừng mua dầu từ Iran, ngoại trừ Trung Quốc. Cho đến nay, Trung Quốc vẫn là khách hàng mua dầu chủ yếu của Iran. Trong nhiệm kỳ 2 tổng thống Trump tuyên bố khai trừ xuất khẩu dầu của Iran trên thị trường thế giới. Tình hình đã trở nên căng thẳng hơn cho dù Mỹ và Iran đã nối lại đàm phán hạt nhân từ giữa tháng 4/2025. Dù vậy Teheran đến nay vẫn xoay xở để xuất khẩu dầu, đặc biệt là sang châu Á, mà chủ yếu là sang Trung Quốc, nguồn tiêu thụ dầu mỏ lớn thứ hai thế giới và là quốc gia nhập khẩu dầu mỏ số một toàn cầu ». Ẩn số chung quanh eo biển Hormuz Vào lúc câu hỏi đang đặt ra là nếu bị đẩy vào chân tường, Iran có dám đóng cửa eo biển Hormuz hay không, giới quan sát đồng loạt trả lời là không. Chuyên gia về dầu hỏa Francis Perrin trình bày : « Đây sẽ là kịch bản tệ hại nhất. Eo biển Hormuz là một vị trí chiến lược. Mỗi ngày khoảng 1/5 lượng dầu tiêu thụ toàn cầu trung chuyển qua ngả này bằng các tàu chở dầu mà chúng ta gọi là tankers. 20% lượng dầu tiêu thụ trên toàn thế giới phải đi qua đây. Do vậy nếu eo biển này bị phong tỏa, thì giá dầu sẽ tăng vọt. Không ai có thể thẩm định được một cách cụ thể về mức độ tai hại, nhưng đây sẽ là một cú sốc khủng khiếp với những hậu quả khó lường. Tuy nhiên, tôi cho rằng kịch bản này không có khả năng xảy ra, ít nhất là trong thời điểm hiện tại, bởi vì phong tỏa eo biển Hormuz sẽ là một loại vũ khí hủy diệt, tức là giải pháp cuối cùng, chỉ được dùng đến khi mà sự tồn tại của chính quyền Iran bị đe dọa. Chính quyền Iran không sụp đổ chỉ vì các cuộc không kích của Israel. Do vậy, nếu Iran phong tỏa eo biển Hormuz trong tương lai gần, thì ngoài các cuộc không kích của Israel, Iran sẽ phải hứng chịu thêm đòn từ phía Mỹ. Nói một cách dễ hiểu, phong tỏa eo biển Hormuz không phải là thượng sách. Điểm thứ nhì, phong tỏa eo biển Hormuz tức là Iran tự triệt đường xuất khẩu dầu hỏa của chính mình. Trong khi đó thì Teheran đang rất cần ngoại tệ, mà dầu hỏa là yếu tố sống còn đối với kinh tế nước này. Trong trường hợp đó, Trung Quốc cũng sẽ không thể tiếp tục mua dầu của Iran. Quốc gia Trung Đông này như vậy sẽ mất đi nguồn thu nhập và gây khó khăn cho khách hàng quan trọng nhất và gần như là duy nhất vẫn còn giao thương với Iran. Đây cũng sẽ là tính toán sai lầm, bởi Bắc Kinh là điểm tựa của Iran cả về chính trị lẫn ngoại giao. Là thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, Trung Quốc có thể ngăn chặn các nghị quyết gây bất lợi cho Iran. Trong tình hình khó khăn hiện nay, đây không phải là lúc để Tehran làm mất lòng một trong những đồng minh hiếm hoi còn lại ». Iran không muốn tự sát Đừng quên rằng eo biển Hormuz là cửa ngõ chung để đưa năng lượng của các quốc gia trong vùng Vịnh Ba Tư (Iran, Kweit, Ả Rập Xê Út, Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất, Qatar) ra Ấn Độ Dương. Do vậy, nếu khóa eo biển Hormuz, chắc chắn Teheran sẽ không yên được với các nước trong vùng. Thêm một điều nữa : Để đóng cửa eo biển Hormuz, Iran sẽ phải « vi phạm chủ quyền lãnh hải của Oman ». Theo một chuyên gia của công ty chuyên cung cấp dữ liệu kinh tế và tài chính Kpler, « vi phạm toàn vẹn lãnh hải của Oman tạo cơ hội cho Hoa Kỳ can thiệp quân sự ». Khi đó « chảo dầu » của thế giới có nguy cơ « bốc cháy ». Đó là một thực tế hoàn toàn có thể xảy ra, nhưng giới trong ngành cũng nhắc lại: Trong cuộc chiến giữa Iran và Irak vào thập niên 1980, eo biển này đã từng bị « kẹt giữa hai làn đạn » làm xáo trộn thị trường dầu hỏa toàn cầu, gây nên một « cơn sốt dầu ». Chính vì tránh để kịch bản này tái diễn nên Hoa Kỳ đã « gài » Hạm Đội Năm tại căn cứ Manama ở Bahrain. Điều đó không cấm cản Teheran nhiều lần đe dọa đóng cửa eo biển Hormuz như vào năm 2011 hay vào năm 2019, mỗi lần quốc tế siết chặt thêm các biện pháp cấm vận. Nhưng như vừa nói, phong tỏa eo biển chiến lược này sẽ là « một hành động tự sát » của chế độ thần quyền trong tay giáo chủ Khamenei. Một sự kềm chế từ phía Israel ? Như một nhà quan sát trong ngành ghi nhận : Hơn tất cả các đời tổng thống trong lịch sử Hoa Kỳ, Donald Trump « mê tiền » và không muốn phải hy sinh các lợi ích kinh tế. Đây có thể là một cái « may » : Chính vì lợi ích kinh tế mà chủ nhân Nhà Trắng sẽ tránh để kịch bản « tệ hại nhất đó » xảy ra. Sau cùng, cho đến ngày 21/06/2025, tức là hơn một tuần lễ từ khi khai hỏa, quân đội Israel có nhắm vào các cơ sở năng lượng của Iran, như ở Shahran, một trong những kho dự trữ lớn nhất của Iran, nhưng đó là khu vực dự trữ dầu để cung cấp cho thị trường nội địa. Trung tâm Emirates Policy Center ghi nhận, đến nay những nhà máy dầu và kho dự trữ để xuất khẩu vẫn còn nguyên vẹn. Điển hình là nhà máy được đặt tại đảo Kharg, khu vực tây nam Iran, nơi cất giữ đến« 95 % dầu hỏa của Iran để xuất khẩu». Nếu
Kịch bản bất thường khi đồng tiền Mỹ mất giá trong lúc tình hình thế giới bất ổn hơn bao giờ hết. Phải chăng đô la không còn là « tài sản an toàn nhất » ? Câu hỏi được đặt ra một phần do trung bình cứ ba tháng một lần, gánh nợ của chính quyền liên bang lại tăng thêm 1.000 tỷ đô la. Nhờ là nền kinh tế số 1 thế giới và quy chế đặc biệt của đồng đô la, công trái phiếu bộ Tài Chính phát hành vẫn dễ dàng có người mua. Tình trạng này sẽ còn kéo dài được bao lâu khi mà giới tài chính ngân hàng, các nhà nghiên cứu cũng như các doanh nghiệp và giới đầu tư bắt đầu hoài nghi về tiềm năng tăng trưởng của Hoa Kỳ và chiến lược phát triển kinh tế bị coi là « mù mờ » của tổng thống Trump ? Thế giới vẫn xem nợ của Mỹ là một sản phẩm tài chính an toàn ? Mỹ không chỉ là nền kinh tế lớn nhất mà còn là quốc gia mang nợ nhiều nhất trên hành tinh. Trong một vài ngày nữa tổng nợ công của Hoa Kỳ sẽ đụng ngưỡng 37.000 tỷ đô la. Nợ của Mỹ như vậy lớn gấp 9 lần so với GDP Đức, nền kinh tế số 1 trong Liên Hiệp Châu Âu. Hôm nay 17/06/2025 là một ngày quan trọng đối với Washington do bộ Tài Chính Mỹ phát hành thêm 118 tỷ đô la công trái phiếu đủ loại (với thời hạn 3-10 và 30 năm). Câu hỏi đặt ra là chuyện gì sẽ xảy ra nếu như các ngân hàng trung ương nước ngoài, các định chế tài chính tư nhân của Mỹ và ngoại quốc « chê » hay « ngại » mua thêm vào nợ của Hoa Kỳ ? Một số dự báo e rằng, lãi suất tín dụng dài hạn 10 và 30 năm Mỹ phải đi vay có nguy cơ lại « vượt quá ngưỡng tâm lý » 5 %. Mới chỉ với lãi suất tín dụng 4 % mà theo thẩm định của Văn Phòng trực thuộc Hạ Viện lo về ngân sách, trong tài khóa 2025 chính phủ Liên Bang sẽ phải dành ra 952 tỷ đô la để trả tiền lãi cho các chủ nợ. Số tiền này như vậy lớn hơn cả « ngân sách của bên bộ Quốc Phòng ». Donald Trump, « mối đe dọa lớn nhất » đối với kinh tế Hoa Kỳ ? Có ít nhất ba yếu tố báo trước Mỹ sẽ phải đi vay tín dụng với lãi suất cao hơn : Thứ nhất, từ 2019 Mỹ đã phải đi vay với lãi suất càng lúc càng cao, nhưng từ khi trở lại Nhà Trắng hôm 20/01/2025 tổng thống Trump như đang « nhấn ga » mạnh hơn nữa để lao vào một bức tường. Chính sách thuế đối ứng và chiến tranh thương mại của Washington có nguy cơ đánh thẳng vào tăng tưởng của Hoa Kỳ. Lo ngại thứ hai là gần đến hạn định 90 ngày Donald Trump (tức là ngày 09/07/2025) để cho thế giới để đàm phán hòng tránh được những mức thuế « trên trời » từ 10 đến 50 % phụ trội mà Mỹ áp đặt. Nhưng đã gần đến cột mốc 09/07/2025 mà đến nay mới chỉ có 1 nước duy nhất là Anh Quốc chính thức đạt được đồng thuận để chỉ bị phạt 10 % thuế hải quan khi xuất khẩu sang Mỹ. Một số quốc gia khác như Việt Nam, Nhật Bản thì mới chỉ « gần sắp đạt đến đích ». Hàn Quốc với một chính quyền mới của tổng thống Lee Jae Myung « cần có thời gian để nắm vững hồ sơ ». Indonesia thì sáng 17/06/2025 vừa tuyên bố « không cần thiết điều phái đoàn trở lại Washington để tiếp tục đàm phán vì Jakarta đã cố gắng hết sức mình. Quả bóng giờ đây ở trên sân chơi của Mỹ » … Với Trung Quốc chưa thể nói là Bắc Kinh và Washington đã buông vũ khí sau hai vòng đàm phán ở Genève và Luân Đôn. Thêm 2.400 tỷ đô la nợ trong 10 năm Lý do thứ ba khiến nhiều nhà đầu tư thận trọng với Hoa Kỳ chính là dự luật ngân sách Big and Beautiful Bill Act mà tổng thống Trump coi là công cụ hiệu quả để đem lại « hào quang cho nước Mỹ ». Nếu được Quốc Hội Lưỡng Viện thông qua, đạo luật này sẽ đào sâu thêm nữa 2.400 tỷ đô la nợ của chính phủ liên bang trong 10 năm sắp tới. Làm thế nào giải thích núi nợ đã xấp xỉ 37.000 tỷ đô la của Mỹ ? Phải chăng đó là một yếu tố đang làm suy yếu đồng đô la ? RFI mời chuyên gia Thomas Grjebine, Trung Tâm Nghiên Cứu về Triển Vọng Kinh Tế và Thông Tin Quốc Tế của Pháp – CEPII trả lời các câu hỏi này. Trước hết Thomas Grjebine nhấn mạnh nhiều đời tổng thống Hoa Kỳ đều ỷ lại vào sức mạnh và đặc quyền Washington có được nhờ đồng đô la : « Nợ công của Mỹ tăng mạnh trong nhiều năm do các chính quyền liên tiếp vừa mạnh tay tăng các khoản chi tiêu, vừa có những chương trình quy mô để giảm thuế - đặc biệt là dưới nhiệm kỳ đầu của ông Donald Trump. Quả thực là trong một thời gian dài Washington không xem nợ nần chồng chất là một vấn đề bởi vì Hoa Kỳ có đồng đô la, nên vẫn có thể đi vay với lãi suất không quá đắt. Trong những tuần lễ gần đây chúng ta thấy tình hình thêm căng : Mỹ đi vay tín dụng với lãi suất cao hơn - có nghĩa là Mỹ khó huy động vốn hơn và qua đó, chi phí phải thanh toán cho các chủ nợ sẽ nặng hơn. Trước mắt hiện tượng này chưa tác động đến các hộ gia đình Mỹ. Nhưng điều đó cũng có nghĩa là trong tương lai xa hơn và đến một lúc nào đó chính quyền liên bang phải tăng thuế để tiếp tục trả nợ ». Đô la không còn là một phương tiện dự trữ an toàn ? Có điều từ đầu 2025 đến nay, đô la Mỹ mất giá 9 % so với các đơn vị tiền tệ khác như đồng euro hay franc của Thụy Sĩ, bảng Anh và Yen Nhật Bản… Phải chăng đây là dấu hiệu đô la không còn là một « tài sản an toàn » vì nợ Mỹ càng lúc càng tăng nhanh và có ngy cơ « vượt ngoài tầm kiểm soát » ? Khi đó, nền kinh tế số 1 thế giới càng khó đi vay ? Thomas Grjebine, trước mắt loại trử kịch bản Mỹ khan hiếm tiền mặt. « Cần nói rõ là chưa có chuyện Hoa Kỳ gặp khó khăn khi cần đi vay tín dụng, Mỹ cũng không lâm vào hoàn cảnh thiếu hụt thanh khoản và chúng ta hoàn toàn không đứng trước khủng hoảng về nợ nông như điều từng xảy ra với Hy Lạp hồi 2011. Hiện tại chúng ta mới ghi nhận hiện tượng lãi suất tín dụng tăng lên cao và sẽ đè nặng thêm nữa lên các khoản chi phí trong ngân sách của chính quyền liên bang. Nhưng còn phải kể đến vai trò của Ngân Hàng Trung Ương Mỹ : Federal Reserve có thể can thiệp bằng cánh ồ ạt mua vào các công trái phiếu mà bên bộ Tài Chính phát hành và qua đó làm hạ nhiệt tình hình. Kết luận ở đây là Hoa Kỳ không bị khủng hoảng về nợ công đe dọa »… Thái độ thận trọng : đô la sẽ tiếp tục mất giá Thomas Grjebin giải thích thêm : « Các nhà đầu tư tiếp tục mua vào nợ của Mỹ bởi Hoa Kỳ vẫn là thị trường lớn nhất, năng động nhất và phát hành nhiều công trái phiếu nhất. Nếu muốn đầu tư vào công trái phiếu, thì không có giải pháp nào để thay thế cho công trái Hoa Kỳ : Đức cũng phát hành công trái nhưng không thấm vào đâu. Hơn nữa Mỹ có đồng đô la… » Đây là « đơn vị tiền tệ quốc tế thực thụ duy nhất » của thế giới. Hiện tại có một khối lượng khoảng 1.300 tỷ đô la lưu hành ở mọi nơi, ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ… Trên nguyên tắc, trước mọi biến động về địa chính trị, nhu cầu mua vào đô la được đẩy lên cao. Đô la tăng giá. Lần này, cho đến cuối tuần trước thế giới phải đối mặt với nhiều bất ổn như xung đột Israel và Palestine tại dải Gaza, và một cuộc chiến đã kéo dài là chiến tranh Ukraina… vậy mà đồng đô la đã liên tục trượt giá. Các ngân hàng lớn của Hoa Kỳ có vẻ không mấy lạc quan. Morgan Stanley chẳng hạn e rằng « từ nay đến giữa 2026 đô la có thể sẽ còn rơi mạnh hơn nữa, mất giá thêm 10 % so với thời điểm hiện tại ». Goldman Sachs cũng đánh giá tương tự và thậm chí khuyên các thân chủ nên tích trữ đồng yen và euro hơn là đô la. Về phần nhà nghiên cứu Thomas Grjebine của trung tâm Pháp CEPII, anh nói đến một hiện tượng « chưa từng có » : « Đây là hiện tượng khá mới mẻ bởi vì từ trước đến nay mỗi lần xảy ra khủng hoảng thì thông thường đô la tăng giá. Những mối lo ngại liên quan đến thị trường tài chính hay về sức tăng trưởng của các nền kinh tế trên thế giới, thì phản ứng là mọi người đua nhau tích trữ đồng đô la hay mua vào công trái phiếu của Hoa Kỳ. Tức là đơn vị tiền tệ của Mỹ sẽ tăng giá. Nhưng lần này thì không. Từ nhiều tháng qua, đô la trượt giá vào lúc mà tăng trưởng toàn cầu bị đe dọa và tình hình thế giới bấp bênh hơn bao giờ hết (....) Có chiều hướng là đô la sẽ tiếp tục mất giá trong nhiều tháng bởi vì môi trường hiện tại không ổn định do có nhiều rủi ro : Chúng ta chưa biết chiến tranh thương mại sẽ đi về đâu. Donald Trump có tiếp tục đẩy cuộc chiến này lên một mức độ cao hơn nữa hay không. Thế nhưng cầm chắc là thâm hụt ngân sách của Mỹ sẽ còn tăng thêm nữa. Hiện có nhiều nghi vấn về dự luật tài chính tổng thống Trump đang ấp ủ là dự luật Big and Beautiful Act Bill. Những ngờ vực về tăng trưởng của Hoa Kỳ cũng có nguy cơ kéo tỷ giá của đô la xuống thấp ». Một nhà tài chính trên báo kinh tế Les Echos hôm 03/06/2026 kết luận « đô la cũng như công trái phiếu của Hoa Kỳ vốn được xem là những sản phẩm tài chính an toàn bậc nhất đang bị rớt đài ».
Biển và đại dương là « cột sống kinh tế của toàn cầu », mang lại việc làm cho trên dưới 200 triệu người, là nơi vận chuyển 90 % thương mại của thế giới và bảo đảm đến 90 % dịch vụ kết nối trong thời đại công nghệ số. Không gian biển đã trở thành nơi mà những lợi ích kinh tế, những tham vọng chính trị và quân sự đan chặt vào nhau. Kèm theo đó là nguy cơ xung đột vũ trang. Trước tình hình Trái đất đang bị thu hẹp dưới gánh nặng dân số, nhu cầu về lương thực thực phẩm, về tài nguyên, về năng lượng tăng nhanh, viễn cảnh làm chủ các nguồn tài nguyên còn vùi rất sâu trong lòng biển càng hấp dẫn.25.000 tỷ đô la tiềm năng kinh tế từ đại dương Nếu là một quốc gia trên hành tinh, biển cả và đại dương sẽ là 1 trong 5 nền kinh tế phồn thịnh nhất, giàu có hơn cả Nga hay Brazil. Đây cũng là nơi mà tiềm năng về kinh tế ước tính lên tới 25.000 tỷ đô la. Để so sánh, GDP của Việt Nam là 480 tỷ đô la (2024). Trước ngày khai mạc Hội Nghị Đại Dương Liên Hiệp Quốc UNOC3, đồng chủ tịch diễn đàn tại Monaco, quy tụ các doanh nghiệp, giới đầu tư và nhất là các ngân hàng, Pascal Lamy thẩm định tiềm năng kinh tế và tài chính có thể rút ra từ biển cả lên tới 25.000 tỷ đô la.Báo cáo gần đây nhất của Tổ Chức Hợp Tác và Phát Triển Kinh Tế (OCDE) ghi nhận trong suốt giai đoạn từ 1992 đến 2020 « hơn 100 triệu việc làm trên thế giới » là trực tiếp gắn liền với biển cả. Con số này có lúc vượt quá ngưỡng 150 triệu .Còn theo nghiên cứu của Liên Hiệp Quốc, « biển và đại dương bảo đảm sinh tồn cho ít nhất 3 tỷ người trên hành tinh, là nguồn cung cấp chất đạm cho 17 % nhân loại » đó là chưa kể đến « rất nhiều những lĩnh vực kinh tế trực tiếp hay gián tiếp gắn liền với đại dương », bao gồm các hoạt động khai thác dầu mỏ và khoáng sản ở ngoài khơi, kể cả năng lượng hóa thạch và tái tạo, ngành đóng tàu cũng như lĩnh vực viễn thông qua hệ thống cáp ngầm …Trọng lượng kinh tế của không gian biển càng lớn thì lại càng đặt ra nhiều thách thức từ việc khai thác, quản lý, tài nguyên xa bờ, cũng như ở sát bờ duyên hải... Thêm vào đó là những vấn đề đối với môi trường.Quan trọng hơn nữa là, trong bối cảnh cạnh tranh gia tăng dưới áp lực kinh tế, biển và đại dương càng lúc càng bị đe dọa.Quyền tự do lưu thông trên biển bị thu hẹpTrả lời đài nhà báo Marie France Châtin của RFI Pháp ngữ trong chương trình Địa Chính trị, Nicolas Mazzuchi, thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược Hàng Hải, trước hết nhấn mạnh đến mối đe dọa do quyền tự do lưu thông trên biển đang bị thu hẹp dần vì lý do địa chính trị, cũng như do các dự án công nghiệp trên biển.« Thực sự ra biển, đại dương là không gian rộng mở cho mọi hình thức giao lưu. Nhưng nhưng giờ đây chúng ta đang chứng kiến hiện tượng gọi là « lãnh thổ hóa không gian biển » tức là một số các hoạt động hàng hải bị gián đoạn tại một số khu vực. Thí dụ như Hồng Hải đã bị phe Houthi -Yemen khủng bố, tàu bè không dám qua lại …Hay là ở Biển Đông nơi Trung Quốc áp đặt những yêu sách về chủ quyền và đã xây dựng các cơ sở quân sự tại một số hòn đảo …, cho nên việc di chuyển trong khu vực này trở nên phức tạp hơn. Bên cạnh đó, tự do hàng hải cũng bị thu hẹp lại một khi mà chúng ta đặt các cơ sở khai thác dầu khí ở ngoài khơi, hay phát triển các chương trình đặt cáp quang dướng lòng biển để phục vụ ngành viễn thông … Những cơ sở hạ tầng đó cản trở tàu thuyền qua lại ».Chuyên gia Virginie Saliou của Viện Nghiên Cứu Chiến Lược - Học Viện Quân Sự Pháp giải thích thêm :« Quyền tự do lưu thông là cốt lõi trong luật biển quốc tế mà đến nay các quốc gia ít nhiều tuân thủ. Nước nào cũng muốn được tự do giao thương, tự do ra vào các hải cảng, tự do khai thác các nguồn tài nguyên biển. Ngày nay chúng ta đang đứng trước một cuộc cạnh tranh trên tất cả mọi lĩnh vực với những rủi ro xuất phát từ việc chúng ta ngày càng lệ thuộc vào không gian biển. Chẳng hạn như không thể để cho tàu bè tự do đi lại trong một vùng biển mà ở đó những cánh quạt đã được dựng lên để khai thác năng lượng gió. Bên cạnh đó là những rủi ro liên quan đến môi trường, khí hậu và nhất là trong việc bảo vệ tài nguyên. Tôi muốn nói đến tình trạng khai thác thủy sản quá đà và các hoạt động đánh bắt trái phép … Thêm vào đó là những nguy cơ khác như các vụ hải tặc, hiểm họa khủng bố trên biển, hay là nguy cơ xung đột trên biển do các quốc gia đang lao vào một cuộc cạnh tranh khốc liệt »Công nghệ mới - thách thức mới về an ninhCũng trên đài RFI Pháp ngữ, Thierry Duchesne, giám đốc ban nghiên cứu chiến lược hàng hải thuộc Quỹ Địa Trung Hải, nhấn mạnh đến những « công cụ mới » như drone biển, một lợi thế chưa từng có để phục vụ các hoạt động khai thác và phát triển tài nguyên, vừa giám sát các cơ sở hạ tầng trong lòng biển. Nhưng đây cũng là những phương tiện được các tổ chức tội phạm hay các quốc gia thù nghịch khai thác: « Các công nghệ hiện đại đã đưa thế giới biển vào một kỷ nguyên hoàn toàn mới. Công nghệ phát triển drone biển đang chuyển biến rất nhanh và Pháp có những lá chủ bài trong lĩnh vực này. Chính sự hiện diện của công cụ mới này càng lúc càng đặt ra những thách thức. Chẳng hạn như drone biển có thể được sử dụng cho các hoạt động phi pháp. Các tổ chức mafia đã khai thác để chuyển hàng lậu. Trong bối cảnh mà chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào các hệ thống cáp quang dưới lòng biển trong các lĩnh vực viễn thông và công nghệ số, các hệ thống đường ống dẫn dầu và khí đốt đi qua lòng biển, đây cũng là một thách thức đối với an ninh quốc gia ».Tái vũ trang không gian biểnTrong bối cảnh đó, Nicolas Mazzuchi, thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược Hàng Hải, không ngần ngại nói đến chiến lược « tái vũ trang các vùng biển và đại dương » mà hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đang theo đuổi :« Nhìn vào tình hình địa chiến lược và các lực lượng hải quân trên thế giới, từ khoảng một chục năm trở lại đây, chúng tôi ghi nhận xu hướng tái vũ trang các không gian biển. Tức là đang có một sự phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng trên toàn cầu. Khuynh hướng này rõ rệt hơn ở một số khu vực như Đông Bắc Á. Đây là nơi mà Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc nâng cao tiềm lực hải quân, còn Mỹ thì gia tăng hiện diện trong vùng Ấn Độ -Thái Bình Dương. Nhưng xin lưu ý rằng Ấn Độ -Thái Bình Dương không phải là khu vực duy nhất lao vào một cuộc chạy đua vũ trang trên không gian biển. Tại Địa Trung Hải hay Châu Mỹ Latinh, hiện tượng này cũng đã được ghi nhận. Tất cả cũng chỉ vì tự do giao thương, tự do đi lại ».Chiến tranh Ukraina là một trận chiến trên biển Vẫn theo chuyên gia này, trong chiều hướng đó, chiến tranh Ukraina đang hoành hành ở Hắc Hải trước hết là một cuộc chiến trên biển, do đã ảnh hưởng trực tiếp đến các luồng giao thương, đến xuất khẩu nông phẩm, ngũ cốc, đến năng lượng của cả hai bên tham chiến Nga và Ukraina, cũng như của nhiều quốc gia xuất khẩu dầu khí tại Trung Á …Cuộc chiến mà tổng thống Vladimir Putin khơi mào từ tháng 2/2025 từng làm gián đoạn giao thương ở Hắc Hải, từng ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động xuất nhập khẩu nông phẩm, phân bón… của nhiều nước ở Châu Phi và Trung Cận Đông…« Việc vận chuyển nguyên liệu thô qua Biển Đen bị trở ngại, không chỉ đối với phía Ukraina mà cả với phía Nga, đặc biệt là qua hải cảng Novorossiysk, nơi trung chuyển một lượng rất lớn dầu khí của Nga và của cả khu vực Trung Á. Cảng này là cửa ngõ chính để đưa hàng hóa, nguyên liệu sang châu Âu. Ngoài năng lượng, ngũ cốc của Ukraina cũng phải đi qua Biển Đen. Nhiều câu hỏi đã được đặt ra trong trường hợp các bên tham chiến mở một cuộc đổ bộ nhắm vào cảng Odessa của Ukraina. Do vậy, chiến tranh Ukraina thực chất là một cuộc chiến trên biển, đụng chạm trực tiếp đến quyền tự do hàng hải và tự do giao thương ».Nguy cơ chiến tranh thương mại toàn diệnNhà nghiên cứu Virginie Saliou kết luận: Chỉ cần đóng cửa một vài hài cảng, một eo biển như Ormuz hay Đài Loan, Malaka là cũng đủ để đẩy toàn thế giới vào một cuộc chiến thương mại toàn diện.« Cả thế giới phụ thuộc vào các hoạt động giao thương hàng hải. Chính vì thế mà các vùng biển rộng lớn càng trở thành những mục tiêu hấp dẫn khi cần gây thiệt hại cho mậu dịch toàn cầu. Điều này đã được chứng minh tại Hồng Hải. Ngoài ra còn có nhiều hiện tượng khác nữa, như là cuộc chạy đua tái vũ trang để khẳng định chủ quyền trên biển, vì những lợi ích kinh tế và an ninh. Hệ quả kèm theo các các mối căng thẳng trên biển gia tăng là nguy cơ xảy ra xung đột vũ trang. Chính vì thế phải phát triển tiềm năng của hải quân … Riêng về điểm này, Pháp có hẳn một chiến lược, có những phương tiện và kinh nghiệm mà nhiều quốc gia khác chưa có, hoặc là có nhưng chưa được cọ sát với thực tế ».Trong một bài tham luận năm 2022 đăng trên trang nhà của Viện Quan Hệ Quốc Tế và Chiến Lược IRIS của Pháp, Julia Tasse phân tích : Biển và đại dương càng lúc càng quan trọng về địa chính trị, bởi nhân loại đã « gần đụng ngưỡng các giới hạn khai thác tài nguyên trên đất liền, công luận bắt đầu quan tâm đến các hoạt động khai thác trên biển ». Mỗi quốc gia « huy động sức mạnh để lao vào một cuộc chạy đua tìm kiếm tài nguyên, để giành giật từ các đàn cá đến kim loại hiếm, dầu hỏa, khí đốt… » Cuộc chạy đua tìm kiếm tài nguyên đó vừa khơi lại những hiềm khích trong quá khứ lịch sử, vừa biện minh cho các chính sách bành trướng các vùng biển …Trong « trò chơi nguy hiểm này », các nước lớn thường có chung một chiến thuật : « đặt quốc tế trước sự đã rồi ». Chỉ cần nhìn vào các khoản đầu tư quân sự của Trung Quốc trong 2 hay 3 thập niên gần đây cũng đủ nhận thấy điều đó.
Đến nay, Matxcơva chịu 17 đợt trừng phạt của Liên Hiệp Châu Âu và đánh mất thị trường lớn nhất mua vào dầu hỏa và khí đốt là khối này. Kinh tế của Nga « thấm mệt » nhưng tránh được khủng hoảng nhờ « đảo lại các ưu tiên trong bang giao » và trông cậy vào các nền kinh tế đang trỗi dậy mà đứng đầu là Trung Quốc. Viễn cảnh một hiệp định ngừng bắn cho Ukraina còn xa vời tạm xua tan hy vọng của điện Kremlin là Mỹ với vai trò đầu tầu, thuyết phục được phương Tây dỡ bỏ dần các biện pháp phong tỏa nhắm vào nước Nga.Đầu tháng 2/2025 thủ tướng Mikhail Michoustin đầy tự tin thông báo với tổng thống Vladimir Putin tăng trưởng của Nga trong năm 2024 đạt 4,1 %, « đỉnh cao từ năm 2010 ». Cùng lúc Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế dự báo GDP của Nga năm nay « tăng nhanh hơn hẳn so với Anh, Pháp hay Đức ».Trong khi đó, báo chí và các nhà quan sát của phương Tây thường xuyên đánh giá kinh tế của nước Nga đang « thấm đòn » sau ba năm chiến tranh và không nhận được đầu tư trực tiếp Âu-Mỹ, của Úc hay Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc …Trả lời đài RFI tiếng Việt, nhà nghiên cứu Igor Delanoë, phó giám đốc Đài Quan Sát Pháp-Nga, cộng tác viên của Viện Quan Hệ Quốc Tế và Chiến Lược – IRIS nhìn nhận, kinh tế Nga tránh được khủng hoảng, cho dù dân chúng phải đối mặt với lạm phát và gần 30 % lãi suất ngân hàng. « Kinh tế Nga đã kết thúc năm 2024 với mức tăng trưởng hơn 4%. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) hiện vẫn dự báo GDP của nước này tăng 3,8%. Có thể nói mức tăng trưởng như vậy là khá tốt, nhất là trong những điều kiện hiện tại như chúng ta đã biết với các biện pháp trừng phạt mà phương Tây đã ban hành. Tuy nhiên, vấn đề của Nga là lạm phát vẫn ở mức rất cao – theo thống kê là vào khoảng 10%. Nhưng cũng tùy theo mặt hàng. Đặc biệt là các mặt hàng thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày, giá cả thậm chí tăng cao hơn nhiều. Thí dụ như là giá trứng, hay khoai tây, một số thực phẩm thiết yếu hay hàng tiêu dùng… Đây quả thực là một vấn đề nghiêm trọng. Cùng lúc lãi suất của Ngân Hàng Trung Ương Nga dao động ở mức 21-22 % và trên thực tế, các doanh nghiệp và tư nhân phải đi vay với lãi suất khoảng 25 - thậm chí là 28 %. Trong hoàn cảnh đó, mọi dự án đầu tư hay kế hoạch đi vay tín dụng để mua nhà đều bị đóng băng ».Những khó khăn nói trên không dẫn tới « khủng hoảng trong xã hội » bởi vì như Igor Delanoë ghi nhận, từ 3 năm qua, dân cư ở thủ đô Matxcơva và các thành phố lớn vẫn sinh hoạt gần như bình thường, không bị chiến tranh đe dọa.Tuy nhiên, ở những khu vực sát với biên giới Ukraina như ở Briansk, Belgorod hay tại bán đảo Crimée thì khác : đây là những nơi dân cư bị bom và drone của Ukraina đe dọa.Thâm hụt trong cán cân chi tiêuNhưng gần đây, một thách thức khác đang đặt ra cho chính quyền của tổng thống Putin. Vào lúc các phí tổn chiến tranh không ngừng gia tăng, thu nhập của nhà nước Nga lại sụt giảm vì dầu hỏa mất gia và cùng lúc đồng tiền rúp tăng giá so với đô la và euro. Igor Delanoë phân tích : « Từ đầu 2025, giá dầu khá thấp chỉ hơn 60 đô la một thùng, trong lúc các dự báo của Matxcơva căn cứ vào giá dầu từ 65 đến 69 đô la/ thùng. Thêm vào đó, đơn vị tiền tệ của Nga tăng giá (từ 80 cho đến 90 rúp đổi lấy một đô la). Thu nhập của các tập đoàn năng lượng, của nhà xuất khẩu Nga vì được thanh toán bằng rúp, nên qua đó bị sụt giảm. Trong dự luật ngân sách được đã hoàn tất hồi mùa thu 2024, Matxcơva giả định giá dầu là 69 đô la/thùng, nên bội chi ngân sách cho năm nay sẽ tăng lên thêm, tương đương với 1,7% GDP. Nhiều nước châu Âu sẽ hài lòng với mức thâm hụt này, nhưng đối với Matxcơva thì đây là một gánh nặng nhưng mà Nga hoàn toàn đủ sức cáng đáng ».« Nga đã có những bước chuẩn bị từ trước »Vậy thì những bí quyết nào cho phép Nga vẫn giữ được tăng trưởng ở mức khá cao như vừa nói ? Nhà nghiên cứu Pháp, Igor Delanoë trả lời :« Ở đây có ba yếu tố. Thứ nhất, Matxcơva đã có một sự chuẩn bị từ trước. Thứ hai là đã thiết lập các mạng lưới giao thương song song để lách lệnh trừng phạt và thứ ba là từ đầu cuộc chiến đến nay, Nhà nước liên tục ồ ạt đầu tư vào kinh tế.Về điểm đầu tiên, Nga đã chuẩn bị từ năm 2014, kể từ khi bị phương Tây trừng phạt do sáp nhập bán đảo Crimée của Ukraina. Chính phủ đã có hẳn một loạt công cụ để tăng cường khả năng tự chủ. Thí dụ Nga cho phổ biến các thẻ ngân hàng nội địa thay cho thẻ Visa hay Mastercard – vốn phụ thuộc vào các hệ thống ngân hàng của Âu Mỹ. Cùng lúc Matxcơva cũng giảm bớt lệ thuộc vào đồng đô la, chuyển sang dùng nhân dân tệ của Trung Quốc nhiều hơn và tích trữ vàng. Điểm thứ nhì là từ năm 2022, Nga đã thiết lập cả một mảng giao dịch không chính thức với nhiều đối tác để lách lệnh trừng phạt. Cũng chính vì thế mà Trung Quốc đã nhanh chóng trở thành đối tác thương mại quan trọng nhất của Matxcơva. Kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều đạt ngưỡng 240 tỷ đô la. Sau Trung Quốc, Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ đứng thứ nhì và thứ ba trong số các bạn hàng của Nga. Ấn Độ chủ yếu mua vào dầu hỏa và than đá. Còn Thổ Nhĩ Kỳ là nơi trung chuyển ngũ cốc và nông phẩm của Nga đến các đối tác thứ ba … Ngoài ra, chúng tôi ghi là nhận giao thương giữa Matxcơva với các quốc gia nhỏ hơn như Armenia hay Các Tiểu Qương Quốc Ả Rập Thống Nhất cũng đã tăng mạnh trong ba năm trở lại đây.Cuối cùng là vai trò hàng đầu của nhà nước qua các khoản đầu tư mà chủ yếu là để huy động nền kinh tế phục vụ cho mục đích chiến tranh từ tháng 2/2022 khi Matxcơva khởi động cuộc chiến ở Ukraina. »Các « hạm đội ma » bảo đảm 70 % xuất khẩu dầu hỏa của Nga Theo một nghiên cứu của trường cao đẳng kinh tế Ukraina, Kiyv School of Economics, 70 % xuất khẩu dầu thô của Nga được trung chuyển quan đường biển nhờ các « hạm đội tàu ma », và 95 % khối lượng này được dành để bán cho Trung Quốc, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ.Nếu như vào thời điểm 2021, trước khi tổng thống Vladimir Putin tấn công Ukraina, gần 50 % tổng kim ngạch xuất khẩu của Nga là để phục vụ các thị trường tại toàn châu Âu, trong đó bao gồm luôn cả Ukraina và Bélarus, thì đến cuối 2023, tình hình đã hoàn toàn thay đổi.Igor Delanoë, thuộc Đài Quan Sát Pháp-Nga tuy nhiên nhấn mạnh, dầu khí vẫn là một nguồn thu rất lớn đối với nước Nga, giúp quốc gia này « trang trải phần lớn các phí tổn chiến tranh ». Song song với dầu khí, Nga đã đẩy mạnh các lĩnh vực xuất khẩu khác như là nông phẩm, hay phân bón, hóa chất…Đó là những mặt hàng mà đến nay Âu, Mỹ không hề áp đặt lệnh cấm vận. Cũng chuyên gia người Pháp này lưu ý rằng « những lĩnh vực này không chỉ đem lại thu nhập cho Matxcơva mà còn là những đòn bẩy mở rộng ảnh hưởng địa chính trị của Nga – đặc biệt là ở châu Phi và các khu vực khác trên thế giới ».Một trật tự mới trên bàn cờ thương mại của Matxcơva Với chiến tranh Ukraina và các biện pháp trừng phạt phương Tây ban hành, trọng tâm kinh tế và thương mại của Nga đã nhanh chóng xoay trục sang châu Á :« Thực tế đã có những quan hệ đối tác kinh tế gia tăng đáng kể trong thời gian gần đây. Như vừa nói, Nga hiện có các đối tác thương mại hàng đầu là Trung Quốc, Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng cũng cần chú ý đến một số quốc gia khác đã từ lâu được theo dõi sát sao như Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) trong khu vực vùng Vịnh. Ngoài ra, các nước thuộc không gian hậu Xô Viết như Armenia cũng đã trở thành đối tác thương mại quan trọng, do họ là những trung gian, những mắt xích trong chuỗi cung ứng của Nga... Nếu nhìn xa hơn nữa chúng ta thấy rằng Matxcơva đang nỗ lực đa dạng hóa các mối quan hệ kinh tế với nhiều khu vực khác trên thế giới để lấp vào chỗ trống mà các đối tác phương Tây để lại. Riêng với khu vực châu Á, ngoài Trung Quốc ra thì chính quyền của ông Putin đã thúc đẩy quan hệ với Indonesia, thành viên mới trong khối các nền kinh tế đang trỗi dậy BRICS. Mối quan hệ với Việt Nam cũng đã được thúc đẩy trở lại. Đương nhiên là phải kể đến hợp tác càng lúc càng chặt chẽ giữa Nga và Bắc Triều Tiên. Tất cả những động thái này nhằm giảm bớt mức độ phụ thuộc vào một mối quan hệ đối tác châu Á duy nhất là Trung Quốc ».Theo một nghiên cứu gần đây của Viện Quan Hệ Quốc Tế Pháp, IFRI vì chính sách « xoay trục » trên bàn cờ thương mại này, mà châu Phi đang « đội sổ » trong số 10 ưu tiên của Nga về đối ngoại, nay đã « nhảy vọt lên hạng thứ 6 ». Nếu như Matxcơva « ưu tiên » cung cấp nông phẩm và ngũ cốc cho nhiều nước châu Phi như Somalia, Mali, hay Burkina Faso… vì lý do nhân đạo, thì trong chiều ngược lại, nhiều quốc gia trên châu lục này là những mỏ vàng thực thụ của các tập đoàn khai thác khoáng sản Nga như Nord Gold hay Emiral Resources… Đó là chưa kể đến những thương vụ mua bán vũ khí giữa các tập đoàn của Nga với các giới tướng lĩnh ở châu Phi.
Mỹ sẽ an toàn hơn với dự án « Mái vòm vàng » mà tổng thống Donald Trump vừa loan báo ? « Chiến tranh các vì sao » đầu thập niên 1980 thời Reagan đã đẩy Liên Xô vào một cuộc chiến tiêu hao. Bốn chục năm sau, Nhà Trắng muốn sử dụng lại chiến thuật này để nhắm vào mục tiêu quan trọng nhất là Bắc Kinh. Nhưng với những phương tiện tài chính, kỹ thuật nào và điều gì sẽ xẩy ra nếu Trung Quốc, Nga tăng tốc trong cuộc chạy đua vũ trang trên không gian. Tổng thống Hoa Kỳ thứ 47, Donald Trump, hôm 20/05/202 chính thức thông báo một kế hoạch « rất quan trọng cho thành công và sự tồn tại » của nước Mỹ : Golden Dome hay Mái vòm vàng, một lá chắn « có khả năng chận bắn tên lửa xuất phát từ bất cứ nơi nào trên Trái đất, kể cả phóng đi từ không gian ». Theo lời nguyên thủ Mỹ, lá chắn tên lửa này huy động « hàng ngàn vệ tinh hiện đại nhất, sử dụng công nghệ tối tân nhất », cho phép bắn chặn « mọi loại tên lửa », kể cả tên lửa siêu thanh có mang theo đầu đạn hạt nhân nhắm vào Hoa Kỳ, với mức độ tin cậy « gần 100 % ».Donald Trump hy vọng Mái vòm vàng sẽ bắt đầu hoạt động trước khi ông mãn nhiệm. Phí tổn chương trình ước tính lên tới 175 tỷ đô la và ngay lập tức Washington sẵn sàng huy động 25 tỷ đô la để « khởi động dự án ».Vòm vàng cao cấp hơn vòm sắt của Israel Mái vòm vàng Donald Trump vừa trình bày gồm ba điểm then chốt : thứ nhất đây là một lá chắn chống tên lửa, dựa theo mô hình mái vòm sắt của Israel, nhờ đó mà Nhà nước Do Thái đã hủy diệt được gần hết tên lửa của Iran bắn vào lãnh thổ Israel hồi năm 2024 trong các đợt căng thẳng tưởng chừng dẫn tới chiến tranh. Nhưng giới phân tích cũng lưu ý rằng, vòm sắt đó của Israel vẫn bị rocket của Hamas xuyên thủng trong loạt tấn công đẫm máu hồi tháng 10/2023.Điểm thứ nhì, chính quyền Trump kỳ vọng Mái vòm vàng do hiện đại hơn, quy mô hơn vòm sắt của Nhà nước Do Thái nên sẽ hiệu quả hơn, với khả năng bảo vệ « gần như 100 % » toàn bộ lãnh thổ Hoa Kỳ, lớn gấp 450 lần lãnh thổ Israel. Vòm vàng sẽ chặn được đủ loại tên lửa từ « tên lửa đạn đạo, hành trình, tên lửa đạn đạo xuyên lục địa có thể mang theo đầu đạn hạt nhân và tên lửa siêu thanh cũng như drone ».Điểm quan trọng thứ ba là khả năng « phát hiện » trước khi bất kỳ một tên lửa nào bay tới lãnh thổ của Mỹ nhờ « hàng ngàn vệ tinh » trên quỹ đạo, và hệ thống vệ tinh dày đặc đó cho phép nhanh chóng « can thiệp », kể cả từ không gian để tiêu hủy mối nguy hiểm đó.Mỹ sẽ vi phạm luật pháp quốc tế ? Điểm sau cùng này là một điều mới và rất quan trọng về mặt quân sự và an ninh đối với toàn thế giới, theo giải thích của tướng Dominique Trinquand. Ông từng đứng đầu một ủy ban quân sự của Pháp bên cạnh Liên Hiệp Quốc.« So sánh mái vòm vàng của Mỹ với vòm sắt của Israel hơi khập khiễng. Đây là sự tiếp nối của Chiến tranh các vì sao mà cố tổng thống Ronald Reagan đã khởi động năm 1983. Hệ thống của Mỹ cho phép quan sát và nhận diện các tên lửa. Vấn đề đầu tiên ở đây là phát hiện sớm chừng nào tốt chừng nấy các tên lửa, để có thể chận được tên lửa đó. Chính ở giai đoạn bắn chặn tên lửa này, có một sự mập mờ : chúng ta đã sử dụng vệ tinh để nhận diện tên lửa, rồi huy động tên lửa từ trên mặt đất để tiêu hủy tên lửa của đối phương. Đây là điều hiển nhiên không gây tranh cãi. Tuy nhiên bắn hạ một tên lửa từ trên không gian sẽ là điều mà công ước quốc tế không cho phép. Như vậy là chúng ta sẽ vượt quá khuôn khổ pháp lý hiện hành. Điểm cuối cùng tôi xin lưu ý, chính tổng thống Trump cũng nhìn nhận Mái vòm vàng chỉ tiến gần đến mức hiệu quả 100 %. Có nghĩa là nước Mỹ vẫn không được bảo vệ hoàn toàn và điềm mà Hoa Kỳ lo ngại sợ hơn cả là tên lửa siêu thanh với đầu đạn hạt nhân ». Giới hạn về kỹ thuậtLãnh thổ Israel chỉ bằng 1/450 diện tích của Hoa Kỳ. Vòm sắt của Nhà nước Do Thái chỉ đủ sức chống đỡ rocket, tên lửa đạn đạo tầm ngắn phóng đi từ các nước « lân cận » và đã không hiệu quả 100 % như đã thấy. Dự án của tổng thống Trump có tham vọng chặn luôn cả các tên lửa tầm xa, tên lửa hành trình và liên lục địa …. Vậy Mỹ sẽ phải sử dụng những kỹ thuật nào ? Và làm sao để có thể « phát hiện » các tên lửa được cho là đang chuẩn bị nhắm tới lãnh thổ Hoa Kỳ, hay khi chúng vừa được phóng đi ? Theo nhà báo Caroline Bruneau, của tạp chí chuyên đề Aerospatium, trước mắt đây hãy còn là một « vùng sương mù » :« Sẽ rất thú vị khi chúng ta nhìn vào danh sách các công ty đăng ký đấu thầu, tham gia dự án – Hiện có khoảng 180 tập đoàn đã đăng ký và như vậy họ sẽ phải cung cấp thông tin về kỹ thuật sẽ sử dụng …Trước mắt đã có một số công nghệ để bắt chận tên lửa, thí dụ như công nghệ GBMD tức là hệ thống tên lửa đánh chặn tên lửa đạn đạo của Hoa Kỳ để chặn tên lửa Bắc Triều Tiên. Tỷ lệ thành công là 57 % tức là còn rất thấp để bảo vệ an ninh cho Hoa Kỳ. Dự án Mái vòm vàng sử dụng kỹ thuật nào để bắt chận tên lửa siêu thanh ? Hiện tại chưa thể trả lời câu hỏi này. Chỉ biết rằng đây là một dự án khổng lồ, rất tốn kém. Chi phí dự trù là 175 tỷ đô la nhưng theo giới trong ngành Mái vòm vàng có thể vượt ngưỡng 500 tỷ đô la và còn hơn thế nữa. Mỹ muốn huy động số tiền khổng lồ nói trên vì đánh giá là mức đe dọa đối với an ninh quốc gia thực sự to lớn và có thực ». Nguy cơ chạy đua vũ trang trên không gian và khai tử nguyên tắc cơ bản của thuyết răn đeChuyên gia về các vấn đề vũ khí răn đe và hệ thống chống tên lửa, Etienne Marcuz, thuộc Quỹ Nghiên Cứu Chiến Lược FRS của Pháp lưu ý : để phát hiện và chặn trước một tên lửa phóng đi từ một quốc gia rộng lớn như Trung Quốc hay Nga, « giải pháp duy nhất của Hoa Kỳ là sử dụng vệ tinh có trang bị tên lửa chống tên lửa ». Nói cách khách là Mỹ sẽ phải gài đặt sẵn các thiết bị quân sự trên không gian. Vấn đề đặt ra là nếu Hoa Kỳ làm được việc này hay nghĩ tới giải pháp này, thì có nghĩa là Nga và Trung Quốc cũng có phương tiện để « phát triển vũ khí trên không gian nhằm bắn chặn, hoặc phá hủy các phương tiện quân sự của Mỹ ». Nói cách khác, với Mái vòm vàng, Donald Trump như thể khuyến khích các đối thủ cùng « quân sự hóa không gian ».Theo bà Laurence Nardon điều hành chương trình nghiên cứu về châu Mỹ tại Viện Quan Hệ Quốc Tế Pháp IFRI Mái vòm vàng nguy hiểm ở một điểm khác nữa : trong học thuyết về vũ khí răn đe đến nay các cường quốc hạt nhân bị trói buộc bởi nguyên tắc mà chuyên gia này gọi là « thế cân bằng của sự sợ hãi kinh hoàng (l'équilibre de la terreur) ».Nguyên tắc đó đơn giản là mỗi bên đều biết rằng hạt nhân chỉ là vũ khí răn đe, sử dụng đến công cụ « chết người này » để tiêu diệt đối phương, tức là cũng tự giết mình. Nhưng Mái vòm vàng của tổng thống Trump có nguy cơ khai tử nguyên tắc đến nay vẫn trói buộc các cường quốc nguyên tử với nhau này. Mỹ đang có những ưu tiên cấp bách hơnChuyên gia về an ninh cũng thuộc viện IFRI, Léo Péria Peigné có đồng quan điểm và giải thích thêm rằng, tham vọng trang bị một Mái vòm vàng cho Hoa Kỳ vào thời điểm này là một tính toán kém thực tế: « Một hệ thống chống tên lửa hiệu quả sẽ làm thay đổi tương quan giữa những phương tiện tấn công và phòng thủ trong thuyết răn đe hạt nhân. Vấn đề đặt ra là trong lĩnh vực hạt nhân, Hoa Kỳ đang gặp nhiều vấn đề về tài chính, cũng như ở khâu hiện đại hóa kho tên lửa đạn đạo … Những tên lửa hiện có, trên nguyên tắc đã phải được tân trang lại từ lâu nay để có thể vẫn được sử dụng cho đến năm 2050, bởi Mỹ không kịp để có thêm vũ khí với công nghệ mới. Do vậy câu hỏi đặt ra là dự án của ông Trump sẽ tốn bao nhiêu tiền và tìm nguồn tài trợ ở đâu ra ? Quân đội Hoa Kỳ đang có những nhu cầu rất lớn và đó là những nhu cầu hoàn toàn khác hẳn so với mục tiêu xây dựng Mái vòm vàng. Nhu cầu của Lầu Năm Góc thích hợp hơn để đối phó với mối đe dọa xuất phát từ Trung Quốc hiện nay. Ngành công nghiệp đóng tàu của Mỹ hiện trong tình trạng thảm hại. Để phát triển các chương trình cho bên bộ binh, Hoa Kỳ cũng đang gặp khó khăn để thay thế một số các thiệt bị có từ thời Chiến tranh lanh. Trong hoàn cảnh đó, chi ra từ 800 đến 1.000 tỷ đô la cho Mái vòm vàng, tôi nghĩ là Lầu Năm Góc không mấy hài lòng, cho dù bộ Quốc Phòng đang chịu áp lực lớn của tổng thống Trump đi chăng nữa ».Mỹ đủ sức « cản đường » Trung Quốc ? Vào lúc Nhà Trắng khẳng định Mái vòm vàng sẽ bảo vệ nước trước mọi hình thức tấn công, nhưng các chuyên gia quốc tế đồng loạt cho rằng, ông Trump vẫn hoài niệm thời kỳ « vàng son » dưới thời tổng thống Ronald Reagan (1980-1988) và kế hoạch bị bỏ dở « Chiến tranh các vì sao » nhằm hủy hoại sức lực của Liên Xô. Trump giờ đây cũng muốn lôi kéo Trung Quốc vào một cuộc chạy đua công nghệ và không gian với hy vọng làm hao mòn sức lực của đối phương. Tướng Dominique Trinquand nguyên trưởng phái đoàn Pháp bên cạnh Liên Hiệp Quốc nhắc lại : « Chúng ta thường nhắc đến Chiến tranh các vì sao, thời tổng tống Reagan và những hệ quả trực tiếp và gián tiếp. Đừng quên rằng, chính cuộc chạy đua vũ trang quá tốn kém đó đã buộc Liên Xô phải bỏ cuộc. Giờ đây Mỹ muốn ‘bổn cũ soạn lại’. Câu hỏi đặt ra là liệu rằng Mái vòm vàng của ông Trump có làm cạn kiệt các nguồn tài chính của Trung Quốc hay không. Một khi mà Donald Trump công bố kế hoạch lá chắn chống tên lửa của Mỹ thì Trung Quốc lập tức lên tiếng ». Léo Péria Peigné chuyên nghiên cứu về an ninh của viện Quan Hệ Quốc Tế Pháp cho rằng chỉ cần nhìn vào những thành tựu của Trung Quốc cả về công nghiệp lẫn trong lĩnh vực công nghệ cao, nước cờ đó không còn tính thời sự, đơn giản là Mỹ đang phụ thuộc vào một số nguyên liệu thiết yếu của Trung Quốc như kim loại hiếm. « Nếu chúng ta nhìn lại Chiến tranh các vì sao hồi thập niên 1980 : khi đó mục tiêu của Mỹ là khai thác công nghệ cao của mình để hủy hoại sức lực của Liên Xô. Giờ đây, đối thủ của Washington là Bắc Kinh. Với tiềm năng cả về công nghệ lẫn công nghiệp mà Trung Quốc đang có, không biết rằng chính sách của Hoa Kỳ có còn tính thời sự nữa hay không. Để thực hiện Mái vòm vàng, các nhà sản xuất công nghiệp của Hoa Kỳ không hoàn toàn tự chủ mà phải dựa vào một số sản phẩm của Trung Quốc và đó là những mặt hàng khó có thể thay thế. Đây thực sự là một câu hỏi lớn đang đặt ra ». Cuối cùng, tướng Trinquand nhận xét, Mái vòm vàng để lộ rõ chiến lược quân sự của Mỹ với k
Có nhiều khả năng cuộc « đình chiến thương mại Mỹ -Trung 90 ngày sẽ kéo dài hơn dự kiến » do đôi bên cùng cần thời gian để « trừng phạt » đối phương khi mà hai kinh tế Hoa Kỳ và Trung Quốc « gắn kết quá chặt chẽ vào nhau ». Nhiều yếu tố trói tay Washington. Có thể nhiều đối tác của Mỹ theo chân Bắc Kinh, cứng giọng khi đàm phán với tổng thống Trump. Hơn một tháng chiến tranh thuế quan Mỹ-Trung cao trào, Washington và Bắc Kinh tạm hủy phần lớn những biện pháp « trừng phạt đối phương » trong 90 ngày, tức là đến giữa tháng 7/2025. Đây là một trong hai thành quả cụ thể nhất mà Hoa Kỳ và Trung Quốc đã đạt được sau đối thoại hôm 10/05/2025 tại Genève, Thụy Sĩ.Sau những thông báo ồn ào, hiện tại hàng Trung Quốc bán sang Mỹ chỉ bị áp thuế 30 % chứ không phải là 145 % hay 80 % như Nhà Trắng từng đe dọa. Về phía Bắc Kinh, Trung Quốc cũng chỉ đánh thuế 10 % hàng « made in USA » bán sang Hoa Lục chứ không phải là 125 % như đã loan báo.Mỹ đang áp dụng đúng mô hình kinh tế của Trung Quốc Trả lời RFI tiếng Việt hôm 16/05/2025, giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Tế CERI trường Khoa Học Chính Trị Sciences Po. Paris, giáo sư Stéphanie Balme trước hết nhấn mạnh đến những « tiến bộ nhanh chóng » mà hai phái đoàn, của Mỹ do bộ trưởng Tài Chính Scott Bessent dẫn đầu và của Trung Quốc do phó thủ tướng Trung Quốc Hà Lập Phong làm trưởng đoàn, đã đạt được sau vòng đàm phán cấp cao đầu tiên.Chuyên gia Stéphanie Balme nêu lên một nghịch lý : Mỹ có khuynh hướng đi theo mô hình kinh tế của Bắc Kinh.« Quả thực là chúng ta đã bất ngờ thấy các bên đạt được thỏa thuận quá nhanh. Tuy nhiên xung khắc vẫn còn đó. Chưa có gì được giải quyết dứt điểm. Chỉ biết rằng trên nguyên tắc Mỹ và Trung Quốc có 90 ngày để thương lượng. Hiện tại, họ đã đồng ý trên hồ sơ ma túy tổng hợp : Đây là một điểm rất quan trọng đối với Hoa Kỳ. Còn trong lĩnh vực thuế quan, hai quốc gia này cùng chấp nhận giảm thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng. Nhưng Mỹ và Trung Quốc vẫn là những đối thủ thương mại. Đơn giản là hai nền kinh tế này quá lệ thuộc vào nhau. Washington chỉ trích Bắc Kinh trợ cấp cho các hoạt động kinh tế của Trung Quốc, tạo cạnh tranh bất bình đẳng và giờ đây Trung Quốc sử dụng sức mạnh kinh tế như một công cụ phục vụ các mục đích địa chính trị để làm bá chủ thế giới. Đương nhiên, điểm bất đồng then chốt này vẫn tồn tại. Nhưng điều đáng ghi nhận ở đây là mô hình kinh tế của Hoa Kỳ giờ đây càng lúc càng được rập khuôn theo mô hình của Trung Quốc. Có nghĩa là chính quyền Trump cũng đang sử dụng chính sách kinh tế để củng cố cho sức mạnh của Hoa Kỳ ».Ba điểm kẹt của MỹBáo tài chính Nhật Bản Nikkei Asia hôm 13/05/2025 trích lời giám đốc trung tâm nghiên cứu Mỹ, Michael Hirson đưa ra ba yếu tố thúc đẩy Nhà Trắng nhanh chóng « nhượng bộ » Bắc Kinh sau khi đã khuấy động một cuộc « chiến tranh thuế quan » : Tổng thống Trump ý thức được là các doanh nhân Mỹ chưa sẵn sàng để sản xuất trên đất Mỹ mà không cần nhập khẩu nguyên liệu và phụ từng của nước ngoài.Người tiêu dùng ở Mỹ cần hàng rẻ của Trung Quốc - mà bằng chứng rõ rệt nhất là, dù có đánh thuế hàng Trung Quốc đến 145 % trong 2 tuần lễ cuối tháng 4/2025, kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc sang Hoa Kỳ vẫn tăng, tuy là có tăng chậm hơn so với cùng thời kỳ năm 2023. Do vậy đòn thuế hải quan tổng thống Trump nhắm vào Trung Quốc trước hết lại giáng vào mãi lực của các hộ gia đình Mỹ.Điểm sau cùng, là đòn thuế đối ứng của Washington ảnh hưởng đến lãi suất đi vay ngân hàng của Mỹ. Vì ba điểm này, tổng thống Hoa Kỳ lập tức thay đổi lập trường.Phía Bắc Kinh cũng đã có một số nhượng bộ : Trung Quốc cam kết kiểm soát chặt chẽ hơn các mạng lưới bất hợp pháp chế biến và cung cấp ma túy tổng hợp fentanyl dẫn tới những tác động tai hại trong xã hội của Hoa Kỳ. Bắc Kinh cũng đã lập tức ngừng hạn chế xuất khẩu một số kim loại hiếm sang Mỹ, tạm ngừng điều tra về hoạt động của trên dưới 30 doanh nghiệp Mỹ…Nhưng đó chỉ là những dấu hiệu hòa hoãn bề ngoài. Tuần trước, bộ Thương Mại Trung Quốc quyết định « tăng cường các biện pháp giám sát ở mọi khâu để ngăn chặn mọi hoạt động mua bán bất hợp pháp đất hiếm và kim loại hiếm », « tăng tốc các thủ tục cần thiết » để thay thế nông phẩm của Mỹ bằng đậu tương, đậu nành, ngô hay dầu thực vật của Achentina và Brazil…Chiến thuật « câu giờ »Vậy một cách cụ thể Mỹ và Trung Quốc cần những gì để đạt đến một giải phát « lâu bền hơn » trên mặt trận thương mại ? Giáo sư trường Khoa Học Chính Trị Paris Sciences Po, bà Stéphanie Balme trả lời :« Trước hết, phía Mỹ giải thích với công luận trong nước rằng thỏa thuận với Trung Quốc là một thành tích lịch sử, thể hiện khả năng và vai trò đầu tầu của Hoa Kỳ trong các vòng thương thuyết với Bắc Kinh. Trên thực tế, hiện đang thiếu nhiều công cụ cho phép đôi bên khép lại xung đột. Đầu tiên hết là một cơ chế điều tiết mức thâm hụt thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ. Thiếu sót thứ hai là cả hai quốc gia này chưa xác định được một hình thức đối thoại song phương phù hợp để giải quyết tranh chấp. Điều duy nhất phái đoàn Mỹ và Trung Quốc đã đạt được tại Genève - Thụy Sĩ (10/05/2025) là đôi bên thống nhất về một mức thuế rất cụ thể, như đã biết và họ thông báo rằng các biên độ thuế quan mới sẽ được áp dụng từ ngày 14/05/2025 để cho Washington và Bắc Kinh có thời gian 90 ngày đàm phán. (…) Không khó để mỗi bên chứng minh với công luận trong nước là họ đã thành công. Trong khi đó chúng ta biết rằng, trước khi bắt đầu đàm phán, Mỹ đã nhượng bộ khi loan báo giảm thuế hải quan đánh vào hàng điện tử Trung Quốc. Về phía Bắc Kinh cũng vậy. Các phương tiện truyền thông Trung Quốc dễ dàng chứng minh là đối phương đã lùi bước. Nhưng theo tôi vấn đề chính là khả năng đàm phán thực thụ của mỗi bên khá hạn hẹp khi mà kinh tế Mỹ và Trung Quốc quá phụ thuộc vào nhau. Điều đó có nghĩa là trừng phạt đối phương thì mình cũng mang họa. Do vậy có khả năng là ‘hiệp định đình chiến song phương’ được ấn định 90 ngày sẽ được triển hạn và đấy sẽ là mục tiêu của cả Washington lẫn Bắc Kinh ».Kịch bản quá mới mẻ với cả hai bênTheo giáo sư Stéphanie Balme trung tâm CERI -Sciences Po. Paris, đôi bên cùng tìm kế hoãn binh :« Đôi bên cùng đang mò mẫm để tìm ra giải pháp, nên cả Trung Quốc lẫn Hoa Kỳ cùng cần có thời gian để thẩm định tình hình, để đánh giá hậu quả quyết định của mình đối với đối phương. Để rồi từ đó lại tiếp tục mở ra các vòng thương thuyết khác (…) Thời hạn 30 ngày quá ngắn ngủi để quan sát một cách thấu đáo các hậu quả. Sáu tháng thì lại lâu quá cho nên 3 tháng, tức là 90 ngày, có thể là thời gian thích hợp để quan sát tình hình trước khi khởi động một chu kỳ đàm phán mới ». Có một điều chắc chắn là như tờ Nikkei Asia ghi nhận : « lệnh hưu chiến » trong 90 ngày mà Hoa Kỳ và Trung Quốc vừa đạt được do là một giải pháp « tạm thời », mong manh và mỗi bên đều có thể « đổi ý » bất cứ lúc nào, cho nên « các doanh nghiệp Mỹ đang hối hả mua thêm hàng của Trung Quốc ». Các công ty xuất nhập khẩu ở Thâm Quyến đang « làm việc hết công suất để gửi hàng sang Hoa Kỳ ». Các tập đoàn vận chuyển đường biển cũng chờ đợi « trong ba tháng sắp tới đây và có thể là đến cuối năm, sẽ rất bận rộn ».ASEAN, « trên đe dưới búa » Cùng lúc, bà Stéphanie Balme khuyến cáo các quốc gia Đông Nam Á nên khẩn trương đa dạng hóa quan hệ thương mại, để giải tỏa bớt áp lực kép từ phía Hoa Kỳ và Trung Quốc. Chính quyền Trump và chính sách « thuế đối ứng » đã mạnh tay nhất với rất nhiều nước trong ASEAN.« Căng thẳng mới Mỹ càng gia tăng, Trung Quốc càng phải đa dạng hóa các nguồn tiêu thụ hàng xuất khẩu của mình. Bắc Kinh cần nương nhẹ các đối tác thương mại, mà đầu tiên hết là những đối tác gần gũi về mặt địa lý. Tại Đông Bắc Á, Nhật Bản và Hàn Quốc là hai nền kinh tế công nghiệp có mức phát triển đã rất cao. Ít có hy vọng Seoul hay Tokyo ồ ạt mua thêm hàng Trung Quốc. Trái lại những quốc gia Đông Nam Á thì đang lo. Từ Phililppines đến Việt Nam, Cam Bốt, Miến Điện, Thái Lan … cũng bị thuế hải quan quan Mỹ tác động, bây giờ lại thêm áp lực của Bắc Kinh vì Trung Quốc cần tìm kiếm các thị trường xuất khẩu nữa thì họ sẽ gặp nhiều khó khăn. Việt Nam chẳng hạn vừa phải chịu áp lực từ chính sách thuế quan của Mỹ, vừa chịu sức ép của các nhà sản xuất Trung Quốc, thành thử tôi hy vọng, đây là thời điểm thuận lợi giúp cho Việt Nam chẳng hạn đẩy mạnh giao thương với Liên Âu, xem Bruxelles như một yếu tố cho để giảm bớt mức độ phụ thuộc vào thị trường của Trung Quốc hay của Hoa Kỳ ».Thế giới có còn vội để đàm phán với Trump ? Vào lúc tổng thống Trump khoe có đến « 200 quốc gia trên thế giới (?) » xin được đàm phán về thuế quan với Washington, báo Singapore, The Strait Times ngày 19/05/2025 đặt câu hỏi : không biết rằng thái độ cứng rắn của Trung Quốc có là một bài học đối với nhiều quốc gia trước khi đối thoại với Mỹ về chính sách thuế hải quan hay không ?Stephen Olson, từng là một nhà đàm phán thương mại của Hoa Kỳ và hiện đang nghiên cứu tại viện ISEAS của Singapore cho rằng sau đối thoại Mỹ-Trung ở Genève vừa qua, nhiều quốc gia sẽ « nhận thấy Donald Trump bắt đầu ý thức được là ông đã có những đòi hỏi quá đáng ». Điều này sẽ làm « thay đổi tương quan lực lượng » khi những quốc gia đó phải đàm phán với siêu cường kinh tế số 1 thế giới.Ứng viên tổng thống Hàn Quốc đang dẫn đầu cuộc đua, Lee Ja Myung cho biết ông « không vội đàm phán » với Mỹ. Nhật Bản một đối tác thương mại quan trọng khác của Washington cũng không « vội vàng » như những tuyên bố cách nay vài tuần.Vào lúc tổng thống Trump khẳng định là New Delhi « sẵn sàng giảm tất cả mọi hàng rào thuế quan đánh vào hàng Mỹ » thì ngoại trưởng Ấn Độ cho rằng còn quá sớm để đưa ra nhận định như trên.Marko Papic, thuộc cơ quan tư vấn GeoMacro-BCA Research, trụ sở tại Montréal, Canada được tờ báo Singapore trích dẫn kết luận « Sẽ có nhiều quốc gia học hỏi kinh nghiệm từ Trung Quốc trong nghệ thuật đàm phán với tổng thống Trump. Bài học đó là bình tĩnh và giữ vững lập trường ». Đương nhiên không phải ai cũng có thể áp dụng được công thức đó. Tất cả còn tùy thuộc trọng lượng kinh tế của một quốc gia trên bàn cờ thương mại với Hoa Kỳ.