Discover
Tạp chí Việt Nam
246 Episodes
Reverse
Quan hệ hữu nghị truyền thống giữa Việt Nam và Bắc Triều Tiên được “tạo xung lực mới” thông qua chuyến công du Bình Nhưỡng của tổng bí thư Tô Lâm từ ngày 09-11/10/2025 nhưng tạm dừng ở cấp độ chính trị, trao đổi văn hóa và du lịch. Bình Nhưỡng đã phát triển mạnh chương trình tên lửa, kể cả hạt nhân và cho dù có muốn, Hà Nội cũng chỉ dừng ở “ý định thư hợp tác quốc phòng khi điều kiện cho phép”. Bắc Triên Tiên bị Liên Hiệp Quốc trừng phạt vì phát triển chương trình hạt nhân. Còn “Việt Nam không muốn vi phạm các lệnh trừng phạt quốc tế đối với Bắc Triều Tiên” theo nhận định của nhà nghiên cứu Vũ Khang, Khoa Khoa học Chính trị, Đại học Boston (Mỹ), vì Hà Nội đặt trọng tâm vào phát triển kinh tế trong những thập niên gần đây và không ngừng mở rộng mạng lưới đối tác với các nước phương Tây. Cùng với “ngoại giao cây tre”, Việt Nam thể hiện là “bạn” với tất cả các nước, là một quốc gia trung lập, không chọn phe. Và trong chính sách đối ngoại đa phương, Hà Nội coi Bình Nhưỡng là một đối tác quan trọng. Tuy nhiên, “việc này không đồng nghĩa là Việt Nam ủng hộ chương trình hạt nhân hay chính sách chống phương Tây của Bắc Triều Tiên”. Chuyến thăm Bình Nhưỡng của ông Tô Lâm diễn ra chỉ hai tháng sau chuyến công du Seoul còn cho thấy Hà Nội tiếp tục chính sách cân bằng quan hệ và đặt trọng tâm vào việc duy trì ổn định khu vực để phát triển kinh tế và hợp tác với cả hai miền Triều Tiên. Chuyến công du đầu tiên kể từ 18 năm qua mang lại những triển vọng như thế nào cho quan hệ Việt Nam - Bắc Triều Tiên ? Tiến sĩ Vũ Khang, học giả thỉnh giảng, tại Khoa Khoa học Chính trị, Đại học Boston, Mỹ, trả lời một số câu hỏi của RFI Tiếng Việt. RFI : Mối quan hệ giữa Việt Nam và Bắc Triều Tiên trở thành đề tài được chú sau khi nhà lãnh đạo Kim Jong Un mời tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam Tô Lâm đến dự 80 thành lập đảng Lao Động Triều Triên và lễ duyệt binh ở Bình Nhưỡng. Năm 2025 cũng đánh dấu 75 năm hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao. Tuy nhiên, mối quan hệ này không phải lúc nào cũng suôn sẻ ! Vũ Xuân Khang : Quan hệ Việt Nam-Bắc Triều Tiên thực ra từ sau chiến tranh Lạnh không có nhiều phát triển so với quan hệ Việt Nam-Hàn Quốc. Nói như vậy không có nghĩa là quan hệ Việt-Triều không quan trọng. Trong tình hình chính sách đối ngoại hiện nay của Việt Nam, Bắc Triều Tiên là một trong những đối tác truyền thống của Hà Nội, khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao kể từ rất sớm, vào tháng 01/1950. Và Bắc Triều Tiên là nước thứ 3 đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, chỉ sau Trung Quốc và Liên Xô. Trong chiến tranh chống Mỹ, Bắc Triều Tiên đã cam kết sẽ bảo vệ miền Bắc khỏi các cuộc tấn công của Mỹ và chính họ đã gửi phi công tham chiến, cũng như một lượng lớn khí tài và viện trợ kinh tế cho miền Bắc. Mặc dù quan hệ hai bên đã bị sứt mẻ trong chiến tranh Đông Dương lần 3 khi Bắc Triều Tiên ủng hộ Trung Quốc và Khmer Đỏ chống lại Việt Nam, hai bên đã không có bất kỳ cuộc trao đổi cấp cao nào. Và đó gần như là giai đoạn mà hai bên không muốn nhắc tới. Đọc thêmViệt Nam cố giữ trung lập giữa Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên Kể từ năm 1988-1989 đến nay, sau khi Việt Nam rút quân khỏi Cam Bốt, thì hai nước mới bắt đầu có những trao đổi cấp cao trở lại. Tuy nhiên, việc Việt Nam bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Hàn Quốc vào năm 1992 đã khiến cho quan hệ Việt Nam-Bắc Triều Tiên tạm thời trở nên đóng băng. Kể từ đầu những năm 2000 trở lại đây, Việt Nam và Bắc Triều Tiên mới bắt đầu nối lại những đàm phán cấp cao do chính Bình Nhưỡng bày tỏ mong muốn là được thử nghiệm các mô hình mở cửa kinh tế như Việt Nam và Trung Quốc đã làm. Có thể thấy là quan hệ giữa Việt Nam và Bắc Triều Tiên kể từ sau Chiến tranh Lạnh không có nhiều phát triển, nhất là quan hệ thương mại gần như nhỏ giọt, chỉ khoảng 20 triệu đô la/năm. Và về quan hệ quân sự, càng không có một chi tiết nào được công bố trên truyền thông. Những năm gần đây, Việt Nam và Bắc Triều Tiên mong muốn tiếp tục nối lại quan hệ ngoại giao sau khi đại dịch Covid-19 làm ảnh hưởng tới trao đổi cấp cao giữa hai nước mà do chủ tịch Bắc Triều Tiên Kim Jong Un đã cố gắng nối lại trong chuyến thăm Hà Nội năm 2019. RFI : Tổng bí thư Tô Lâm là nhà lãnh đạo đảng thứ 3 đến thăm Bắc Triều Tiên trong 75 năm qua, lần gần đây nhất là chuyến thăm của tổng bí thư Nông Đức Mạnh năm 2007. Vậy chuyến công du này có ý nghĩa như thế nào ? Vũ Xuân Khang : Cần phải nói rõ là trong những năm gần đây, vì những lý do về kinh tế, về đại dịch nên Bắc Triều Tiên đã đóng cửa rất nhiều đại sứ quán và lãnh sự quán ở các nước đối tác truyền thống khác, như Uganda, Angola, Nepal, Senegal, Bangladesh, Hồng Kông, và Tây Ban Nha… nhưng họ vẫn duy trì hiện diện ở Việt Nam. Điều này cho thấy Bắc Triều Tiên vẫn nhìn nhận Việt Nam như là một đối tác rất quan trọng ở Đông Nam Á. Và trong những năm gần đây, cho dù hai nước không gặp nhau trực tiếp do đại dịch Covid-19, nhưng vẫn có những thư mừng hoặc những lời chúc mừng trong giai đoạn hai nước tổ chức Đại hội Đảng. Đặc biệt kể từ năm 2024, hai nước bắt đầu thực sự nối lại các cuộc gặp mặt cấp cao như chuyến thăm Việt Nam của ông Kim Song Nam, trưởng ban quốc tế trung ương của Đảng Lao động Triều Tiên, vào tháng 03/2024. Việt Nam cũng đã gửi thứ trưởng bộ Quốc Phòng và bộ Ngoại Giao đến thăm Bắc Triều Tiên vào tháng 9 và tháng 10/2024. Việc Bắc Triều Tiên hiện giờ mới mời được tổng bí thư Tô Lâm qua cũng là do đại dịch Covid-19 cũng như là hai bên vẫn chưa tìm được dịp đủ lớn, đủ trang trọng để mời tổng bí thư của Việt Nam qua. Dịp 80 năm thành lập đảng Lao Động Triều Tiên là một dịp rất hợp lý để Bắc Triều Tiên có thể nối lại các đàm phán cấp cao với Việt Nam ở cấp tổng bí thư. Đọc thêmViệt Nam giúp được gì Bắc Triều Tiên để gỡ thế cô lập ? RFI : Bắc Triều Tiên được cho là nhà cung cấp vũ khí, đạn dược cho Nga để duy trì cuộc chiến ở Ukraina. Bắc Triều Tiên cũng nổi tiếng về sản xuất tên lửa đạn đạo, hạt nhân, trong đó có một tên lửa đạn đạo tầm xa mới đã được giới thiệu trong lễ duyệt binh. Liệu mảng quân sự sẽ được đề cập trong quá trình thắt chặt quan hệ hữu nghị với Bình Nhưỡng không ? Hai bên dự kiến phát triển quá trình hợp tác này như thế nào ? Vũ Xuân Khang : Trong chuyến thăm lần này của tổng bí thư Tô Lâm, Việt Nam và Bắc Triều Tiên đã ký kết Ý định thư giữa hai bộ Quốc Phòng về hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng. Cần nói rõ đây chỉ là ý định thư, nghĩa là hai nước bày tỏ quan điểm và các nội dung hợp tác trong tương lai khi các điều kiện cho phép. Và ở đây, lại cần nhấn mạnh vào yếu tố "khi các điều kiện cho phép" bởi vì Việt Nam hiểu rằng Bắc Triều Tiên vẫn đang chịu cấm vận rất lớn từ phương Tây. Đặc biệt là chương trình vũ khí hạt nhân và tên lửa tầm xa, bất kỳ hoạt động hợp tác nào của Việt Nam với Bắc Triều Tiên trong lĩnh vực tên lửa tầm xa có thể vi phạm các lệnh trừng phạt của Liên Hiệp Quốc. Việc này có thể sẽ ảnh hưởng tới quan hệ của Việt Nam với các nước phương Tây khi mà các nước phương Tây cũng như Hàn Quốc luôn luôn đặt vấn đề rằng Việt Nam phải cố gắng duy trì và bảo đảm các lệnh trừng phạt của Liên Hiệp Quốc đối với Bắc Triều Tiên trong các cuộc gặp cấp cao. Nhưng phải nói rằng thực ra, Việt Nam lại rất hợp với vũ khí của Bắc Triều Tiên. Trong thời gian gần đây, Việt Nam mới thành lập Bộ Tư lệnh Pháo binh Tên lửa và Hà Nội mong muốn nâng cấp tầm bắn của các tên lửa Scud-B do Liên Xô sản xuất và Liên Xô đã trao cho Việt Nam rất nhiều tên lửa Scud vào giai đoạn 1980. Còn Việt Nam, kể từ sau Chiến tranh Lạnh, lại không có điều kiện để thực sự tìm được một nguồn cung dồi dào hoặc một lời khuyên để phát triển loại vũ khí này. Bắc Triều Tiên lại có một nền tảng quốc phòng rất mạnh, kể cả Liên Xô sụp đổ, họ cũng đã tự cải tiến tên lửa Scud, như chúng ta thấy là họ đã có một hệ thống tên lửa tầm xa rất phát triển, như mới đây nhất là trong lễ diễu binh có tên lửa Hỏa Tinh-20 có khả năng bắn đến Mỹ và sử dụng nhiên liệu rắn. Đọc thêmMô hình Việt Nam có thích hợp với Bắc Triều Tiên? Do đó, Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi kinh nghiệm từ chương trình vũ khí hoặc là về công nghiệp quốc phòng nói chung của Bắc Triều Tiên. Nhưng như tôi đã đề cập ở trên, Việt Nam vẫn phải chú ý rất kỹ đến lệnh trừng phạt của Liên Hiệp Quốc. Đây mới chỉ là một ý định thư chưa chưa phải là một thỏa thuận hợp tác quốc phòng rõ ràng giữa hai nước. RFI : Tổng bí thư Tô Lâm trước đó đã công du Seoul. Việt Nam được cho là mua pháo K9 Thunder của Hàn Quốc. Và bây giờ là chuyến công du Bình Nhưỡng. Những hoạt động này có ý nghĩa như thế nào ? Vũ Xuân Khang : Chuyến thăm đến Triều Tiên của tổng bí thư Tô Lâm gần như là ngay sau chuyến thăm Hàn Quốc hồi tháng 08, đây là một lời khẳng định rõ ràng về đường lối ngoại giao đa phương hóa, đa dạng hóa của Việt Nam trong tương lai cũng như hiện tại và Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả nước và mong làm cầu nối giữa các bên. Đặc biệt chuyến thăm Bắc Triều Tiên lần này còn có tiềm năng lớn với Việt Nam trong hoàn cảnh chủ tịch Bắc Triều Tiên Kim Jong Un và tổng thống Mỹ Donald Trump đều để ngỏ khả năng gặp mặt trong trường hợp hai bên đồng ý về một thỏa thuận hạt nhân. Đọc thêmVũ khí: Hàn Quốc giúp Việt Nam giảm phụ thuộc vào Nga Việt Nam với tư cách là đối tác tin cậy của cả hai nước và là chủ nhà của thượng đỉnh Mỹ-Triều năm 2019 sẽ mong muốn lại một lần nữa được thể hiện vai trò, cầu nối, trung gian hòa giải và đóng góp vào xây dựng hòa bình trên bán đảo Triều Tiên. Trong các tuyên bố với cả phía Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc, Việt Nam đều nhấn mạnh rất rõ là mong muốn hai miền Triều Tiên tiếp tục đối thoại và hợp tác với nhau và Việt Nam cũng đề cập vai trò của mình trong việc ủng hộ bảo vệ an ninh khu vực. Đặc biệt, trong chuyến thăm Hàn Quốc của tổng bí thư Tô Lâm, Việt Nam cũng đề cập rất rõ là ủng hộ chính sách hòa giải liên Triều của tổng thống Hàn Quốc Lee Jae Myung. Điều này thể hiện Việt Nam mong muốn được tiếp tục làm cầu nối giữa hai miền. Việc Bắc Triều Tiên vẫn gửi lời mời tổng bí thư Tô Lâm sau khi Việt Nam ký kết mua pháo K9 Thunder của Hàn Quốc cho thấy Bình Nhưỡng coi trọng vai trò trung gian hòa giải, cũng như đường lối đối ngoại
Kể từ ngày 01/07/2025, Việt Nam không còn áp dụng án tử hình đối với 8 tội danh, theo xu thế chung hiện nay của thế giới là dần dần xóa bỏ án tử hình. Việt Nam là một trong số ít quốc gia còn duy trì án tử hình. Như mọi năm, ngày 10/10/2025 đã là Ngày Thế giới Chống Án Tử hình. Ngày này do tổ chức Liên minh thế giới chống án tử hình tổ chức lần đầu tiên vào năm 2003 nhằm thống nhất phong trào bãi bỏ án tử hình toàn cầu và huy động xã hội dân sự, các nhà lãnh đạo chính trị, luật sư, dư luận xã hội… ủng hộ lời kêu gọi bãi bỏ án tử hình trên toàn thế giới. Theo thống kê từ tổ chức Ân xá Quốc tế, 113 quốc gia đã bãi bỏ án tử hình đối với tất cả các loại tội phạm, 23 quốc gia đang bãi bỏ án tử hình trong thực tế, 54 quốc gia đang duy trì án tử hình, trong đó có Việt Nam. Tuy nằm trong số các nước vẫn còn duy trì án tử hình, Việt Nam nay cũng đã giảm bớt số tội danh lãnh án tử hình. Cụ thể, ngày 25/06/2025, Quốc Hội Việt Nam đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự, trong đó bỏ án tử hình với 8 tội kể từ 01/07, đồng thời chuyển sang tù chung thân với người bị tuyên tử hình về các tội này trước ngày 01/07. Tám tội danh không còn bị kết án tử hình bao gồm: Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 109); Phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 114); Sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, phòng bệnh (Điều 194); Vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250); Phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược (Điều 421); Gián điệp (Điều 110); Tham ô tài sản (Điều 353); Nhận hối lộ (Điều 354). Theo báo chí trong nước, giải thích về việc bỏ án tử hình với 8 tội danh, bộ Công An Việt Nam đã nêu lên 4 lý do. Thứ nhất, thực tiễn cho thấy, “các tội danh này đã được đa số các nước trên thế giới không quy định hình phạt tử hình hoặc đang có xu hướng bỏ hình phạt tử hình.” Thứ hai, “nhiều nước trên thế giới đã yêu cầu Việt Nam phải cam kết không áp dụng hình phạt tử hình hoặc tuyên nhưng không thi hành án tử hình đối với những vụ án về tham nhũng, chức vụ, nhưng Việt Nam chưa cam kết, cho nên khi Việt Nam yêu cầu tương trợ tư pháp có liên quan đến án tử hình thì gần như không có phản hồi.” Thứ ba, đây cũng là “xu thế chung của thế giới”, hiện nay đa số các quốc gia đều không áp dụng hình phạt tử hình đối với các tội không phải là “tội ác”. Thứ tư, bỏ án tử hình cũng là nhằm “đảm bảo hiệu quả thu hồi tài sản, đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa; đồng thời khuyến khích người phạm tội hợp tác với cơ quan chức năng” Trả lời RFI Việt ngữ, luật sư Hoàng Cao Sang, Văn phòng Luật sư Hoàng Việt Luật ở Sài Gòn, nhận định: “Chúng tôi cho rằng việc Việt Nam bỏ án tử hình là một xu thế mà tất cả các quốc gia đều hướng tới. Thứ nhất là mang tính nhân văn, thứ hai là tránh oan sai, vì thông thường một quốc gia nào cho dù có tối tân về máy móc và chuyên môn đến đâu thì cũng dễ dẫn tới những oan sai về tội tử hình. Nếu mà đã tử hình rồi thì hậu quả là không lường được và không thể khắc phục được. Chúng ta thấy là càng về trước thì những hình phạt càng nghiêm khắc, gần giống như là “trả thù” người phạm tội, chẳng hạn như cho vào vạc dầu, tứ mã phanh thây, rồi tùng xẻo, hoặc là tử hình bằng cách làm cho người phạm tội đau đớn nhất. Nhưng càng văn minh thì người ta càng bỏ những hình phạt mang tính độc ác như vậy. Cho nên hướng tới là Việt Nam cũng hòa nhập với xu thế của thế giới. Việc Việt Nam bỏ bản tử hình là một điều hết sức mang tính văn minh và hội nhập quốc tế cao. Có một điều mà tôi thấy các quốc gia cũng hay áp dụng, đó là tuy bỏ hình phạt tử hình nhưng thay vào đó là một án chung thân không giảm án, có nghĩa là tránh oan sai cho người phạm tội đó. Tôi cho rằng quy định đó cũng hợp lý: Không tước đi mạng sống của người phạm tội, nhưng họ vẫn phải chịu một hình phạt, đó là phạt tù mà không bao giờ giảm án. Việt Nam cũng có một sự tiến bộ là bỏ án tử hình nhưng có một hình phạt là không giảm án. Tôi cho đấy là cũng phù hợp với xu thế chung của các quốc gia.” Theo báo chí trong nước, giải thích về việc bỏ án tử hình với 8 tội danh, bộ trưởng Tư Pháp Nguyễn Hải Ninh đã cho biết một phần là trong thời gian qua Việt Nam trên thực tế không áp dụng án tử hình với các tội đó. Việc bỏ hình phạt tử hình với các tội này cũng là nhằm “phục vụ hoạt động hợp tác quốc tế, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang thúc đẩy các quan hệ ngày càng bền chặt và tin tưởng lẫn nhau.” Trong số các tội danh được bỏ án tử hình, có tội Vận chuyển ma túy. Nhiều người cho tới nay chỉ vì nhẹ dạ cả tin, hoặc vì túng quẫn làm liều, hoặc hám lời, đã nhận vận chuyển dùm cho các đường dây buôn ma túy nên phải chịu hình phạt cao nhất là tử hình. Luật sư Hoàng Cao Sang giải thích: “Trong nhóm tội phạm ma túy, trước đây có ba hành vi đưa đến mức cao nhất của khung hình phạt đó là tử hình: Tội sản xuất ma túy, tội mua bán ma túy và tội vận chuyển ma túy. Tuy nhiên, đến lần sửa đổi luật vừa rồi thì Việt Nam bỏ tội vận chuyển ma túy, còn tội sản xuất và tội mua bán thì vẫn giữ ở khung hình phạt tử hình. Tôi cho rằng đối với 3 hành vi nghiêm trọng có mức khung hình phạt tử hình thì vận chuyển là hành vi nhẹ nhất, ít gây nguy hiểm nhất so với hai hành vi kia. Cho nên nhà nước bỏ tội tử hình đối với hành vi vận chuyển cũng là hợp lý.” Một điểm đáng chú ý khác đó là trong danh sách các tội không còn áp dụng án tử hình, có tội danh Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 109). Theo các tổ chức nhân quyền quốc tế, điều 109 là một trong những điều luật có nội dung mơ hồ và có thể diễn giải tùy tiện trong Bộ Luật Hình sự mà chính quyền Việt Nam thường sử dụng kết án tù các nhà hoạt động chính trị và tôn giáo, với hình phạt cao nhất là chung thân và tử hình. Các tổ chức nhân quyền đã từng kêu gọi Hà Nội hủy bỏ hoặc sửa đổi điều luật này cho phù hợp với các nghĩa vụ Việt Nam theo Công ước Quốc tế về Các Quyền Dân sự và Chính trị. Có lẽ chính là dưới áp lực của quốc tế mà Việt Nam đã bỏ án tử hình đối với tội danh Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Về điểm này, luật sư Hoàng Cao Sang ghi nhận: “Xu thế của các quốc gia trên thế giới đều là không áp dụng hình phạt tử hình. Cho nên trong tội hoạt động lật đổ chính quyền, họ cũng yêu cầu không thực hiện việc tử hình đối với hành vi mà trước đây Bộ Luật hình sự Việt Nam cho là một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, cần phải tách ly người này ra khỏi cuộc sống xã hội. Tôi cho rằng bây giờ xã hội đã ổn định hơn và theo xu thế hội nhập thì cũng phải bỏ tội danh đấy và tôi nghĩ thế giới cũng tránh việc một bộ luật lạm dụng điều đó để khống chế hoạt động của người dân nhằm phát triển quyền của con người. Trong thời gian qua, khi bộ luật có sửa đổi với việc bỏ 8 tội danh này thì tôi thấy là dư luận hay nhắc đến tội tham ô, nhận hối lộ, rồi tội vận chuyển trái phép chất ma túy, còn đối với các tội danh khác thì người dân ít quan tâm, hoặc là vì một lý do nhạy cảm nào đó người dân ít nhắc tới. Nhiều khi hành vi cũng không quá nghiêm trọng, nhưng rớt vào điều 109 này, tôi nghĩ nếu áp dụng khung hình phạt tử hình thì cũng hơi nghiêm khắc, cho nên tôi cho rằng bỏ cái hình phạt tử hình đối với tội danh hoạt động nhằm lật đổ chính quyền dân dân cũng là hợp lý.” Riêng với tội Tham ô tài sản và tội Nhận hối lộ, sau khi bỏ hình phạt tử hình, "nhằm bảo đảm thu hồi tài sản và khuyến khích người phạm tội tích cực khai báo", luật sửa đổi có quy định người bị kết án tù chung thân có thể được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt “khi chủ động nộp lại ít nhất 3/4 tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng.” Nhưng như vậy thì phải chăng các quan chức cứ việc tham ô, nhận hối lộ, nhất là nay không còn án tử hình nữa và nếu có bị phát giác, bị đưa ra xử thì chỉ cần hoàn trả lại tiền tham nhũng là được giảm án? Luật sư Hoàng Cao Sang nêu ý kiến: “Tôi thì thì lại không hiểu như vậy, vì tất cả mọi điều luật đều có quy định rằng khắc phục hậu quả thì sẽ được xem là tình tiết giảm nhẹ khi truy tố xét xử. Cho nên đối với người phạm tội tham ô mà có đóng lại khoản tiền, xem đó là tình tiết giảm nhẹ để giảm án thì tôi cho rằng cũng phù hợp với các tội danh khác. Tuy nhiên, trong thời thời gian vừa rồi, có những trường hợp mà đóng tiền lại thì được giảm án quá "sâu" so với quy định thì dư luận cũng không đồng tình. Trước mắt, vì là người phạm tội bị kết án tử hình trước ngày 01/07, bà TRươngMỹ Lan, chủ tịch tập đoàn Đại Thịnh Phát, trên nguyên tắc có thể được xem xét chuyển hình phạt từ tử hình xuống chung thân, nhưng việc bà "khắc phục hậu quả" như thế nào chắc chắn sẽ được dư luật tiếp tục quan tâm. Quốc tế dĩ nhiên đã hoan nghênh việc Việt Nam xóa bỏ án tử hình đối với 8 tội danh, chẳng hạn vào ngày 08/08/2025, đồng chủ tịch Viện Nhân quyền thuộc Hiệp hội Luật sư Quốc tế (IBAHRI) Mark Stephens đã ra thông cáo nhấn mạnh: "Bước đi lịch sử này của Việt Nam đánh dấu một bước phát triển đáng kể, hòa nhập hơn với xu hướng xóa bỏ án tử hình trên toàn cầu. Với nghĩa vụ không trì hoãn hoặc ngăn cản việc xóa bỏ án tử hình theo Điều 6(6) của Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR), IBAHRI kêu gọi Việt Nam tiến tới xóa bỏ hoàn toàn án tử hình đối với mọi tội phạm." Việt Nam hiện vẫn duy trì hình phạt tử hình đối với các tội phản quốc (Điều 108); tội nổi loạn (Điều 112); tội khủng bố nhằm chống Chính phủ (Điều 113); tội giết người (Điều 123); tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142); tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 248); tội mua bán trái phép chất ma túy (Điều 251); tội khủng bố (Điều 299); tội ác chống nhân loại (Điều 422); và tội ác chiến tranh (Điều 423). Theo IHBARI, dữ liệu về việc áp dụng án tử hình tại Việt Nam được cho là bí mật nhà nước, gây khó khăn cho việc xác định số liệu chính xác về việc áp dụng hình phạt này. Cũng trong thông cáo nói trên, đồng chủ tịch IBAHRI, bà Hina Jilani, kêu gọi Việt Nam “ tăng cường minh bạch trong việc áp dụng án tử hình, bao gồm việc cung cấp dữ liệu đầy đủ và chính xác về các bản án tử hình, các vụ hành quyết và các điều kiện giam giữ tại khu tử tù.”
Kể từ sau đại dịch Covid-19, ngành du lịch Việt Nam đã dần dần phục hồi, số du khách quốc tế đã tăng mạnh trở lại. Tuy nhiên, nhiều yếu tố địa chính trị, đặc biệt là chiến tranh Ukraina, vẫn ảnh hưởng đến đà phục hồi này. Diễn ra từ ngày 23/09 đến 25/09/2025, tại Paris, IFTM Top Resa là triển lãm du lịch quốc tế hàng đầu thế giới, quy tụ hơn 3.000 doanh nghiệp từ hơn 100 quốc gia. Đây là dịp rất quan trọng để các doanh nghiệp lữ hành kết nối với nhau, cho nên nhiều nước đã có hẳn một không gian riêng để quảng bá cho du lịch quốc gia. Riêng Việt Nam không có gian hàng quốc gia, nhưng có một khu triển lãm của thành phố Hà Nội, với sự tham gia của hãng hàng không Vietnam Airlines và 11 doanh nghiệp lữ hành chuyên tổ chức các chuyến du lịch Việt Nam cho khách từ châu Âu. Một vài doanh nghiệp khác thì có gian hàng riêng. Top Resa 2025 diễn ra trong bối cảnh ngành du lịch Việt Nam tiếp tục con đường phục hồi sau đại dịch Covid-19 tuy nhiên cũng phần nào bị tác động của tình hình kinh tế khó khăn trên toàn cầu cũng như tác động của những đảo lộn địa chính trị, nhất là chiến tranh Ukraina. Trả lời RFI Việt ngữ tại triển lãm, ông Trần Sơn, giám đốc công ty Vietspace Travel, được thành lập từ năm 2002, cho biết: “Sau dịch, hoạt động của ngành du lịch nói chung đến với Việt Nam đã từng bước được phục hồi. Chính phủ Việt Nam cũng đã tạo điều kiện hết sức cho tất cả khách nước ngoài nói chung, cũng như cho các doanh nghiệp đưa khách du lịch vào Việt Nam. Chúng tôi cũng nằm ở trong số đó, nhưng sau đại dịch thì hoạt động nói chung phục hồi hơi chậm, vì nhiều lý do. Một lý do là kinh tế toàn cầu không được thuận lợi. Thói quen trong thời gian đại dịch làm cho người ta cũng thay đổi. Chi phí cho tất cả những sinh hoạt đã có những thay đổi nhiều, người ta thận trọng hơn trong chi tiêu. Một lý do nữa là trên thế giới có nhiều thay đổi về chính trị và một số nước đang có chiến tranh. Do vậy đường bay cũng ảnh hưởng, khiến giá vé trở nên đắt đỏ. Mặc dù Việt Nam cũng đã có những cải thiện rất tốt về dịch vụ cũng như về giá cả, nhưng đấy là một trong những nguyên nhân làm cho khách du lịch chưa được nhiều. Tôi hi vọng sắp tới sẽ được nhiều hơn. Cụ thể thì chiến tranh Ukraina đã ảnh hưởng như thế nào đến các đường bay của những hãng hàng không tới Việt Nam trong thời gian qua? Ví dụ đường bay ở phía Bắc Âu. Trước đây người ta có thể đi thẳng hoặc là chỉ transit ( quá cảnh ) một chặng đến Việt Nam. Hoặc là đối với Nga thì trước đây người ta có những chuyến bay charter đến Việt Nam, trực tiếp đến Khánh Hòa, Nha Trang, hoặc Phú Quốc. Nhưng sau đó, do ảnh hưởng của chiến tranh, các hoạt động trên đường bay đó có những thay đổi và chính vì đường bay thay đổi nên lượng máy bay cũng ít đi, làm cho giá cả tăng lên. Đấy là một tác động rất lớn đến tài chính. Khách vốn đã giảm bớt chi tiêu sau dịch bây giờ phải gánh thêm một chi tiêu khác. Tất nhiên người ta vẫn thích bay thẳng, đỡ mệt mỏi, nhưng bây giờ thì phải bay khá nhiều chặng. Vé máy bay lại tăng lên, đấy là một điều khiến người ta phải suy nghĩ lại." Ông Đỗ Quang Tiến, giám đốc công ty Typic Travel ở Hà Nội, cũng nhìn nhận tác động của yếu tố địa chính trị đối với du lịch Việt Nam, nhưng ông nhận thấy là số khách từ châu Âu đang tăng trở lại, vì Việt Nam nay được xem là một điểm đến an toàn so với một số nước láng giềng Đông Nam Á: “Lẽ ra sau Covid, nếu không có chiến tranh ( Ukraina ) thì Việt Nam sẽ là một điểm đến được rất nhiều du khách lựa chọn. Tuy nhiên chính phủ Việt Nam cũng nhận thấy tình hình đó và đã có những chính sách rất phù hợp và kịp thời,thứ nhất là mở cửa sớm và thứ hai là miễn thị thực cho rất nhiều nước thuộc Liên Hiệp Châu Âu và Châu Âu nói chung. Biện pháp đó đã kích thích, làm tăng một lượng khách đến Việt Nam rất là lớn. Trong năm 2023, 2024, lượng khách quốc tế từ Châu Âu tới Việt Nam tăng vọt và nhiều hơn so với trước Covid 2019 khoảng từ 20 cho đến 40%. Đấy là một dấu hiệu rất tích cực. Mặc dù cũng có bị ảnh hưởng bởi tình hình địa chính trị thế giới và chiến tranh ở châu Âu, tuy nhiên, hiện tại, sau Covid, mọi người có nhu cầu khám phá và chọn điểm đến an toàn, trong đó Việt Nam cũng luôn là một điểm đến được lựa chọn bởi khách du lịch châu Âu, trong đó Pháp và Đức là hai quốc gia có lượng khách du lịch đến Việt Nam nhiều nhất kể từ 2022, 2023 và 2024 cho đến nay. Khách cũng có sự lựa chọn nhất định. Phần lớn là khách thường có tiền một chút thì mới đi. Mức chi tiêu trước Covid rất là tốt, nhưng sau Covid, về mức chi tiêu cho những dịch vụ gia tăng tại chỗ thì họ dè chừng hơn. Tuy nhiên họ lại sử dụng những dịch vụ cao cấp hơn, chọn những khách sạn bốn, năm sao, hoặc những khu nghỉ dưỡng chuẩn quốc tế nhiều hơn so với trước Covid. Trước Covid phần lớn người ta đi theo cách, một là “bụi”, hai là sử dụng dịch vụ có mức hạn chế về chỗ ăn chỗ ở, còn lại họ dùng tiền để chi tiêu cho mua sắm. Bây giờ ngược lại họ dành chi tiêu cho việc lưu trú tốt và phần lớn không mua sắm nữa. Người Pháp hay người Đức hay người châu Âu nói chung vẫn thích điểm đến Việt Nam so với một số các nước khác. Văn hóa Việt Nam hay, phong cảnh đẹp, người dân thân thiện và đặc biệt là ăn uống rất ngon với một mức giá vô cùng rẻ so với mức sinh hoạt tại châu Âu. Trong khi đó thì các nước bên cạnh như Cam Bốt, Thái Lan hoặc xa hơn một chút là Indonesia, Malaysia, Philippines thì đều có những xáo trộn về chính trị. Chính vì vậy mà khách du lịch châu Âu lẽ ra chọn Thái Lan, Philippines, Malaysia hoặc Indonesia để đi, thì do tình hình bất ổn đó, họ đã thay đổi kế hoạch. Khoảng 30 đến 40% những khách đã có ý định đi Thái Lan hoặc các nước bên cạnh Việt Nam thay đổi ý định và chọn Việt Nam, vì Việt Nam vẫn là một điểm đến thứ nhất là thân thiện, thứ hai là an toàn, thứ ba là phong cảnh và văn hóa rất đẹp cùng với chi phí có thể nói là rẻ nhất trong khu vực Đông Nam Á, với một dịch vụ gần như là tốt nhất với chi phí đó.” Theo số liệu thống kê, trong 8 tháng đầu năm nay, lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt 13,9 triệu lượt người, tăng gần 22% so với cùng kỳ năm trước. Châu Á là khu vực có nhiều khách quốc tế lớn nhất tại Việt Nam với gần 11 triệu lượt khách, tiếp đến là châu Âu với gần 1,8 triệu lượt khách. Nhằm thu hút thêm du khách châu Âu đến Việt Nam, chính phủ Hà Nội đã quyết định miễn thị thực 45 ngày cho thêm 12 nước ở châu lục này ( Bỉ, Bulgari, Croatia, Cộng hòa Séc, Hungary, Luxembourg, Hà Lan, Ba Lan, Rumani, Slovakia, Slovenia và Thụy Sĩ ) Đối với ông Trần Sơn, giám đốc công ty Vietspace, ngoài chính sách miễn thị thực, chính phủ cần có một kế hoạch dài hạn hơn để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp lữ hành: “Đấy là một chính sách rất cởi mở, chủ động, để chào đón khách trở lại Việt Nam và chứng minh Việt Nam đã có sự chuẩn bị và có những cơ sở rất tốt về dịch vụ. Trước mắt thì đương nhiên giải quyết vấn đề về visa, nhưng dài hơn nữa là phải có chính sách 5 năm, 10 năm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ở Việt Nam. Công ty chúng tôi thì đang cố gắng. Các đối tác cũ hầu hết tất cả đã quay lại, đã nối lại để làm việc. Nhưng đối với những người mới, chúng tôi cũng đang cố gắng để giới thiệu cho các khách hàng này. Giới thiệu ở đây là giới thiệu về văn hóa ẩm thực và các sản phẩm mới. Vì sau dịch đã có rất nhiều sự thay đổi tốt hơn. Dịch vụ ở Việt Nam rất sẵn sàng để phục vụ. Nhưng còn còn về phía Pháp nói riêng và tất cả các nước nói chung, điều này tùy thuộc vào khách hàng và tùy thuộc hoàn cảnh chung của thế giới, về tài chính, về tình hình chiến sự vân vân…” Việt Nam đã đặt ra mục tiêu đạt 25 triệu lượt du khách quốc tế trong năm 2025. Tuy nhiên, trên báo chí trong nước, các chuyên gia về du lịch của Việt Nam cho rằng ngành du lịch không nên dựa hoàn toàn vào chính sách miễn visa. Khách có đến đông, tiêu nhiều tiền và ở lâu hay không phần lớn vẫn phụ thuộc vào các sản phẩm du lịch có đủ sức thu hút khách đến mức nào. Bên cạnh đó là cách thức quảng bá cho du lịch Việt Nam. Ngoài việc tham gia các triển lãm du lịch lớn như Top Resa ở Paris, các chuyên gia đề nghị Việt Nam mở những văn phòng xúc tiến du lịch tại các thị trường quan trọng, như cách mà các nước láng giềng như Malaysia hay Thái Lan đang làm. Về phần giám đốc công ty Typic Travel, trước tình hình số du khách vào Việt Nam đang tăng trở lại, một thách thức đối với các doanh nghiệp lữ hành đó là đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch, hiện đang thiếu rất nhiều kể từ sau Covid: “Dự kiến từ năm nay đến năm 2026, lượng khách du lịch quốc tế sẽ đến Việt Nam nhiều hơn nữa. Việt Nam cũng đang cố gắng củng cố và xây dựng các cơ sở hạ tầng tốt nhất, những khu nghỉ dưỡng hoặc những điểm đến thực sự hay, đồng thời có kế hoạch đào tạo nhân lực chuyên nghiệp. Sau Covid thì nhân lực về du lịch cũng mất rất là nhiều. Nhiều người đã chuyển sang những nghề khác nhau. Việt Nam đã bắt đầu từ 2022 kế hoạch đào tạo nhân sự mới, để làm sao đáp ứng được tất cả các nhu cầu phục vụ khách du lịch quốc tế. Việt Nam bây giờ có rất nhiều khách du lịch quốc tế với nhiều ngôn ngữ khác nhau. Số người nói tiếng Anh, Pháp, Đức hay Tây Ban Nha, hay nói tiếng Hàn, tiếng Nhật, tiếng Trung Quốc đều có, nhưng ở một mức vẫn còn hạn chế, có nghĩa là không đủ nhân lực để cung cấp cho một lượng khách du lịch đang đến rất là đông. Không thể đào tạo ngay được nhân lực chuyên nghiệp, sẽ phải mất tối thiểu từ một năm đến ba năm để làm việc đó.”
Ô nhiễm không khí và nắng nóng kéo dài không chỉ tác động đến sức khỏe và tỉ lệ tử vong, mà còn ảnh hưởng đến việc làm tại Việt Nam. Một bộ phận người lao động phải làm việc thêm 1 tiếng 45 phút và bị giảm thu nhập 129.000 đồng/tháng trong những giai đoạn như vậy. Đây là một trong những nhận định được nêu trong nghiên cứu “Nhiệt độ cực đoan và ô nhiễm ảnh hưởng đến hiệu suất lao động ở Việt Nam như thế nào?” Nghiên cứu được ông Nguyễn Việt Cường, viện phó Viện Nghiên cứu Phát triển Mêkông và kinh tế gia Cecilia Poggi, Cơ quan Phát triển Pháp - AFD thực hiện trong khuôn khổ Dự án GEMMES Việt Nam và được đăng trong số 79 AFD Research Paper (Tài liệu Nghiên cứu của AFD), tháng 07/2025. Kinh tế gia Cecilia Poggi, điều phối các chương trình nghiên cứu liên quan đến bảo trợ xã hội, thế giới lao động và hòa nhập xã hội tại AFD, đã dành cho RFI Tiếng Việt buổi phỏng vấn về chủ đề này. RFI : Vào cuối tháng 7 trong Tài liệu Nghiên cứu của AFD, ông Nguyễn Việt Cường và bà đã xuất bản một nghiên cứu về "Tác động của nhiệt độ cực đoan và ô nhiễm không khí đối với nguồn cung lao động và thu nhập: dữ liệu từ Việt Nam". Tình hình ở Việt Nam đáng báo động đến mức nào để một nghiên cứu như vậy được thực hiện ? Cecilia Poggi : Tình hình hiện nay vẫn chưa hoàn toàn đáng báo động. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng với việc các đợt nắng nóng cực đoan ngày càng trầm trọng, chẳng hạn như đợt nắng nóng 44°C được ghi nhận vào tháng 04/2024 ở miền Bắc Việt Nam, cùng với các đợt ô nhiễm ngày càng gia tăng, những câu hỏi như thế này cần được đặt ra. Các dữ liệu cũng cho thấy rõ điều đó. Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, gây thiệt hại khoảng 3,2% GDP vào năm 2020. Và mặc dù đã có các chính sách chủ động nhằm giảm thiểu ô nhiễm không khí, Việt Nam vẫn luôn có mức độ bụi mịn PM2.5 cao, tương đương với Trung Quốc và cao hơn nhiều so với mức trung bình toàn cầu trong hơn 20 năm qua. Đọc thêmViệt Nam: Cá chết hàng loạt do nắng nóng khủng khiếp Những mối đe dọa môi trường này không phải là những rủi ro trừu tượng. Chúng gây ra hậu quả trực tiếp đến sức khỏe, khả năng làm việc và khả năng kiếm sống của người dân. Vì vậy, nghiên cứu của chúng tôi tìm hiểu tác động của nắng nóng cực đoan và ô nhiễm không khí đến công việc của người dân tại Việt Nam. Cụ thể, chúng tôi muốn tìm hiểu xem những hiện tượng đó đã khiến một số người ngừng làm việc hoặc ít tích cực tìm việc như thế nào, cũng như ảnh hưởng ra sao đến hiệu suất làm việc của họ, bằng cách phân tích dữ liệu từ tất cả khu vực tại Việt Nam từ 2015-2022. RFI : Nghiên cứu nêu rằng không thấy những tác động đáng kể của nhiệt độ cực đoan hoặc ô nhiễm không khí đến sự tham gia của lực lượng lao động nhưng các tác giả đã quan sát thấy nhiều tác động nhỏ nhưng đáng kể đến thời gian làm việc và thu nhập. Có thể giải thích hiện tượng này như thế nào ? Cecilia Poggi : Nhìn chung, mọi người không nghỉ việc vì những thay đổi bất thường về thời tiết hoặc ô nhiễm. Do đó, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động vẫn ổn định. Tuy nhiên, thực tế lại tế nhị hơn. Nắng nóng gay gắt hoặc một ngày ô nhiễm cao khiến khó có thể duy trì số giờ làm việc hoặc năng suất tương tự như bình thường. Điều này có thể được giải thích bởi những tác động đến sức khỏe, như mệt mỏi hoặc các vấn đề về hô hấp, hoặc chủ ý giảm tốc độ làm việc vì lý do an toàn. Và chúng tôi chứng minh rằng việc làm vẫn còn, nhưng khả năng làm việc với năng suất tương đương có thể bị ảnh hưởng, đặc biệt là trong giai đoạn ô nhiễm nghiêm trọng hơn mức bình thường. Đọc thêm Ô nhiễm không khí ở Hà Nội: Giải pháp không phải đơn giản Ví dụ, chúng tôi nhận thấy rằng một ngày nắng nóng mỗi tháng làm giảm khoảng 0,5% giờ làm việc hàng tuần và 0,7% thu nhập hàng tháng. Và tác động này thậm chí còn rõ rệt hơn khi liên quan đến ô nhiễm : Tăng thêm một microgam trên một mét khối hạt mịn PM2.5 dẫn đến giảm 1% số giờ làm việc, tương ứng với việc bị mất 1 tiếng 45 phút mỗi tháng. Ô nhiễm cũng tác động đến thu nhập hàng tháng, theo đánh giá trong nghiên cứu của chúng tôi là 1,7%, khoảng 129.000 đồng/tháng, tương đương từ 3 đến 4% mức lương tối thiểu thấp nhất theo chuẩn 2023. Xin lưu ý rằng hiện tại chúng tôi đang tiến hành bản phân tích thứ 10 để hiểu rõ hơn về tác động của ô nhiễm, cũng như nhiệt độ khắc nghiệt đối với sức khỏe. Bài báo nghiên cứu thứ hai sẽ phân tích tác động đến chi phí y tế và tỷ lệ tử vong. RFI : Trong nghiên cứu, bà và cộng sự cũng đề cập đến sự bất bình đẳng về tác động của ô nhiễm không khí và nhiệt độ cực đoan đối với người lao động. Tại sao lại có sự bất bình đẳng này ? Cecilia Poggi : Không phải tất cả người lao động đều bị tác động như nhau, và nghiên cứu của chúng tôi cũng chỉ ra rằng không phải tất cả đều có thể thích nghi như nhau. Cho nên xuất hiện sự bất bình đẳng trước những hiện tượng này. Nghiên cứu cho thấy rằng người lao động thường xuyên phải làm việc theo giờ cố định không thể dễ dàng bù đắp số giờ bị mất, cho nên họ cảm nhận được tác động của ô nhiễm nhiều hơn so với những người lao động tự do vì những người này có thể phân bổ khối lượng công việc của họ trong nhiều ngày. Một điều đáng quan tâm là những người lao động ngoài trời, mặc dù tiếp xúc nhiều hơn với hiện tượng biến đổi khí hậu, nhưng thực sự lại ít bị ảnh hưởng hơn khi họ tự kinh doanh, làm việc độc lập bởi vì họ có thể sắp xếp lại công việc của mình. Ví dụ trường hợp của những nông dân tự do ở nông thôn hoặc những người bán hàng rong ở thành phố. Ngược lại, khi nhân viên phải làm việc ở ngoài trời, ví dụ trong ngành xây dựng, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy những tác động tiêu cực rõ rệt hơn nhiều. Đọc thêmCơ quan AFD của Pháp hỗ trợ Việt Nam thực hiện cam kết khí hậu RFI : Liệu có một vùng hoặc nhiều vùng ở Việt Nam bị tác động nặng hơn cả từ những hiện tượng ô nhiễm không khí và nhiệt độ cực đoan này ? Cecilia Poggi : Để trả lời câu hỏi này, trước tiên tôi muốn nhắc lại rằng các vùng miền ở Việt Nam chịu mức độ ô nhiễm khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện thời tiết. Một nghiên cứu bổ sung mà đồng tác giả là phó giáo sư Nguyễn Thị Nhật Thanh thuộc trường Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội cho thấy có sự biến động mạnh mẽ theo vùng về cách tình trạng ô nhiễm biển đổi tùy thuộc vào thời tiết hoặc hiện tượng khí tượng. Do đó câu trả lời không đơn giản như vậy, bởi vì, ví dụ, ở miền Bắc Việt Nam, những thay đổi về nhiệt độ và độ ẩm ảnh hưởng đến ô nhiễm không khí về lâu dài, trong khi lượng mưa và tốc độ gió lại có tác động ngay lập tức trong việc thay đổi nó. Tuy nhiên, những tác động này không giống ở miền Nam Việt Nam, nơi tất cả các tác động có xu hướng xảy ra ngay lập tức. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng ở cấp độ quốc gia, các tác động xấu của các hiện tượng nhiệt độ cực đoan và ô nhiễm đối với thời gian làm việc thể hiện rõ rệt ở khu vực thành thị hơn là khu vực nông thôn. Tiếp theo, nếu gộp các khu vực thành vùng lớn như miền Nam, miền Trung hoặc miền Bắc, chúng ta cũng thấy rằng trong cả hai trường hợp, tác động của những ngày nắng nóng hoặc các đợt ô nhiễm ở miền Nam rõ rệt hơn so với miền Bắc hoặc miền Trung. Và với những tác động này, chúng tôi khuyến nghị rằng các biện pháp đối phó, phòng ngừa nên được thực hiện tùy theo các khu vực và phải được thử nghiệm bởi các cơ quan chức năng, đặc biệt là về mặt bảo vệ việc làm trước những thách thức ô nhiễm. Đọc thêm“Xanh hóa” giao thông Hà Nội: Cần bỏ ôtô cá nhân thể hiện “thành đạt” và kết nối hệ thống công cộng RFI : Vậy, trước những hiện tượng này, các nhà nghiên cứu khuyến nghị chính phủ Việt Nam nên có những biện pháp nào để giải quyết ? Cecilia Poggi : Dựa trên kết quả nghiên cứu, trước tiên cần xem xét việc bổ sung các cách thức liên quan tới sức khỏe và an toàn lao động. Việt Nam hiện đã lập giới hạn nhiệt độ đối với công việc trong nhà, nhưng chưa có tiêu chuẩn nào về chất lượng không khí tại nơi làm việc. Đây là một lĩnh vực mà Việt Nam có thể tham khảo từ các quốc gia đã đặt ra ngưỡng phơi nhiễm ô nhiễm không khí tại nơi làm việc. Thứ hai, các nhà hoạch định chính sách có thể thử nghiệm các giải pháp về công việc đặc thù để ứng phó với các đợt ô nhiễm cao, có tính đến đặc điểm công việc của người lao động. Ví dụ, đối với người lao động ở các khu vực đô thị bị ô nhiễm, chúng ta có thể phân tích chi tiết hơn xem liệu thời gian làm việc linh hoạt hoặc làm việc từ xa có thể vẫn cho phép duy trì năng suất trong những ngày ô nhiễm cao hay không. Cuối cùng, để tiếp tục các chính sách về môi trường cũng cần giải quyết gốc rễ của ô nhiễm. Vì vậy, về lâu dài, việc tiếp tục thực hiện các chính sách môi trường đang triển khai sẽ góp phần cải thiện đời sống của mọi người với việc giảm phát thải, tăng cường giao thông công cộng bền vững và thêm không gian xanh. Bên cạnh đó cũng không được quên những thách thức quan trọng, ví dụ như cần hạn chế việc cứng hóa nền đất hay bê tông hóa quá mức trong quá trình đô thị hóa. Đọc thêmMoov’Hanoi : Đưa giao thông công cộng thành phương thức di chuyển hấp dẫn ở Hà Nội RFI : Nghiên cứu này nằm trong khuôn khổ chương trình GEMMES Việt Nam. Xin bà giải thích thêm về chương trình này và nghiên cứu của bà trong khuôn khổ chương trình ! Cecilia Poggi : GEMMES Việt Nam giai đoạn 2 là chương trình nghiên cứu ba năm do Cơ quan Phát triển Pháp - AFD tài trợ, phối hợp với Cục Biến đổi Khí hậu, bộ Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam và được triển khai với sự hợp tác của các chuyên gia và tổ chức khoa học, đại học Việt Nam. Trong giai đoạn 1, chương trình tập trung vào vấn đề khí hậu. Giai đoạn 2 hiện nay hỗ trợ chính phủ thực hiện tham vọng trung hòa các-bon và đồng thời trở thành một quốc gia có thu nhập cao. Cụ thể hơn, chúng tôi có ba trục nghiên cứu. Trục đầu tiên tìm cách hiểu rõ hơn về các đợt nắng nóng cực đoan bằng cách nghiên cứu các mô hình khí hậu. Trục thứ hai xem xét các tác động kinh tế vĩ mô của quá trình chuyển đổi năng lượng. Trục thứ ba, trong đó có nghiên cứu mà chúng ta đang đề cập, xem xét cách biến đổi khí hậu và quá trình chuyển đổi năng lượng tác động đến người dân, hay đúng hơn là các khía cạnh xã hội của những
Theo một báo cáo của tổ chức Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á AMTI, thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế CSIS ( Mỹ), được công bố ngày 22/08/2025, Việt Nam đã mở rộng đáng kể hoạt động xây dựng đảo tại các khu vực mà Hà Nội tuyên bố chủ quyền thuộc quần đảo Trường Sa ở Biển Đông. Theo báo cáo, những hoạt động này của Việt Nam “sẽ nhanh chóng ngang bằng, thậm chí có thể vượt qua” quy mô hoạt động tương tự của Trung Quốc tại khu vực đó. Các ảnh vệ tinh gần đây cho thấy, kể từ đầu năm nay, Việt Nam đã mở rộng hoạt động xây dựng đảo trên 8 thực thể, cụ thể là đã tiến hành nạo vét và san lấp tại Bãi Tốc Tan ( Alison Reef ), Đá Cô Lin ( Collins Reef ), Đá Đông ( East Reef ), Đá Len Đao ( Lansdowne Reef ) và Đá Núi Thị ( Petley Reef ). Như vậy là toàn bộ 21 bãi đá và bãi cạn lúc triều thấp mà Việt Nam chiếm hữu trong quần đảo Trường Sa hiện đã được mở rộng để bao gồm cả đất nhân tạo, trong khi bốn năm trước phần lớn chỉ là các công trình bê tông cốt thép biệt lập. Báo cáo cho biết hoạt động mở rộng mới cũng đã bắt đầu tại những đảo nhân tạo cỡ trung đã được xây dựng trong các đợt nạo vét trước đó: Đảo An Bang ( Amboyna Cay), Đảo Sinh Tồn Đông ( Grierson Reef ) và Đá Tây ( West Reef ). Theo báo cáo, "tính đến tháng 3 năm 2025, Việt Nam đã tạo ra khoảng 70% diện tích đất nhân tạo ở quần đảo Trường Sa so với Trung Quốc". Việc cải tạo tại tám thực thể mới này gần như đảm bảo rằng Việt Nam "sẽ ngang bằng - và có thể vượt qua - quy mô xây dựng đảo của Bắc Kinh." Theo báo cáo của AMTI, các hình ảnh cho thấy cơ sở hạ tầng, bao gồm các container chứa đạn dược, đang bắt đầu xuất hiện trên các rạn san hô mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền, những nơi mà công việc nạo vét sắp hoàn tất, chẳng hạn như Bãi Thuyền Chài ( Barque Canada ), Đá Lớn ( Discovery Great Reef ), Đá Lát ( Ladd Reef ), Đảo Nam Yết ( Namyit Reef ), Đảo Phan Vinh ( Pearson Reef ), Đảo Sơn Ca ( Sand Cay ) và Đá Tiên Nữ ( Tennent Reef ). Việt Nam chưa đưa ra bình luận công khai nào về hoạt động cải tạo mới nhất của mình, một sự im lặng phù hợp với cách tiếp cận kín đáo của Hà Nội ở Biển Đông. Trả lời RFI Việt ngữ ngày 27/08/2025, nhà nghiên cứu về Biển Đông Hoàng Việt nhận định: “Về chuyện này có vẻ chắc chắn là Việt Nam không bao giờ lên tiếng. Năm trước, Việt Nam đã bồi lấp và mở rộng, năm nay họ cũng đang làm như vậy thì tôi nghĩ cũng là hợp lý, bình thường thôi. Hiện nay, tất cả các công trình đó, theo AMTI, đã bằng 70% so với Trung Quốc. Có lẽ Việt Nam sẽ là một đối thủ quan trọng đối với Trung Quốc. Điều này đối với Việt Nam có thể là vừa có lợi và có hại. Cái lợi là Việt Nam có thể chống đỡ được khá nhiều với Trung Quốc, có thể mở rộng và cạnh tranh với Trung Quốc. Nhưng mặt khác, có thể Trung Quốc sẽ có phản ứng, thì Việt Nam cũng phải hứng chịu. Trên khu vực Biển Đông thì chúng ta biết quan điểm Trung Quốc từ xưa đến nay: Bao giờ họ cũng khẳng định toàn bộ Biển Đông đều thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Trung Quốc cũng không dựa trên cái gì cả, mà chỉ dựa trên cái gọi là đường chín đoạn, chiếm khoảng chừng 80% Biển Đông. Và gần đây thì họ còn mở rộng hơn rất nhiều. Theo thông tin của Mỹ, họ đã mở rộng đến khoảng 90% Biển Đông. Việt Nam cùng với nhiều quốc gia khác ở Đông Nam Á cũng đã đòi những vùng biển thuộc về họ, nhưng có lẽ chỉ có Việt Nam là tập trung sức lực và đủ sức cạnh tranh với Trung Quốc trên Biển Đông. Trung Quốc nói là không ai có quyền mở rộng Biển Đông ngoài họ, nhưng Trung Quốc không có cơ sở pháp lý nào hết, bởi vì từ những năm 1935, Trung Quốc còn chưa nghĩ tới chuyện đi buôn xa hơn và một số bản đồ của nhà Thanh cũng cho thấy Trung Quốc chỉ ở trong vùng phụ cận thôi chứ không có đi ra xa. Có lẽ sau này Trung Quốc cảm thấy những đảo này cần thiết, cho nên họ tìm mọi cách để đưa vào trong bản đồ, trong sách lịch sử cho trẻ con học, khiến cho người dân Trung Quốc cảm thấy Biển Đông là của họ, mặc dù họ không có bằng chứng nào cả và thậm chí bằng chứng của họ đã bị tòa án quốc tế năm 2016 ra phán quyết bác bỏ trong vụ Philippines kiện Trung Quốc năm 2013. Tuy nhiên chúng ta thấy rằng là Trung Quốc chưa bao giờ từ bỏ đường lưỡi bò. Gần đây, bản đồ của họ còn vẽ thêm thành 10 đoạn chứ không phải 9 đoạn, với một đoạn ở khu vực Đài Loan nữa. Họ vẫn cho thấy luật pháp quốc tế không là cái gì cả.” Báo cáo mới của AMTI được đưa ra trong bối cảnh căng thẳng gia tăng giữa Trung Quốc và Philippines trên Biển Đông. Gần đây nhất, vào tháng 7, ở phía bắc quần đảo Trường Sa gần Bãi cạn Scarborough, một tàu khu trục của hải quân Trung Quốc đã va chạm với một tàu Hải cảnh Trung Quốc khi các tàu này đang quấy rối một tàu của lực lượng tuần duyên Philippines trong vùng biển tranh chấp. Các nhà phân tích được kênh truyền hình Mỹ CNN trích dẫn ngày 29/08 cho rằng các xung đột giữa Trung Quốc và Philippines có thể đã tạo cho Việt Nam "một vỏ bọc tuyệt vời" cho hoạt động xây dựng trên các đảo mà họ kiểm soát. Collin Koh, nghiên cứu viên tại Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam (RSIS) ở Singapore, ghi nhận: “Hiện tại, phần lớn sự chú ý của Trung Quốc đang hướng về Philippines, và họ muốn duy trì một mặt trận ổn định với các đối thủ Đông Nam Á khác ở Biển Đông”. Ray Powell, giám đốc của SeaLight, một dự án minh bạch hàng hải tại Trung tâm Đổi mới An ninh Quốc gia Gordian Knot, thuộc Đại học Stanford, đồng tình với nhận xét của Collin Koh: “Dường như Bắc Kinh đã tính toán rằng nên giữ Philippines cô lập khỏi các bên có tuyên bố chủ quyền khác ở Biển Đông hơn là ngăn cản Việt Nam đạt được những bước tiến đáng kể về lãnh thổ”. Thật ra thì Trung Quốc đã có lên tiếng phản đối Việt Nam về những hoạt động xây dựng đảo theo như báo cáo của AMTI. Ngày 25/08, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc Ông Quách Gia Khôn tuyên bố: "Quần đảo Nam Sa (Trường Sa) là lãnh thổ cố hữu của Trung Quốc và Trung Quốc kiên quyết phản đối các hoạt động xây dựng của các quốc gia liên quan trên các đảo và rạn san hô bị chiếm đóng trái phép, đồng thời sẽ thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và quyền hàng hải của mình." Như vậy là sau báo cáo của AMTI, Biển Đông có thể sẽ khiến quan hệ Việt - Trung căng thẳng trở lại, trong lúc bang giao giữa hai nước đang trong giai đoạn nồng ấm. Tuy vậy, các nhà phân tích như Collin Koh, nghiên cứu viên cao cấp tại Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam ở Singapore, cho rằng chỉ riêng quy mô của những đảo nhân tạo này sẽ không làm thay đổi cán cân chiến lược của khu vực. Theo các nhà quan sát, Hà Nội có thể sẽ coi các hoạt động nói trên là mang tính phòng thủ, củng cố các thực thể mà họ đã chiếm hữu để đáp trả nhiều năm mà Trung Quốc quân sự hóa các đảo mà Bắc Kinh đang kiểm soát. Nhà nghiên cứu Hoàng Việt cũng có nhận định tương tự: “Chúng ta biết Việt Nam là một quốc gia kiên trì đấu tranh ở Biển Đông từ rất lâu. Nhiều năm trước, những năm 1980, Việt Nam cũng đã chịu nhiều áp bức từ phía Trung Quốc. Thế nhưng Việt Nam vẫn cố gắng và vẫn nghĩ có đầy đủ bằng chứng lịch sử, pháp lý để khẳng định chủ quyền của mình trên các đảo này. Cho nên Việt Nam hết sức bảo vệ. Hiện nay, quần đảo Hoàng Sa thì Việt Nam không thể giữ được nữa, nhưng ở quần đảo Trường Sa thì Việt Nam đã giữ khá nhiều cơ sở ở đó. Theo những con số mà của AMTI đưa ra, phía Việt Nam cũng đã mở rộng rất nhiều và thứ nhất là sẽ khiến cho ngư dân Việt Nam an tâm hơn. Khi đánh bắt xa bờ, nếu có chuyện gì thì họ có thể quay về trở về để tránh bão. Thứ hai, Việt Nam cũng nghĩ rằng những công trình xây dựng trên biển hay bị hư hại, không giống như trên đất liền, cho nên Việt Nam cũng phải sửa chữa. Và thứ ba là Việt Nam cũng muốn thể hiện cho Trung Quốc thấy rằng Việt Nam mạnh mẽ nhắc đến chủ quyền. Tôi nghĩ rằng nếu chúng ta có đủ bằng chứng, đủ căn cứ pháp lý để xây dựng, thì tại sao không xây dựng?” Tuy nhiên, theo nhật báo Hồng Kông South China Morning Post ngày 27/08, các nhà phân tích cảnh báo rằng việc Việt Nam mở rộng hoạt động xây dựng đảo ở Trường Sa “có thể làm gia tăng căng thẳng trong nội bộ ASEAN, khi các quốc gia thành viên và các bên có yêu sách đối nghịch nhau tìm cách cân bằng giữa tranh chấp chủ quyền với sự đoàn kết, thống nhất trong khối." Ngoài Việt Nam, các thành viên ASEAN khác là Philippines, Malaysia và Brunei đều có các tuyên bố chủ quyền đối lập, trong khi Bắc Kinh khẳng định chủ quyền đối với gần như toàn bộ Biển Đông. South China Morning Post trích dẫn ông Tô Minh Sơn, nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Đại học Quốc gia Úc, chuyên nghiên cứu về quan hệ quốc tế Đông Nam Á: cho biết: "Hà Nội sẽ kết hợp điều đó với việc ủng hộ các cuộc đàm phán về Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) và về Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC), cùng với việc quản lý song phương một cách kín đáo với các bên có yêu sách khác, đồng thời duy trì các kênh liên lạc với Trung Quốc". Ông Tô Minh Sơn nói thêm, mặc dù hoạt động nạo vét của Việt Nam "sẽ khiến việc truyền tải thông điệp của ASEAN trở nên khó khăn hơn [...] nhưng nó sẽ không chia rẽ khối này". Đồng thời ông lưu ý rằng các bên yêu sách khác như Philippines cũng tập trung vào hành vi của Trung Quốc. Việc thắt chặt quan hệ giữa Hà Nội và Manila - bao gồm đường dây nóng của lực lượng bảo vệ bờ biển và các giao thức phòng ngừa sự cố - có thể giúp cả hai quốc gia quản lý tốt các yêu sách chồng chéo, đồng thời thể hiện một mặt trận thống nhất hơn đối với Trung Quốc. Còn theo nhận định của ông Vũ Lâm, một nhà phân tích chính sách và quan sát viên ASEAN, cũng được South China Morning Post trích dẫn, nhìn chung, Việt Nam “không muốn làm xáo trộn mối quan hệ với ASEAN, vốn vẫn là một trong những thành tựu về chính sách đối ngoại quan trọng nhất mà họ đã đạt được trong lịch sử gần đây". Đối với chuyên gia Biển Đông Hoàng Việt, phản ứng của các bên tranh chấp khác trong khối Đông Nam Á sẽ chỉ có mức độ nào đó thôi: Chúng ta biết là giữa các nước Đông Nam Á vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh. Có những điều mà chúng ta có thể hợp tác được, nhưng cũng có những điều mà chúng ta phải đấu tranh với nhau, như Philippines cũng có những cái đấu tranh với Việt Nam. Đương nhiên là giữa các quốc gi
Từ đối tác kinh tế tin cậy, Việt Nam và Hàn Quốc tiến một bước lớn trong lĩnh vực hợp tác quốc phòng. Hợp đồng cung cấp 20 pháo K9 Thunder của tập đoàn Hanwha Aerospace, trị giá 250 triệu đô la Mỹ mở ra hướng đi mới cho xuất khẩu vũ khí cho Hà Nội. Việt Nam là khách hàng thứ 11 trên thế giới của loại pháo K9 nhưng đây là lần đầu tiên Hàn Quốc xuất khẩu vũ khí sang một nước Cộng Sản. Đây cũng là lần đầu tiên, Hà Nội mua vũ khí của Seoul trong bối cảnh muốn đa dạng nguồn cung để giảm bớt phụ thuộc vào Nga. Thỏa thuận này được đúc kết sau chuyến thăm cấp Nhà nước từ ngày 10-13/08/2025 của tổng bí thư Tô Lâm tới Seoul. Theo trang Korea Herald, việc giao hàng sẽ được quản lý thông qua Cơ quan Xúc tiến Thương mại và Đầu tư Hàn Quốc và dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2025. Để hiểu thêm về ý nghĩa của hợp đồng vũ khí đầu tiên này và mối quan hệ hợp tác quốc phòng Việt Nam - Hàn Quốc, RFI Tiếng Việt phỏng vấn nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, chuyên về an ninh hàng hải và các vấn đề hải quân, Đại học New South Wales, tại Canberra, Úc. RFI : Việt Nam mua 20 pháo tự hành K9 Thunder do tập đoàn Hàn Quốc Hanwha Aerospace sản xuất, trị giá 250 triệu đô la. Hợp đồng sẽ được bàn giao vào cuối năm nay. Đây là lần đầu tiên Việt Nam mua vũ khí của Hàn Quốc, trong khi Nga vẫn là nhà cung cấp chính. Về phía Seoul, đây cũng là lần đầu tiên xuất khẩu vũ khí cho một quốc gia Cộng Sản, theo như nhận định của một chuyên gia Hàn Quốc. Xin anh cho biết đối với cả hai nước, hợp đồng “lần đầu tiên” có ý nghĩa như thế nào ? Nguyễn Thế Phương : Hợp đồng này có nhiều hàm ý. Thứ nhất, lần đầu tiên nó mở ra một thị trường nhập khẩu vũ khí mới cho Việt Nam. Trước đây, tầm 70 tới 80% số lượng vũ khí của Việt Nam là nhập từ Nga và một phần nhỏ khác là nhập từ một số nước Đông Âu, Israel. Bây giờ Hàn Quốc trở thành một thị trường nhập khẩu vũ khí cực kỳ tiềm năng cho Việt Nam. Hàm ý thứ hai, sau cuộc chiến Nga Ukraina, Việt Nam đã cố gắng đa dạng hóa nguồn cung vũ khí. Và thành công bước đầu là có thêm được một đối tác nhập khẩu vũ khí mà có thể nói là tương đối bền vững. Vì Hàn Quốc suy cho cùng cũng là một trong những nước đối tác chiến lược toàn diện. Việt Nam - Hàn Quốc mặc dù mới thiết lập quan hệ ngoại giao từ năm 1993 nhưng quan hệ toàn diện từ chính trị, kinh tế, xã hội đặc biệt là quan hệ giữa người dân với nhau, từ đó tới nay phát triển rất tốt và dự báo là cũng sẽ phát triển tiếp. Đọc thêmCông nghiệp quốc phòng Hàn Quốc giúp Việt Nam tự chủ an ninh, đa dạng hợp tác Và có thể trong tương lai, Việt Nam cũng sẽ tìm kiếm thêm một số đối tác khác, không phải là các đối tác truyền thống trước đây như Ấn Độ hay Iran nữa mà là những đối tác mới, bây giờ là Hàn Quốc, sau này có thể là Thổ Nhĩ Kỳ. Đây chỉ là một bước đầu trong nỗ lực đa dạng hóa của nguồn cung vũ khí. Và thứ ba, nó thể hiện sự đa phương hóa và đa dạng hóa trong quan hệ quốc tế - chiến lược ngoại giao của Việt Nam vốn đã bắt đầu từ năm 2003 cho tới bây giờ - và nó mang lại một số kết quả khích lệ trong bối cảnh tình hình thế giới đang diễn biến hết sức phức tạp, hết sức khó lường và ưu tiên chính sách ở thời điểm hiện tại vẫn phải là chuẩn bị cho năng lực quốc phòng đạt được hiệu quả răn đe nhất định. RFI : Trong cẩm nang thị trường quốc phòng về Việt Nam công bố tháng 12/2024, Cơ quan Quản lý Chương trình mua sắm Quốc phòng Hàn Quốc (DAPA) đã liệt kê các mặt hàng xuất khẩu đầy hứa hẹn sang Việt Nam vào năm 2033 (pháo tự hành K9, hệ thống tên lửa địa đối không tầm trung Cheongung-II, hệ thống ngắm pháo cho xe bọc thép và xe tăng, hệ thống nhận dạng laser…). Căn cứ vào những con số này, có thể thấy là hợp tác quốc phòng song phương đầy tiềm năng. Những yếu tố nào có thể giải thích cho việc hai nước tăng cường phát triển hợp tác quốc phòng ? Nguyễn Thế Phương : Yếu tố để giải thích thì một phần tôi đã trình bày ở trên : Đó là nhu cầu mua sắm quốc phòng của Việt Nam hiện tại là rất lớn trong bối cảnh những thách thức an ninh khu vực nổi lên, không chỉ là vấn đề Biển Đông với Trung Quốc mà còn là vấn đề an ninh phi truyền thống ở phía Tây nữa, đặc biệt là vấn đề sông Mêkông, phòng chống tội phạm buôn người xuyên quốc gia. Những yếu tố an ninh như vậy yêu cầu là quá trình hiện đại hóa quân đội Việt Nam phải được đẩy mạnh và mang tính hiệu quả. Nhu cầu quốc phòng lớn nhưng mà bạn hàng truyền thống - đó là Nga - hiện tại đang gặp cực kỳ nhiều rắc rối. Trong bối cảnh đó và dưới áp lực phải hiện đại hóa một cách hiệu quả, việc đa dạng hóa nguồn cung vũ khí, tìm tới những đối tác vừa truyền thống, vừa an toàn, vừa bền vững, là một hướng đi tất yếu thì Hàn Quốc nằm trong sự lựa chọn đó. Đọc thêmHàn Quốc : Phát triển công nghiệp quốc phòng để tự vệ ? Điểm thứ hai, tại sao là Hàn Quốc mà không phải là một số quốc gia khác ? Thứ nhất, Hàn Quốc có nền công nghiệp quốc phòng mạnh, hiện nay là quốc gia xuất khẩu vũ khí đứng hàng thứ tư thế giới. Các loại công nghệ quốc phòng của họ được đánh giá tiên tiến hàng đầu thế giới, đặc biệt tại những mảng công nghệ và những mảng vũ khí mà Việt Nam đang cần, ví dụ pháo binh, các loại công nghệ vũ khí phòng không. Đặc biệt là ngành công nghiệp đóng tàu chiến Hàn Quốc. Ngành công nghiệp đóng tàu Hàn Quốc nói chung là gần như số 2, số 3 thế giới, chỉ sau Trung Quốc với Nhật Bản và nhiều khi Hàn Quốc còn cân bằng với Nhật Bản. Đối với Việt Nam, nhu cầu đóng tàu cũng như là nhu cầu về những mặt hàng vũ khí phòng không, không quân ở thời điểm hiện tại là rất cần thiết tại vì Nga đang bị cấm vận. Cho nên việc có một bạn hàng mới giỏi về vấn đề đóng tàu và các loại vũ khí không quân là cần thiết. Và Việt Nam có thể tận dụng điều đó trong mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt-Hàn. Tiếp theo, quan hệ chính trị ngoại giao và quốc phòng giữa Việt Nam với Hàn Quốc khá là sâu rộng và cả hai nước có một niềm tin chiến lược chiến lược nhất định. Nó khác với Mỹ. Ở thời điểm hiện tại, có vẻ Việt Nam không có nhiều lòng tin chiến lược với Mỹ. Cho nên là một số dự án hợp tác quốc phòng tiềm năng giữa Việt Nam và Mỹ đang hơi bị trì hoãn, ví dụ đàm phán mua máy bay vận tải C130 đang bị trì hoãn rất là nhiều bởi vì rất nhiều vấn đề khác nhau. Đọc thêmTriển lãm quốc phòng quốc tế: Việt Nam tìm giải pháp thay thế vũ khí Nga Chưa kể rằng yếu tố ý thức hệ cũng là một trong những điểm khiến cho hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam và phương Tây nói chung, cũng như là giữa Việt Nam và Mỹ nói riêng, có một số rào cản lớn. Những điểm đó đối với quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc hầu như rất là nhỏ. Mặc dù là một trong những quốc gia đồng minh của Mỹ nhưng Hàn Quốc nằm trong vùng văn hóa Đông Á. Họ hiểu được cách thức mà chính trị ở các quốc gia Đông Á cũng như Đông Nam Á vận hành. Họ chấp nhận mối quan hệ đó, do vậy niềm tin chiến lược giữa hai bên là có. Bởi vì có niềm tin chiến lược, cho nên những rào cản như Việt Nam đối mặt với Mỹ hay phương Tây nằm ở mức tối thiểu. Do đó nó cho phép Hàn Quốc có thể chuyển giao công nghệ tới Việt Nam, đặc biệt là một số loại công nghệ quân sự nhạy cảm mà không gặp phải nhiều rào cản quá lớn. Trong khi vấn đề dân chủ, nhân quyền hay là những vấn đề liên quan tới rào cản kỹ thuật hoặc là sự cho phép sử dụng vũ khí giữa Việt Nam và Mỹ, lại lớn. Yếu tố niềm tin chiến lược trong chính trị và quân sự chính là một điểm nổi bật khiến cho Hàn Quốc trở thành một trong những đối tác quốc phòng mới của Việt Nam ở thời điểm mà nhu cầu mua sắm vũ khí của Việt Nam là cấp thiết. RFI : Như anh đã đề cập ở trên về năng lực đóng tàu của Hàn Quốc thì Việt Nam cũng có nhu cầu về tàu tuần tra tốc độ cao và tàu ngầm nhỏ để bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông. Liệu đây có phải là một vấn đề tế nhị mà cả Việt Nam và Hàn Quốc cần hết sức chú ý vì đều không muốn khiêu khích Trung Quốc ? Nguyễn Thế Phương : Tác động tới quyết định Việt Nam mua vũ khí của nước nào, thực ra sức ép của Trung Quốc là có. Nhưng yếu tố Trung Quốc không có tác động quyết định tới việc là Việt Nam mua vũ khí, tàu chiến hay là máy bay của bất kỳ nước nào. Những mặt hàng như là tàu tuần tra cỡ nhỏ hoặc là tàu ngầm mini, thực ra Việt Nam đã có thể tự chế tạo được những gam tàu đó. Điều mà Việt Nam cần ở hiện tại và điều mà Hàn Quốc có thể cung cấp là khả năng đóng những gam tàu lớn. Hiện nay tàu chiến lớn nhất của Việt Nam, không tính của cảnh sát biển, dao động tầm 1.200 tới 1.500 tấn. Điều mà Việt Nam cần hiện nay là những tàu chiến cỡ lớn, có khả năng hoạt động biển xa, trang bị các loại vũ khí phòng thủ cũng như tấn công phù hợp, tầm từ 3.000 tới 6.000 tấn. Hiện tại phải nói là Việt Nam chưa có đủ tiềm lực để đóng những cái gam tàu cỡ lớn như vậy. Với ví dụ Philippines cho thấy rằng Hàn Quốc có thể có tiềm năng trong tương lai cung cấp công nghệ, cũng như giúp Việt Nam đóng những gam tàu chiến có độ giãn nước lớn từ 3.000 đến 6.000 tấn. Còn dưới 2.000 tấn thì theo sự tìm hiểu của tôi, ở thời điểm hiện tại Việt Nam có khả năng tự đóng được. Ngay cả một số dự án tàu ngầm mini cỡ từ 1.000 tấn chở xuống thì Việt Nam cũng đã có thể tự đóng. Mặc dù chưa xác định rõ được tính hiệu quả trong tác chiến của các loại vũ khí hải quân đó nhưng về mặt công nghệ thì Việt Nam đã đóng được rồi. Trung Quốc sẽ không ảnh hưởng gì tới quyết định đó bởi vì đó là nhu cầu Việt Nam. Và Trung Quốc cũng hiểu rằng khoảng cách về mặt quyền lực, về mặt quân sự giữa hai bên quá là lớn. Việt Nam mua thêm khoảng một vài tàu cũng không làm thay đổi mấy cán cân quyền lực, chỉ là Việt Nam cải thiện hơn một chút khả năng răn đe về hướng biển. Đọc thêmTriển lãm Quốc phòng : Việt Nam thể hiện “khả năng răn đe”, hướng đến xuất khẩu thiết bị quân sự RFI : Sau 17 năm không hoạt động, Ủy ban hợp tác Quốc phòng và Quân sự Hàn Quốc - Việt Nam đã được khôi phục. Quyết định này mang ý nghĩa như thế nào ? Và Ủy ban sẽ hoạt động như thế nào ? Nguyễn Thế Phương : Ủy ban Hợp tác Quốc phòng Việt Nam Hàn Quốc là một cơ quan làm cầu nối để có thể trao đổi về những nhu cầu, cũng như là những mong muốn của hai bên về hợp tác quốc phòng. Nó sẽ đẩy nhanh quá trình trao đổi thông tin, quá trình ra quyết định chính sách, quá trình tham vấn chính sách giữa ha
Những tranh cãi xung quanh bức ảnh nổi tiếng “Napalm Girl” ( Em bé Napalm ) đã bùng lên kể từ khi một bộ phim được chiếu tại Mỹ khẳng định tác giả của bức ảnh này không phải là Nick Ut mà là một người khác. Trong suốt 53 năm qua, bức ảnh “Napalm Girl”, còn được biết dưới cái tên "Terror of war" ,vẫn được xem là biểu tượng cho sự tàn khốc của chiến tranh Việt Nam. Bức ảnh được chụp ngày 08/06/1972 tại Trảng Bàng khi máy bay của không quân Việt Nam Cộng Hòa ném bom napalm nhầm mục tiêu vào một thánh thất Cao Đài nơi mà một nhóm phụ nữ và trẻ em lúc đó đang trú ẩn. Trong ảnh, người ta thấy Kim Phúc, một cô bé 9 tuổi, bị bỏng nặng, thân thể lõa lồ vì quần áo bị cháy hết, cùng với một số trẻ em, từ làng Trảng Bàng vừa chạy vừa la khóc đau đớn, hoảng loạn trên quốc lộ, trước khi bất tỉnh và được đưa vào bệnh viện. Chính nhờ bức ảnh này mà ông Nick Ut, một phóng viên nhiếp ảnh trẻ làm việc cho hãng tin Mỹ AP ở Sài Gòn lúc ấy, trở nên nổi tiếng thế giới: Ngay ngày hôm sau “Napalm Girl” được đăng trên trang bìa của New York Times, gây chấn động dư luận quốc tế. Tác giả của bức ảnh ngay năm đó được trao Giải Pulitzer về báo chí. Sang năm 1973, tổ chức World Press Photo ( Giải Báo ảnh Thế giới ) đã trao giải “Bức ảnh của năm” cho “Napalm Girl”. Thế nhưng, ngày 16/05/2025, World Press Photo lại thông báo tạm ngưng ghi tên tác giả của bức ảnh “Napalm Girl” là Nick Ut sau khi một bộ phim tài liệu của đạo diễn Mỹ gốc Việt Bảo Nguyễn tựa đề “The Stringer: The Man Who Took The Photo”, được trình chiếu lần đầu tiên tại Liên hoan phim Sundance ngày 25/01/2025. Các tác giả của bộ phim khẳng định, sau nhiều năm điều tra, thật ra tác giả của bức ảnh ”Napalm Girl” không phải là Nick Ut, mà là ông Nguyễn Thành Nghệ, được giới thiệu là một “nhà báo tự do” (a stringer). Bộ phim dựa trên cuộc điều tra của nhà báo Mỹ Gary Knight về tuyên bố vào năm 2022 của Carl Robinson, một nhân viên của hãng tin AP ở Sài Gòn năm 1972. Theo Robinson, ông đã được Horst Faas, trưởng bộ phận ảnh của AP tại Sài Gòn vào thời điểm đó, ra lệnh phải ghi Nick Ut là tác giả bức ảnh, vì Nick Ut là phóng viên chính thức của hãng tin. Bộ phim phỏng vấn rất nhiều người, trong đó có một số phóng viên có mặt tại Trảng Bàng ngày 08/06/1972, nhưng lại không hỏi hai nhân vật chính trong câu chuyện này là Nick Ut (hiện sống tại Mỹ) và bà Kim Phúc (hiện sống ở Canada). Sau một cuộc điều ra riêng của World Press Photo, giám đốc điều hành World Press Photo, Joumana El Zein Khoury, đưa ra một tuyên bố vào tháng 5: "Mức độ nghi ngờ quá lớn để duy trì việc ghi nhận tên tác giả như hiện tại". Tuy nhiên, World Press Photo cũng không ghi lại tên tác giả bức ảnh. Theo trang mạng PetaPixel, ông Bảo Nguyễn, đạo diễn phim "The Stringer" đã hoan nghênh quyết định của Worlfd Press Photo. Đạo diễn phim đã viết vào tháng 5: "Những phát hiện của họ kết luận rằng, dựa trên các bằng chứng hình ảnh và kỹ thuật hiện có, Nguyễn Thành Nghệ, một nhiếp ảnh gia người Việt Nam lâu nay bị lãng quên, dường như có nhiều khả năng là người chụp bức ảnh này hơn Nick Ut. Việc xem xét lại này một phần được thúc đẩy bởi bằng chứng được trình bày trong "The Stringer", một bộ phim tài liệu điều tra do tôi đạo diễn với sự hợp tác chặt chẽ của một nhóm các nhà báo và đoàn làm phim, nhiều người trong số họ là người Việt Nam.Sự công nhận này có ý nghĩa sâu sắc đối với tất cả chúng tôi, những người tham gia. Nhưng trên hết, nó đại diện cho bước đầu tiên quan trọng trong việc ghi nhận người mà chúng tôi tin là đã thật sự chụp bức ảnh đó: Nguyễn Thành Nghệ. Chúng tôi hy vọng thế giới sẽ biết đến và gọi tên ông ấy". Ông Bảo Nguyễn còn khẳng định rằng "The Stringer" không phải là một bộ phim về Nick Ut, mà là một cuộc khám phá sự thật, ký ức và "gánh nặng thầm lặng của một người đàn ông đã mang trong mình một bí mật hơn năm mươi năm". Ngay sau khi được trình chiếu, bộ phim đã gây tranh cãi rất nhiều trong giới phóng viên nhiếp ảnh quốc tế, nhiều người tin vào những khẳng định trong phim “The Stringer”, nhưng cũng có nhiều người nghi ngờ tính xác thực của bộ phim. Về phần mình, ngay trước khi "The Stringer" được trình chiếu lần đầu tiên, hãng tin AP đã bác bỏ những khẳng định trong bộ phim và đã tiến hành các cuộc điều tra riêng để đi đến kết luận là không có lý do gì để thay đổi tên tác giả của bức ảnh “Napalm Girl”. Ngay sau khi World Press Photo đình chỉ quyền tác giả của Nick Ut cho bức ảnh "Em bé Napalm", ba nhân vậy nguyên là chủ tịch và giám khảo của World Press Photo đã viết một bức thư ngỏ bày tỏ sự thất vọng trước quyết định của tổ chức này và yêu cầu World Press Photo khôi phục quyền tác giả của Nick Ut. Tính đến đầu tháng 6, 400 nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp đã ký vào bức thư đó. Mặc dù không nêu rõ ai là người chụp bức ảnh nổi tiếng “Napalm Girl”, bức thư ngỏ cho là "vẫn chưa có đủ bằng chứng không thể chối cãi" để có thể kết luận đó không phải là ảnh do Nick Ut chụp. Cũng nhằm biểu thị sự ủng hộ đối với Nick Ut trong vụ này, năm nay ban tổ chức Liên hoan Ảnh Báo chí Thế giới "Visa pour l’image" tại thành phố Perpignan của Pháp, mà giám đốc là ông Jean - François Leroy, ngay từ tháng 5 đã mời ông đến dự. Trả lời RFI Việt ngữ ngày 02/09/2025 tại Perpignan nhân Liên hoan Visa pour l’image, ông Nick Ut cho biết: “Họ đã mời tôi cách đây mấy tháng rồi. Nhân dịp này tôi vừa tới thì gặp ông Jean - François Leroy hôm qua. Ông rất mừng khi gặp lại tôi và ông nói: “Chúng tôi ủng hộ Nick Ut trong vụ bức hình Em bé Napalm”. Họ rất là phản đối, bởi vì bức ảnh “Em bé Napalm” đã từng được nói rất nhiều tại Pháp, nhất là tờ báo Paris Match đã từng sử dụng bức hình này rất nhiều. Cách đây ba mươi mấy năm, Visa pour l'image cũng đã từng mời tôi tới đây và tôi đã gặp những phóng viên nổi tiếng, họ luôn luôn ủng hộ tôi. Khi bức hình đó được làm thành phim “The Stringer”, họ rất bực tức và phản đối luôn cả World Press rất nhiều. Cách đây hơn một năm tôi đã nghe câu chuyện đó. Sau đó phim thành hình là phim “The Stringer”. Tôi cũng đã coi phim đó rồi. Phim hoàn toàn là không đúng sự thật, bởi vì họ nói ảnh đó là tôi lấy của một người làm cho NBC. Thật ra ông ấy không phải là nhà báo, mà là một tài xế được mướn mấy tiếng đồng hồ một ngày thôi. Báo chí Việt ngữ nói ông ấy là một nhà báo làm cho đài truyền hình là không đúng sự thật, tại vì tất cả những người Việt Nam làm cho báo Mỹ trong thời chiến tranh tôi đều biết hết. Tôi được người bạn từ bên Úc gọi tôi một cái message ( tin nhắn ) nói rằng ông Nghệ không có làm báo gì hết. Ông ấy đi du học ở tại Mỹ năm 63 vào thời ông Diệm, học một khóa học về truyền hình tại New Jersey, nhưng thật sự là học làm tình báo. Khi trở về Việt Nam, ông là sĩ quan Việt Nam dưới chính quyền Sài Gòn, chuyên đi khai thác tù binh. Vào ngày 08/06/1972 ở Trảng Bàng, ông ấy đứng nhìn vào máy hình để bắt những tù binh của Cộng sản về điều tra. Người bạn tôi cho biết là trước khi mất nước năm 75, ông Nghệ đã được tòa đại sứ Mỹ đưa đi trước một tháng. Chỉ có những người nhân viên mật vụ của Mỹ mới được đi sớm. Ông này chưa làm nhà báo bao giờ! Ông chỉ là một tài xế lái xe chở những người của đài truyền hình cameraman, soundman đi Trảng Bàng hôm đó. Tôi cũng không ngờ 53 năm bây giờ mới đem câu chuyện này ra. Những người làm trong AP với tôi tại sao năm mươi mấy năm trước không tố cáo, đợi bây giờ mới tố cáo chuyện này? Trong lúc những người làm việc của AP tới nay vẫn còn tố cáo ông Robinson. Họ nói: "Anh em làm việc chung với mà tại sao ông lại nói Nick Ut như vậy?" Vào dịp kỷ niệm 50 năm ( chấm dứt chiến tranh Việt Nam ), cũng có một cô giám đốc của AP tới dự lễ ở Sài Gòn. Cô đã nói thẳng với ông Carl Robinson: "Nick Ut có làm gì ông đâu mà ông tố cáo ông ấy ăn cắp hình này kia?" Ông không trả lời gì hết. Trong bộ phim, họ khẳng định là khi xảy ra vụ ném bom ở Trảng Bàng, từ cái góc đang đứng thì ông không thể chụp được bức hình "Em bé Napalm" nổi tiếng đó. Một người phóng viên thì không phải đứng một chỗ, tôi phải chạy cùng hết. Khi thấy bom nổ, tôi chụp bằng ( ống kính ) tele ( chụp từ xa ). Sau khi cô Kim Phúc bắt đầu chạy ra với mấy đứa em cùng với quân đội Việt Nam Cộng Hòa thì tôi chạy tới chụp hình đó, rồi tôi chạy thụt lùi lại. Tôi chạy cùng hết, bởi vì tôi biết là Kim Phúc sẽ tới chỗ nào để mà ngừng lại Những hình ảnh đó sẽ được chiếu thứ sáu tuần này ( 05/09/2025 ) tại Visa pour l’image, hàng chục tấm hình tôi đều có. Ông tài xế ông nói ông có một bức hình mà hình của ông ấy bây giờ ở đâu, phim của ông ấy đâu? Không bằng chứng gì hết! Lúc tôi về hãng AP để tráng phim, tôi không phải là người tráng phim, mà do một người Nhật tráng phim thành ảnh. Lúc đó tôi rất là bận với phỏng vấn của hãng AP và sau đó tôi đi về để đợi quay trở lại Trảng Bàng sáng sớm hôm sau cùng với ông giám đốc của tôi và một người reporter. Ngày hôm sau, tôi tới đó khoảng 8 giờ sáng thì gặp bố mẹ Kim Phúc đang chạy trên quốc lộ đi tìm con. Tôi chụp hình cha mẹ đang chạy đi tìm thì tôi mới hỏi: “ Bà kiếm ai?” Bà nói là đang tìm một đứa con gái mà hôm qua đến nay không có tin tức". "Con tên gì?" "Tên là Kim Phúc". "Con bà tôi đã đưa bệnh viện rồi, không biết còn sống hay chết, bởi vì cô đã bị cháy phỏng hết rồi". Hai vợ chồng nhảy lên xe đò chạy về Củ Chi để vô thăm con. Bức hình quá nổi tiếng, cho nên Kim Phúc chỉ nằm trong bệnh viện có mấy tiếng đồng hồ thì được đưa về bệnh viện Sài Gòn ngay. Sau khi bức hình được đăng lên báo trên toàn thế giới, chính phủ Mỹ yêu cầu tất cả bác sĩ cố cứu sống Kim Phúc. Lúc đưa vô bệnh viện thì họ nghĩ là Kim Phúc sẽ chết, nên để cô nằm chung với mấy người đã chết rồi. Khi thấy cô còn tỉnh họ mới đưa về bệnh viện Sài Gòn cứu cấp . Những nhân chứng của tôi trong trận Trảng Bàng mà còn sống thì bây giờ có ông Dave Burnett và những người phóng viên đã làm cho báo New York Times. Họ đã lên tiếng rất nhiều. Thế còn cô Kim Phúc, "Em bé Napalm" trong bức ảnh, có đã lên tiếng về vụ này chưa? Cô đã lên tiếng rất nhiều. Cô khóc và nói: “Tại sao chú tôi chụp hình tôi và đưa tôi vô bệnh viện mấy chục năm nay không ai nói về bức hình đó, tại sao bây giờ tố cáo chú Nick Ut của tôi?” Cô đã
Nằm ở vùng cực nam Việt Nam, là khu vực then chốt về sản xuất nông nghiệp của đất nước, nhất là lúa gạo, trái cây và thủy sản, nhưng những năm gần đây đồng bằng sông Cửu Long (châu thổ sông Mekong), đã phải chuyển đổi nông nghiêp để thích nghi với tình hình nước mặt và đất bị mặn xâm nhập. Đây cũng là giai đoạn đồng bằng sông Cửu Long phải tìm hướng biến nước mặn từ là kẻ thù phải tìm mọi cách để ngăn chặn, khống chế, thành nguồn tài nguyên để khai thác, trong bối cảnh nhiều nơi không còn phù hợp để trồng lúa. RFI tiếng Việt phỏng vấn tiến sĩ Dương Văn Ni, Khoa Môi trường và Quản lý tài nguyên thiên nhiên, đại học Cần Thơ và Quỹ bảo tồn đồng bằng sông Cửu Long. RFI tiếng Việt : Tác hại của tình trạng mặn đối với sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa của Việt Nam, hiện nay như thế nào ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Thật ra diện tích canh tác lúa thì có giảm, bởi vì những vùng ven biển duyên hải đó hiện nay thì gần như không còn phù hợp cho chuyện trồng lúa, nên tổng diện tích về canh tác lúa có giảm. Nhưng mà tổng sản lượng lúa cho cả đồng bằng sông Cửu Long thì không giảm nhiều, bởi vì những vùng mà trước đây chúng ta lấn ra ngoài biển để cố canh tác lúa thì không phải là những vùng trọng điểm để sản xuất lúa, năng xuất lúa cũng không cao, nên không ảnh hưởng lớn đến tổng sản lượng lúa của cả đồng bằng sông Cửu Long. RFI tiếng Việt : Đài báo phương Tây thường khi nói đến tình trạng mặn ở đồng bằng sông Cửu Long thì thường nói đến thiệt hại hay là ảnh hưởng, tác động đối với sản xuất lúa nước của Việt Nam, và họ cho rằng có rất nhiều tác hại, nhưng theo như tiến sĩ vừa nói thì những tác hại đối với ngành trồng lúa nước là không quá đáng kể … Tiến sĩ Dương Văn Ni : Tôi muốn lưu ý thứ nhất là thường thường người ta đưa tin theo một xu thế. Ví dụ như nói rằng 2/3 đồng bằng sông Cửu Long này sẽ chìm dưới mực nước biển trong 100 năm tới. Tất cả những chuyện này dựa trên cơ sở dữ liệu trong quá khứ và sử dụng các mô hình toán để dự đoán cho tương lai. Về mặt khoa học không có gì sai, nhưng mà về mặt thực tiển thì chúng ta thấy rõ ràng là chuyện đó còn tùy thuộc vào một yếu tố nữa, đó là sự điều chỉnh của con người, điều chỉnh từ chính sách cho đến điều chỉnh loại cây trồng vật nuôi của người dân. Cái này cần phải được tính tới và thường thường trong những mô hình hay là trong những kế hoạch thì chúng ta không tính tới những chuyện này. Thành thử nói là 100 năm nữa 2/3 đồng bằng này chìm dưới mặt nước biển chỉ là một giả định. Từ giả định đó người ta mới suy ngược lại là 2/3 diện tích mà chìm dưới mực nước biển thì đâu còn bao nhiêu diện tích để trồng lúa nữa. Nhưng mà trong thực tế chúng ta thấy rõ ràng, ví dụ như năm 2015-2016, thiệt hại về lúa do mặn xâm nhập bất chợt mà người ta không biết trước thì thiệt hại khoảng nửa triệu ha. Trong 500.000 hecta đó thì thiệt hại lúa rất là nặng nề, bởi vì người ta không có tinh thần chuẩn bị, bấy lâu nay người ta thấy rằng đầy đủ nước mưa, đầy đủ nước ngọt, do đó người ta cứ tiếp tục trồng lúa nhưng mà đùng một cái mặn nó lên nhiều quá, người ta trở tay không kịp. Nhưng mà rõ ràng là từ những năm 2016 đến nay, và cụ thể nhất là giai đoạn 2020-2022 mặn không thua gì những năm 2015-2016, nhưng mà thiệt hại về lúa gần như không đáng kể nữa, bởi vì người dân ta đã có kinh nghiệm rồi. Và chính quyền địa phương và các ngành chức năng người ta cũng thấy rằng không nên ép người dân phải trồng lúa vào những vùng không phù hợp để trồng lúa nữa. Thế nên tôi cho rằng sự điều chỉnh của con người kịp thời là sẽ giúp giảm các tác hại đó. Mình không nên suy diễn rằng 2/3 diện tích đồng bằng này chìm dưới mực nước biển thì sản lượng lúa sẽ giảm 2/3 tương ứng. Cái đó thì thật ra không đúng. RFI tiếng Việt : Vậy nông dân trồng lúa của đồng bằng sông Cửu Long hiện nay thích nghi với tình trạng mặn như thế nào ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Đối với người dân sống ven theo biển thì chúng ta cần chia ra làm ba giai đoạn. Dễ thấy nhất là giai đoạn từ năm 1975 cho đến khoảng năm 1990. Trong giai đoạn này, người ta cố gắng trồng lúa bằng mọi giá để có nguồn lương thực. Trồng lúa không tính lời lỗ, mà trồng lúa như là một nhu cầu bắt buộc để có cái ăn. Còn từ năm 1990 tới về sau này đó, đặc biệt là từ giai đoạn 1990-2015 thì người ta bắt đầu biết tính lời lỗ, có nghĩa là trồng cây lúa như thế nào để cho có lời. Sau hạn mặn khốc liệt của năm 2015 - 2016, thì nhiều diện tích được đánh giá là không còn khả năng sản xuất lúa có hiệu quả kinh tế nữa, nên người dân không trồng lúa nữa và chuyển qua cây trồng vật nuôi khác thích nghi với mặn hơn. Sau năm 2016 cho đến nay thì đối với những diện tích mà người dân cảm thấy là trồng lúa không có lời nữa thì người ta cố trồng lúa nữa. Nhìn chung, về chuyện thích nghi đó, thì có thất bại, có trả giá thì mới có bài học, và người dân mình đã có những cái bài học như vậy. Do đó, người ta biết được những chỗ nào nên làm và chỗ nào không không nên làm nữa. Thứ hai nữa là trong những năm gần đây, so với những mặt hàng khác thì giá gạo không tăng và thậm chí còn có xu hướng giảm, làm cho hiệu quả kinh tế của việc trồng lúa lại càng thấp hơn so với những hoạt động sản xuất khác, góp phần khiến người ta cân nhắc chuyện tiếp tục trồng lúa trên mảnh đất của mình hay là phải đổi cây trồng vật nuôi khác. RFI tiếng Việt : Vậy chủ trương của nhà nước hiện nay ra sao ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Về chủ trương thì đó là một định hướng lâu dài của nhà nước. Tôi muốn nêu 2 mốc thời gian hết sức quan trọng. Thứ nhất là năm 2017, nghị quyết 120 ra đời, rất nhiều người gọi đây là một nghị quyết thuận thiên. Lý do là lần đầu tiên trong lịch sử ở trong văn bản được ghi một cách rất là cụ thể là coi nước mặn, nước lợ và nước lũ đều là tài nguyên. Còn trước đó, đối với đồng bằng và đối nền sản xuất của mình, thậm chí trong tất cả những chính sách của mình thì nước mặn hay là nước lũ đều là kẻ thù, phải tìm mọi cách để ngăn chặn, khống chế. Cái quan trọng thứ hai là từ cái khái niệm đó, mình đã có một bản đồ quy hoạch tích hợp về phát triển đồng bằng sông Cửu Long từ đây cho tới năm 2050 để thích nghi với biến đổi khí hậu. Và trong bản đồ tích hợp đó, lần đầu tiên chúng ta áp dụng luật quy hoạch để hoạch định ra một chính sách dài hạn cho chuyện sử dụng đất đai ở đồng bằng sông Cửu Long. Trước đó, chúng ta có nhiều quy hoạch mà phần lớn là quy hoạch nhỏ lẻ theo địa phương, hoặc là quy hoạch theo ngành, hoặc là quy hoạch theo vùng, theo lãnh vực, nhưng không tích hợp tất cả mục tiêu lại với nhau. Trong quy hoạch tích hợp đó, người ta chia đồng bằng này theo 3 vùng dựa vào chất lượng nước. Vùng thứ nhất là vùng nước mặn, ưu tiên cho những sản xuất phù hợp với nước mặn. Vùng thứ hai là vùng nước lợ, có đặc điểm là trong mùa mưa có thể có nước ngọt, và trong mùa nắng có thể có nước mặn, nên chúng ta chọn cây trồng vật nuôi phù hợp với điều kiện như vậy. Và vùng thứ 3 là vùng nước ngọt. Đây là vùng trọng điểm để sản xuất lúa hay lương thực. Tôi nghĩ rằng về mặt pháp lý thì nhà nước đã định hình rất rõ và có một định hướng từ đây tới năm 2050 cũng rất cụ thể cho các vùng miền. Vấn đề còn lại là làm thế nào để người dân và chính quyền địa phương, ở những cấp thấp nhất, ví dụ cấp xã cấp huyện, tiếp cận được với những khái niệm khoa học hoặc những chính sách được hỗ trợ đó, để người ta biết vận dụng cái đó vào trong sản xuất và quản lý. Tôi cho rằng đó mới là vấn đề quan trọng. Có một nghị quyết rất là hay hoặc là một bản đồ quy hoạch rất là tốt, nhưng không đi vào thực hiện được thì nó cũng không có giá trị gì. RFI tiếng Việt : Đối với những vùng bị mặn đó, theo tiến sĩ thì đâu là những loại vật nuôi hay cây trồng phù hợp hơn để thay cho cây lúa ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Chuyện chọn cây trồng vật nuôi phù hợp cho vùng mặn như thế nào thì chúng ta phải hoàn toàn tính toán từ góc độ thị trường và góc độ người sử dụng. Chẳng hạn như trong 5 năm vừa qua, chúng tôi có làm một chương trình là đầu tiên chọn vùng đất không còn khả năng để trồng lúa nữa bởi vì muối đã tích lũy trong đất quá nhiều rồi, chúng tôi chọn một vài loại cây phù hợp cho vùng đất này. Cụ thể là chúng tôi chọn loại cỏ mọc rất là nhiều trước đây, trước khi đồng bằng được khẩn quang để chuyển sang trồng lúa hay nuôi tôm. Khi chuyển qua trồng lúa, nuôi tôm, người ta diệt hết loại cỏ đó. Chúng tôi đem loại cỏ đó phục hồi và trồng lại, cây đó tiếng địa phương ta kêu là cây năn tượng. Ngoài chuyện cải tạo đất, cải tạo môi trường thì chúng tôi sử dụng nguyên liệu từ loại cỏ đó để phát triển những ngành hàng về thủ công mỹ nghệ, giúp cho những người dân địa phương có được công ăn việc làm tại nhà. Người ta có được nguồn nguyên liệu tại chỗ và người ta bán được sản rồi mua lại gạo để ăn. Và điều này đó chắc chắn hơn rất là nhiều so với chuyện trồng lúa. Trồng lúa bấp bênh, có thể là năm trúng năm thất, mặc dù trồng lúa nhưng mà lại có những năm không đủ gạo ăn. Nhưng mà bây giờ trồng cỏ thì lại luôn có gạo ăn. Như vậy rõ ràng chuyện mà bấy lâu nay chính sách gọi là an ninh lương thực của chúng ta chỉ chăm chăm vào chuyện phát triển diện tích trồng lúa, nhưng rõ ràng lương thực không phải chỉ có lúa gạo. Lương thực có nhiều cách làm và có nhiều con đường để chúng ta có đủ lúa gạo mà ăn chứ không phải lúc nào cũng phải trồng lúa mới có gạo mà ăn. RFI tiếng Việt : Như tiến sĩ vừa mới nói, thì nước mặn, nước lợ hay nước lũ hoàn toàn có thể là tài nguyên. Vậy thì trong những năm vừa qua, để thích ứng với tình hình biến đổi khí hậu thì Việt Nam và cụ thể là đồng bằng sông Cửu Long đã có những hành động, những chương trình cụ thể gì để biến nước mặn, nước lũ, nước lợ thành tài nguyên ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Chúng ta có một nghị quyết thuận thiên, một bản quy hoạch, một bản đồ phân vùng rất cụ thể, vùng nào ưu tiên nước mặn, vùng nào ưu tiên nước lợ, vùng nào ưu tiên nước ngọt ... Nhưng điểm yếu là chúng ta không có những cái triển khai cụ thể. Tôi lấy ví dụ là nếu chúng ta xem nước mặn cũng là một tài nguyên, vậy thì bây giờ đó chúng ta phải có một nguồn kinh phí để hỗ trợ những nhà khoa học ở các viện, trường để họ tập trung vào chuyển những giống cây con
Có nên chuyển toàn bộ các chuyến bay quốc tế từ Sân bay Tân Sơn Nhất đến Sân bay Long Thành ngay từ năm 2026? Đó là vấn đề đang gây nhiều tranh cãi tại Việt Nam và nhiều chuyên gia đã bày tỏ sự quan ngại về phương án này. Công trình xây dựng sân bay quốc tế Long Thành, trên diện tích 5.000 ha, được chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn một dự kiến hoàn thành cuối năm nay. Theo kế hoạch dự trù, vào ngày 19/12/2025, chuyến bay “kỹ thuật” đầu tiên cất cánh từ Sân bay Nội Bài, Hà Nội, sẽ hạ cánh xuống đường băng Sân bay Long Thành. Kể từ giữa năm tới, trên nguyên tắc sân bay quốc tế mới này sẽ được đưa vào hoạt động, trước mắt là với công suất 25 triệu lượt khách và 1,2 triệu tấn hàng hóa mỗi năm. Sân bay sau khi hoàn tất giai đoạn đầu được được mô tả là “với hạ tầng hiện đại, nhà ga rộng, công nghệ tự động hóa và luồng di chuyển thông thoáng”. Tổng công ty Cảng Hàng không Việt Nam (ACV) đã đề ra hai phương án: Hoặc là chuyển toàn bộ chuyến bay quốc tế về Long Thành ngay từ 2026, hoặc chỉ dời các đường bay quốc tế dài, giữ lại các chặng ngắn ở Tân Sơn Nhất. Theo báo chí Việt Nam, Cục Hàng không Việt Nam và nhiều hãng bay quốc tế cũng “cơ bản nhất trí” với phương án tập trung toàn bộ chuyến bay quốc tế về Long Thành, cho rằng như vậy sẽ “thuận tiện quản lý, tối ưu nguồn lực*. Vị trí của Sân bay Long Thành được cho là “thuận lợi hơn” vì nằm tách biệt với khu dân cư, không phải hạn chế giờ bay và sẽ được kết nối bằng các đường cao tốc, đường vành đai và trong tương lai sẽ có các tuyến metro. Nhưng vấn đề là hiện giờ mạng lưới giao thông đó hầu như chưa có và như vậy việc tập trung toàn bộ chuyến bay quốc tế về Long Thành ngay từ giữa năm 2026 sẽ đặt ra nhiều vấn đề về di chuyển đối với hành khách, nhất là vào những giờ cao điểm. Nhiều chuyên gia đã bày tỏ quan ngại về phương án này, trong đó có kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn, hiện là Chủ tịch NgoViet Architects & Planners và có trên 30 năm kinh nghiệm quốc tế về tư vấn thiết kế, quy hoạch kiến trúc tại châu Á và Bắc Mỹ. Theo quan điểm của kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn, Sân bay Long Thành chưa thể tiếp nhận ngay toàn bộ hay phần lớn các chuyến bay quốc tế, mà vai trò của sân bay này nên được nâng dần lên theo từng bước cho đến khi có đầy đủ cơ sở hạ tầng giao thông cần thiết. Sau đây mời quý vị nghe bài phỏng vấn qua điện thoại với kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn: Xin kính chào kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn, xin cám ơn ông đã nhận trả lời phỏng vấn. Trước hết ông có đánh giá như thế nào về vị trí và tiềm năng của Sân bay Long Thành? KTS Ngô Viết Nam Sơn: Long Thành có một vị trí chiến lược tốt, bởi vì Sân bay Long Thành phục vụ cho cả vùng đô thị thành phố Hồ Chí Minh, chứ không phải chỉ riêng thành phố Hồ Chí Minh. Trong tương quan với những khu vực trọng điểm như là khu trung tâm của các tỉnh thành lân cận thành phố Hồ Chí Minh: Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, cũng như các hạ tầng trọng điểm như Cụm cảng biển Thị Vải - Cái Mép - Cần Giờ, cùng trung tâm đường sắt ở phía Bình Dương, v.v…, tôi nghĩ rằng đây là một vị trí chiến lược tốt. Sân bay cũng nằm cách trung tâm nội thành Thành phố Hồ Chí Minh trong một khoảng cách có thể nói là lý tưởng, khoảng 40km, không quá xa và sân bay có quỹ đất rộng. Thưa ông, có hai phương án đang được đặt ra cho năm 2026: Hoặc là dồn toàn bộ các chuyến bay quốc tế đến Sân bay Long Thành, hoặc là chỉ chuyển những chuyến bay đường dài đến Long Thành và những chuyến bay đường ngắn thì tạm thời vẫn để ở Tân Sơn Nhất. Về các hệ thống giao thông để mà kết nối sân bay Long Thành với Sài Gòn chẳng hạn thì ông thấy hiện nay họ đang tiến hành như thế nào? KTS Ngô Viết Nam Sơn: Các nhà quản lý mong là sẽ đưa sân bay Long Thành vào hoạt động cuối năm nay hoặc là đầu năm sau. Tuy nhiên, có vẻ như là những dự án kết nối hạ tầng, kết nối vùng không theo kịp với tiến độ này. Hai phương án mà ACV đưa ra: Một là chuyển toàn bộ tuyến quốc tế về Long Thành và hai là chỉ chuyển những tuyến đường dài về Long Thành và giữ lại những tuyến đường ngắn lại cho Tân Sơn Nhất và cả hai sân bay đều có tuyến bay quốc nội. Tôi nghĩ rằng hai phương án này cũng chỉ hướng đến mục tiêu ngắn hạn thôi, bởi vì chúng ta phải nhìn đến với mục tiêu dài hạn là hướng đến đích đến, khi mà hoàn thành đúng như kỳ vọng và đúng như quy hoạch, Long Thành sẽ là một sân bay tầm cỡ quốc tế hàng đầu của siêu đô thị Thành phố Hồ Chí Minh. Mình nói siêu đô thị là bởi vì Thành phố Hồ Chí Minh đã rất là lớn, quy mô đã trên 10 triệu dân và vừa rồi Thành phố Hồ Chí Minh nay sáp nhập với tỉnh Bình Dương và tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, tăng quy mô đô thị lên gấp ba và dân số lên gấp rưỡi. Như vậy, Sân bay Long Thành phục vụ cho cả một vùng đô thị Nam Bộ rộng lớn phía Nam, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm. Như vậy, nhìn đến kỳ vọng tương lai, khi đó sân bay Long Thành có thể được ví như sân bay Charles de Gaulle của Paris với những tuyến quốc tế đường dài và hạ tầng của nó thì không chỉ có đường bộ, đường cao tốc, mà có cả kết nối metro, kết nối đường sắt cao tốc, giống như TGV của Pháp, đến sân bay Long Thành. Bên cạnh đó là khu vực xung quanh sân bay Long Thành sẽ hình thành như là một đô thị sân bay ( Airport City ). Giữa Sân bay Long Thành và Cụm Cảng Thị Vải - Cái Mép - Cần Giờ còn có khu thương mại tự do quốc tế đang được dự tính xây dựng, một phần là sẽ thuộc Đồng Nai, một phần sẽ thuộc Thành phố Hồ Chí Minh. Viễn cảnh xa là như vậy, nhưng trước mắt, nếu chúng ta đưa nó vào sử dụng, cho là đầu năm sau đi, thì rõ ràng là hạ tầng kết nối không kịp xây dựng. Đứng về góc độ khoa học, chúng ta có thể thấy rất rõ là việc nóng vội đưa tất cả những tuyến bay quốc tế về đây sẽ không hiệu quả, sẽ làm giảm giá trị của cả Long Thành lẫn Tân Sơn nhất. Tức là cả hai sân bay đều không hoạt động được tốt. Trước mắt, nếu muốn đưa sân bay Long Thành sớm sử dụng đó, tôi vẫn thấy phương án hai có lẽ là khả thi hơn, mặc dù là trong tương lai, Sân bay Long Thành sẽ đóng một vai trò quan trọng hàng đầu tại Việt Nam, lúc đó Tân Sơn Nhất sẽ đóng vai trò thứ yếu. Nhưng sang năm thì tôi nghĩ rằng chúng ta hãy nhìn vào thực tế: vẫn nên để Tân Sơn Nhất quan trọng hơn Long Thành trong ngắn hạn. Bởi vì, với một siêu đô thị như Thành phố Hồ Chí Minh mà hoạt động hiện giờ là khách quốc tế ra vào và khách quốc nội đi và đến sân bay Tân Sơn Nhất, thì không nên vì mong muốn thúc đẩy phát triển Long Thành khi nó chưa có đủ điều kiện mà làm hại đến sự nghiệp chung. Vâng, tức là có nguy cơ nó sẽ gây khó khăn cho các hãng hàng không quốc tế tức là hành khách của những chuyến bay quốc tế dài tới Long Thành muốn kết nối với Sân bay Tân Sơn nhất để đi các chuyến nội địa thì gặp tình trạng là đường xá của mình không phục vụ kịp. KTS Ngô Viết Nam Sơn: Chắc chắn rồi. Chúng tôi cũng đi nước ngoài thường xuyên. Sân bay quốc tế nào cũng vậy thôi, kết nối quốc nội với quốc tế phải thuận tiện. Hiện giờ người ta đang mong muốn Long Thành trở thành như là một "hub" về hàng không, sẽ là nơi tập trung những chuyến bay đường dài đi Châu Mỹ, đi Châu Âu, đi Châu Úc, vân vân… và sẽ có những chuyến quốc nội và quốc tế đến và gom khách ở đây. Dần dần sẽ có những chuyến bay thẳng của máy bay Boeing và Airbus rất lớn. Nhưng chúng ta phải nhìn nhận là hiện giờ Long Thành chưa phải là hub. Muốn trở thành hub thì cần điều kiện là hạ tầng kết nối phải rất là tốt. Bên cạnh đó, các hãng hàng không của Việt Nam, ít ra là hai hãng Vietnam Airlines và Vietjet, phải vươn lên tầm quốc tế, giống như Singapore Airlines hay là Japan Airlines, lúc đó nó mới trở thành là một thực tế. Như vậy là việc chuyến các chuyến bay quốc tế đến Long Thành là tùy thuộc vào khả năng tiếp nhận của sân bay. Khi nào thì Sân bay Long thành mới có thể đạt được mục tiêu đó? KTS Ngô Viết Nam Sơn: Tôi nhìn đến một kịch bản là mình tăng dần dần tầm quan trọng của Long Thành. Có thể là bước một sẽ có một số tuyến quốc tế và giai đoạn đầu có thể tập trung nhiều hơn cho hoạt động vận chuyển hàng hóa, tức là chuyển toàn bộ hoạt động vận chuyển hàng hóa, hay sửa chữa bảo dưỡng máy bay của Tân Sơn Nhất về Long Thành. Bước một thì có thể chấp nhận là Tân Sơn nhất vẫn quan trọng hơn Long Thành. Bước hai là khi bắt đầu có những kết nối hệ thống phục vụ cho Sân bay Long Thành, không chỉ là giao thông xung quanh sân bay, mà cả kết nối đến các tỉnh thành ở trong vùng Nam Bộ, bởi vì một sân bay như Long Thành phục vụ cho cả một vùng đô thị rộng lớn, chứ không phải chỉ một hai tỉnh thành. Bước hai là khi chúng ta có kết nối ít nhất là đường bộ cao tốc nối đến các tỉnh thành, những hệ thống vành đai 1,2,3,4 của Thành phố Hồ Chí Minh hoàn thành những kết nối trực tiếp, như là đường Long Thành - Dầu Giây, được mở rộng ra để không ách tắc. Và có thể thêm được hai tuyến metro quan trọng. Thứ nhất là tuyến Metro trực tiếp từ Thủ Thiêm chạy thẳng lên Long Thành và thứ hai là kéo dài tuyến Metro số 1 lên Biên Hòa từ Biên Hòa xuống Long Thành. Có nghĩa là sân bay này sẽ được phục vụ bởi hai tuyến metro từ nội thành Thành phố Hồ Chí Minh. Lúc đó mình mới nên bàn đến việc chuyển đa số những tuyến quốc tế, đường ngắn và đường dài, về Long Thành. Bước ba thì xa hơn thế. Lúc đó Long Thành không chỉ là một sân bay, không chỉ là một điểm trung chuyển, mà có thể trở thành điểm đến theo mô hình thế kỷ 21 của thế giới, đó là đô thị sân bay. Về đô thị sân bay, tôi có đi thăm và làm việc với các đồng nghiệp ở sân bay Charles de Gaulle, họ có đưa lên khu đô thị sân bay của Paris. Sân bay Changi của Singapore, hay sân bay Schiphol ở Amsterdam thì đi khá xa với mô hình đô thị sân bay. Đến đó chúng ta thấy sân bay trở thành một điểm đến hấp dẫn. Khi hạ cánh xuống người ta có thể lựa chọn ở lại sân bay, có khách sạn, có căn hộ, rồi có dịch vụ thương mại, thậm chí là công viên giải trí. Bước ba thì Long Thành sẽ trở thành thứ nhất là một đô thị sân bay. Thứ hai là khu thương mại tự do kết nối với Long Thành, kết nối với Cụm cảng biển Thị Vải - Cái Mép - Cần Giờ, trở thành cũng là một điểm đến hấp dẫn. Lúc đó nó mới thật sự là kỳ vọng mà chúng ta đang mong muốn cho Long Thành. Tóm lại, trong ba bước này, tầm quan trọng c
Thuế đối ứng 20% của Hoa Kỳ đối với hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ đã bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 07/08/2025. Thật ra, theo bộ Công Thương, trong thời gian tới, Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ tiếp tục đàm phán về thỏa thuận “thương mại đối ứng” và Hà Nội vẫn hy vọng sẽ được hưởng một mức thuế thấp hơn. Trước mắt, một số các chuyên gia nhận định mức thuế 20% cho hàng hóa Việt Nam là cao hơn so với một số nước trong khu vực Đông Nam Á như Thái Lan, Cam Bốt, Indonesia, Malaysia, Philippines (19%), nhưng đây vẫn là mức thuế "tương đối phù hợp" trong bối cảnh Việt Nam là nước đứng đầu Đông Nam Á về xuất khẩu vào Hoa Kỳ và có mức thặng dư thương mại lớn thứ tư với Hoa Kỳ. Tuy vậy, theo chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh, trả lời RFI Việt ngữ qua điện thoại từ Hà Nội, mức thuế 20% vẫn bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam: “Mức thuế 20% này là vẫn rất bất lợi so với một số nước khác được mức thuế 19% hay là 15%, cho nên nó ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các hàng hóa Việt Nam và kết quả là xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đã chậm lại và giảm sút khoảng hơn 20%.Theo tôi, những mặt hàng bị tác động bao gồm may mặc, da giày và kể cả một số mặt hàng đồ gỗ. Nếu như tình hình tiếp tục như thế này, các nhà xuất khẩu Việt Nam sẽ phải tìm cách đa dạng hóa các thị trường và tìm các biện pháp để có thể tiếp tục duy trì sản xuất và xuất khẩu của mình và tìm cách né tránh thuế 20% này. Hiện nay Việt Nam đang cố gắng tìm cách mở rộng thị trường ở Trung Đông và tìm kiếm những thị trường ở Châu Phi, đồng thời muốn phát triển những thị trường khác tuy nhỏ nhưng hy vọng là sẽ vẫn có thể đón nhận được hàng hóa của Việt Nam một cách thuận lợi. Tình hình đó đối với sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam, nhất là đối với những doanh nghiệp trung bình và nhỏ, đang gây khá nhiều khó khăn. Những doanh nghiệp đó chắc là sẽ phải tìm cách kết nối với các doanh nghiệp lớn hơn, để có thể tiếp tục tồn tại. Có nghĩa là họ có lẽ sẽ phải, nhiều hay ít, thay đổi sản phẩm của họ và tìm kiếm những đối tác mới.” Riêng về thủy sản, một trong những mặt hàng chủ yếu xuất khẩu sang Hoa Kỳ, theo dự báo của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), do mức thuế đối ứng 20% của Hoa Kỳ, tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam năm 2025 sẽ chỉ là khoảng 9 tỷ đôla, giảm gần 10% so với năm 2024. Nhưng vấn đề lớn hơn, có thể ảnh hưởng đến cả đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, đó là mức thuế 40% mà chính quyền Trum áp dụng đối với những hàng hóa “trung chuyển”, chủ yếu là hàng có nguyên liệu, linh kiện từ Trung Quốc nhưng được sản xuất ở Việt Nam để được dán nhãn, nhằm né thuế quan của Mỹ. Chỉ có điều cho tới nay phía Mỹ vẫn chưa đưa ra một định nghĩa rõ ràng thế nào là hàng “trung chuyển”. Chuyên gia Lê Đăng Doanh giải thích: “Hiện nay, thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam là Hoa Kỳ và thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc. Mỹ xem xét những mặt hàng gọi là “trung chuyển” dựa trên tỷ lệ giá trị gia tăng của sản phẩm được sản xuất tại Việt Nam. Nếu như Việt Nam cố gắng gia tăng được tỷ lệ đó, để các hàng hóa đó không còn bị xem là hàng hóa trung chuyển, mà là hàng hóa sản xuất tại Việt Nam, thì có thể giảm được mức thuế 40% này. Còn mức thuế 40% này rất bất lợi đối với hàng hóa của Việt Nam bị gọi là trung chuyển. Rất nhiều sản phẩm của các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào Việt Nam nhưng lại nhập khẩu các linh kiện từ các nhà sản xuất cũng của hãng ấy tại Trung Quốc, mà những đầu tư của họ vào Trung Quốc thì có quy mô rất lớn. Vì vậy, ví dụ như trong một điện thoại của hãng Samsung sản xuất tại Việt Nam, tỷ lệ phụ thuộc vào các linh kiện nhập khẩu từ cơ sở của Samsung ở Trung Quốc là không nhỏ. Cho nên vấn đề ở đây là phải hợp tác với các nhà đầu tư, với các nhà xuất khẩu, để nâng cao tỷ lệ sản xuất tại Việt Nam, nâng cao tỷ lệ giá trị gia tăng trong các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam, kể cả các sản phẩm gọi là “made in Việt Nam” nhưng tỷ lệ giá trị gia tăng thì còn tương đối thấp và rất có thể sẽ bị Mỹ xếp vào loại hàng trung chuyển và chịu mức thuế cao. Mức thuế này dĩ nhiên là một tín hiệu rất là quan trọng. Các nhà đầu tư nước ngoài, cũng như các nhà xuất khẩu của Việt Nam đang phải xem xét các phương án đa dạng hóa những nguồn linh kiện và sản phẩm, để có thể giảm bớt việc chịu thuế trung chuyển 40% này. Biện pháp quan trọng nhất là nâng cao chất lượng của các doanh nghiệp hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài, các nhà xuất khẩu nước ngoài. Chúng ta phải tiến tới một trình độ công nghệ cao hơn, một trình độ chất lượng sản phẩm cao hơn và có những nguồn nhân lực chất lượng cao hơn, am hiểu về chuyển đổi số, về thị trường nước ngoài. Với nỗ lực đa dạng như vậy, tôi hy vọng là Việt Nam trong một thời gian nhất định sẽ cố gắng vươn lên để giảm bớt tỷ lệ những mặt hàng bị xếp là trung chuyển.” Trang mạng Luật Khoa tạp chí ngày 12/08 ghi nhận: “Sự mơ hồ của chính sách thuế quan mới từ Mỹ, khi chưa có định nghĩa rõ ràng về dạng hàng hóa “trung chuyển” cũng khiến các doanh nghiệp FDI ( đầu tư nước ngoài ) lo ngại và phải tìm những giải pháp phòng ngừa từ xa. Một số doanh nghiệp đã bắt đầu lựa chọn phương thức thu hẹp quy mô sản xuất. Một số khác lại dần di chuyển chuỗi cung ứng ra khỏi Việt Nam. Những điều này đã phơi bày những điểm yếu trong cấu trúc của nền kinh tế Việt Nam, cho thấy nền kinh tế Việt Nam đặc biệt dễ bị tổn thương trước những biến động của chính sách thương mại toàn cầu.” Tác giả bài viết giải thích: “Việt Nam là nền kinh tế phụ thuộc hơn 70% giá trị xuất khẩu vào các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI). Chưa kể là ngành sản xuất trong nước phải lệ thuộc phần lớn nguồn nguyên liệu nhập khẩu, mà trong đó khoảng 80% đến từ Trung Quốc. Trong khi đó, tỷ lệ hàng thực sự đạt tiêu chí nội địa hóa, tức là do doanh nghiệp Việt Nam làm chủ hoàn toàn công nghệ và dây chuyền sản xuất, chỉ dừng lại ở mức 5 – 10% trong giá trị hàng hóa xuất khẩu. Do vậy, nếu hàng hóa trung chuyển được hiểu là những hàng hóa do doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn làm chủ quá trình sản xuất, thì hầu như hàng Việt Nam xuất đi các nước, không riêng gì Mỹ, chỉ là hàng trung chuyển. Tính không rõ ràng trong cách định nghĩa hàng hóa “transshipment” của Mỹ đang làm tê liệt quá trình ra quyết định của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Hay nói khác đi, trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực nâng cấp chuỗi giá trị và thu hút các dự án FDI chất lượng cao, sự mơ hồ trong chính sách thương mại của Mỹ có thể trở thành một rào cản không hề nhỏ.” Thế nhưng, thuế “trung chuyển” của chính quyền Trump hiện giờ có vẻ không ảnh gì đến đầu tư của Trung Quốc ở Việt Nam, theo ghi nhận của hãng tin Bloomberg. Trong khi Trung Quốc phải đối mặt với mức thuế khoảng 55%, Việt Nam, chịu mức thuế 20%, vẫn được xem là tương đối an toàn. Nhà phân tích Steven Tseng của Bloomberg Intelligence cho biết: "Việt Nam vẫn đang ở vị thế tương đối thuận lợi. Mặc dù mức thuế 20% không phải là mức thấp nhất, nhưng nó không nhất thiết làm giảm khả năng cạnh tranh do Việt Nam có lợi thế về chi phí, cơ sở công nghiệp đã được thiết lập và có vị trí địa lý gần Trung Quốc. Việc các nhà sản xuất Trung Quốc chuyển sang Việt Nam vẫn là điều hợp lý." Hãng tin Bloomberg nhắc lại: Trung Quốc vẫn là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Theo số liệu của chính phủ Việt Nam, đầu tư từ Trung Quốc và Hồng Kông trong nửa đầu năm nay đã tăng 23% so với cùng kỳ năm ngoái, lên 3,6 tỷ đô la. Trong quý II, sau khi tổng thống Trump công bố mức thuế quan đối với thế giới, con số này đã tăng 24% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, các quan chức tại Hà Nội cũng thừa nhận rằng thuế quan có thể ảnh hưởng nặng nề đến xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ, và ngành công nghệ đặc biệt dễ bị tổn thương. Theo một đánh giá nội bộ của chính phủ ngày 11/0 7, lượng hàng xuất khẩu sang Mỹ có thể giảm tới một phần ba và xuất khẩu công nghệ có thể giảm khoảng 15 tỷ đôla.
Ngày 01/08/2025, cùng ngày Mỹ công bố mức thuế đối ứng đối với 69 quốc gia và vùng lãnh thổ, Việt Nam và Liên Hiệp Châu Âu kỷ niệm tròn 5 năm Hiệp định Tự do Thương mại - EVFTA - có hiệu lực. Hoa Kỳ luôn là thị trường lớn nhất cho cả hai bên, nhưng những mức thuế quan do tổng thống Donald Trump áp đặt buộc các đối tác, trong đó có Việt Nam và Liên Hiệp Châu Âu, phải đa dạng hóa thị trường, giảm bớt phụ thuộc xuất khẩu sang Mỹ. Mức thuế đối ứng áp dụng cho Việt Nam, từ 46% xuống còn 20%, đã có hiệu lực từ ngày 07/08. Theo tính toán của nhóm nghiên cứu Ban Tài Khoản Quốc Gia, được ông Lê Trung Hiếu, phó cục trưởng Cục Thống Kê (Bộ Tài Chính) trích dẫn (1), mức thuế 20% này sẽ tác động làm giảm 11-12 tỷ đô la trị giá hàng xuất khẩu vào Mỹ (tương đương khoảng 9-10% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa). Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Điều này được tái khẳng định qua số liệu thống kê hải quan Mỹ trong 5 tháng đầu năm 2025 : Trao đổi thương mại song phương đạt 77,4 tỷ đô la, tăng 36,5% so với cùng kỳ năm 2024. Đối với Liên Hiệp Châu Âu, Việt Nam là đối tác thương mại hàng đầu ở ASEAN và là đối tác đứng thứ 16 trên toàn cầu, với tổng kim ngạch thương mại song phương tích lũy gần 300 tỷ đô la trong 5 năm hiệp định EVFTA có hiệu lực (2). Cùng chịu sức ép về thuế quan của Mỹ, Liên Hiệp Châu Âu và Việt Nam có thể tận dụng Hiệp định Thương mại Tự do - EVFTA như thế nào ? Ông Jean-Jacques Bouflet, phó chủ tịch Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam - EuroCham, trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt ngày 08/08/2025. RFI : Bộ Công Thương Việt Nam đã công bố mức thuế 20% mà Hoa Kỳ áp dụng đối với hàng hóa Việt Nam. Xin ông cho biết phản ứng của EuroCham và các thành viên ? Liệu đây có phải là một bất lợi cho Việt Nam, trong bối cảnh cạnh tranh với các nước láng giềng ASEAN (chịu mức thuế 19%) đang rất căng thẳng ? Jean-Jacques Bouflet : Đúng là có phần nhẹ nhõm vì mức thuế đó xa với mức 46% được công bố ban đầu. Nhưng rõ ràng đây là một bất lợi. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất, đó là mức độ cạnh tranh tương đối với các nước láng giềng trong khu vực. Chênh lệch 20%, 19%, không thực sự đáng kể, và tôi nghĩ Việt Nam có nhiều biên độ cạnh tranh và năng suất cho phép vượt qua bất lợi này. Dù sao thì đó vẫn là một bất lợi, nhưng tôi không nghĩ là sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho xuất khẩu, trong khi mức thuế 46% có lẽ sẽ gây bất lợi lớn cho hoạt động sản xuất. Tôi nghĩ là Việt Nam sẽ có thể đối phó được. Đọc thêmViệt Nam sẵn sàng nhập thêm nông sản Mỹ để đối phó với chính sách thuế quan mới của TT Trump RFI : Tháng 04, khi tổng thống Mỹ thông báo mức thuế đối ứng 46% đối với Việt Nam, EuroCham tiến hành một cuộc thăm dò, theo đó 25% các công ty châu Âu hoạt động tại Việt Nam cảm thấy hoạt động kinh doanh của họ bị đe dọa và 20% dự đoán doanh thu sẽ giảm. Mức thuế hiện tại là 20% sẽ tác động đến các doanh nghiệp này như thế nào ? Jean-Jacques Bouflet : Đúng vậy. Mức thuế 46% sẽ rất khó khăn. 20% thì khả thi. Tuy nhiên, tôi muốn lưu ý là có hai mức thuế khác nhau. Mức thuế 20% được áp dụng cho các sản phẩm có nguồn gốc Việt Nam. Ngoài ra còn có mức thuế 40% nổi tiếng, mà Mỹ gọi là “trung chuyển” (transshipment). Theo thuật ngữ hải quan Hoa Kỳ, “trung chuyển” không chỉ đơn giản là dỡ hàng từ một phương tiện vận chuyển hay từ một hình thức vận chuyển này sang một phương tiện hoặc hình thức vận chuyển khác, mà chủ yếu là sự thay đổi nguồn gốc ở nước cuối cùng. Nói cách khác, nếu quyết định đánh thuế hàng “trung chuyển” được sử dụng để áp đặt một hàm lượng nội địa tối thiểu đáng kể, thì có nghĩa là để ngăn chặn nhập khẩu nguyên liệu từ các nước thứ ba, ý tôi muốn nói ở đây là Trung Quốc chẳng hạn. Đọc thêmBị Mỹ đánh thuế 46% : Việt Nam trả giá vì làm “sân sau” cho Trung Quốc ? Việc này có lẽ sẽ là một vấn đề lớn đối với phần lớn lĩnh vực sản xuất của Việt Nam. Tôi lấy ví dụ về ngành dệt may ở Việt Nam, một phần rất lớn vải vóc là được nhập khẩu từ Trung Quốc. Vì vậy, mức thuế 40% đánh vào hàng “trung chuyển” này sẽ mang tính quyết định cho khả năng tiếp tục phát triển của ngành công nghiệp ở Việt Nam, bởi vì hiện tại, Việt Nam không thể bảo đảm sản xuất được 100% hoặc 80% sản lượng nội địa, có thể là trừ sản xuất nông nghiệp. RFI : Hiệp định Thương mại Tự do EU-Việt Nam có Quy định Xuất xứ. Các doanh nghiệp châu Âu cũng gặp vấn đề tương tự. Tuy nhiên quy định về xuất xứ của Mỹ sẽ tác động như thế nào đến hoạt động của các doanh nghiệp châu Âu ở Việt Nam ? Jean-Jacques Bouflet : Trong khuôn khổ EVFTA, chúng tôi có các tiêu chuẩn quy tắc xuất xứ quy ước, xuất phát từ Tổ Chức Thương Mại Thế Giới - OMC/WTO và đã được đàm phán trong khuôn khổ này. Đúng là việc ngành công nghiệp Việt Nam không hoàn toàn tự chủ, và kết hợp một số lượng nguyên vật liệu đầu vào nhất định từ các nước thứ ba, đặc biệt là từ Trung Quốc, tạo ra một khó khăn, nhưng không phải là không thể vượt qua được. Vấn đề ở chỗ là với định nghĩa mới về “trung chuyển” - chúng ta hãy thử thử hình dung là sắp tới Mỹ yêu cầu 40% giá trị gia tăng (nguyên vật liệu đầu vào của hàng hóa) phải thuộc về nội địa, thì Việt Nam sẽ rất khó xuất khẩu hàng dệt may hoặc giày dép. Điều này hơi khác một chút trong khuôn khổ trao đổi với Liên Hiệp Châu Âu, bởi vì chúng tôi có các quy tắc của OMC. Đó là những quy tắc được đàm phán trong khuôn khổ của hiệp định song phương và đã được ghi nhận, đàm phán, do đó có thể dự đoán được, trong khi ở đây (với Mỹ), không ai biết điều gì sẽ xảy ra. Hơn nữa, chúng ta thấy là chưa bên nào thông tin về chủ đề này. Có tin đồn rằng đàn anh Trung Quốc không mấy hài lòng và đó là một trong những lý do tại sao thỏa thuận vẫn chưa được công bố đầy đủ chi tiết, đặc biệt là về khía cạnh hàng “trung chuyển” - điều sẽ rất quan trọng đối với quá trình chuyển đổi sản xuất tại Việt Nam. Đọc thêmQuan hệ Việt-Trung trong cơn bão thuế quan Mỹ RFI : Trong khi các hành động của Hoa Kỳ đang hướng tới chiến lược thương mại đơn phương hơn, các hiệp định thương mại tự do chiếm ưu thế như thế nào, ví dụ hiệp định EVFTA giữa Liên Hiệp Châu Âu-Việt Nam ? Jean-Jacques Bouflet : Câu trả lời đã nằm trong câu hỏi. Như tôi đã đề cập, các hiệp định thương mại tự do thiết lập một khuôn khổ tin cậy, hợp lý và trên hết là có thể dự đoán được, cho phép đầu tư. Đừng quên rằng để phát triển sản xuất, cần đầu tư trong 2 hoặc 3 năm. Điều này không thể xảy ra trong một sớm một chiều, và ông Trump sẽ phải chấp nhận điều này. Chiến lược được gọi là “đơn phương” của Mỹ, trước tiên là không thể đoán trước được, đó là điều rất tệ cho đầu tư, cho việc xây dựng hoặc di dời chuỗi giá trị. Tôi nghĩ rằng các khuôn khổ ổn định và có thể dự đoán được, chẳng hạn như các hiệp định thương mại tự do, sẽ mang lại sự bền vững và đảm bảo tính lâu dài. RFI : Làm thế nào các công ty và nhà đầu tư châu Âu, hợp tác với các đối tác Việt Nam, có thể khai thác EVFTA sau 5 năm có hiệu lực để bù đắp những khó khăn do thuế quan của Mỹ gây ra ? Jean-Jacques Bouflet : Đầu tiên là phải có các điều kiện cạnh tranh công bằng. Tôi xin nhắc lại rằng Liên Hiệp Châu Âu đã chấp nhận sự bất đối xứng trong việc thực hiện EVFTA, vì Việt Nam là một quốc gia đang phát triển. Việt Nam có 10 năm để đạt được thương mại tự do hoàn toàn. Họ vẫn còn 5 năm nữa. Và có một số hàng hóa vẫn còn thuế quan đáng kể, mặc dù chúng đã bắt đầu giảm đáng kể. Nhưng vẫn còn những loại thuế, ví dụ như đối với ô tô. Tất nhiên, ô tô do Liên Hiệp Châu Âu xuất khẩu sẽ có thuế quan bằng 0 sau 9 hoặc 10 năm. Thử tưởng tượng rằng ô tô của Mỹ sẽ có thuế quan bằng 0 vào tháng 10 hoặc ngày 01/01/2026. Nếu như vậy, các điều kiện cạnh tranh sẽ không hoàn toàn công bằng, cho nên sẽ phải xem Liên Âu phản ứng như thế nào. Tôi xin nhắc lại rằng trong số các quy tắc của OMC, có một quy tắc được gọi là điều khoản tối huệ quốc và Hoa Kỳ đã nhận được những lợi thế về thuế quan ưu đãi và phân biệt đối xử. Nếu chúng không được ghi trong khổ một hiệp định thương mại tự do, thì về lý thuyết, những nước dành ưu đãi thuế quan đơn phương này cho Mỹ cũng phải mở rộng những ưu đãi đó cho tất cả các thành viên của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới. Cho nên, chúng ta cùng chờ xem. Ủy viên châu Âu Sefcovic sẽ đến Việt Nam và chúng tôi sẽ hỏi ông ấy về cách ông ấy dự định khôi phục các điều kiện cạnh tranh công bằng, đặc biệt liên quan đến các đối thủ cạnh tranh có lợi thế về thuế quan ưu đãi nằm ngoài khuôn khổ pháp lý của các hiệp định thương mại tự do của OMC. RFI : Việt Nam thấy không còn lựa chọn nào khác ngoài việc mở rộng các thị trường và tận dụng tốt hơn các hiệp định thương mại tự do. Liên Âu có thể giúp Việt Nam cải thiện năng lực cạnh tranh như thế nào ? Jean-Jacques Bouflet : Dĩ nhiên là bằng việc áp dụng hiệp định thương mại tự do. Như tôi đã nói, hiệp định thương mại tự do là một khuôn khổ ổn định và có thể dự đoán được, có thể tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư. Dĩ nhiên thuế quan đóng một vai trò then chốt, nhưng vấn đề cốt lõi vẫn là năng lực cạnh tranh quốc tế. Và để làm được điều đó, Việt Nam cần cải thiện chất lượng sản xuất, thu hút đầu tư và tiếp thu bí quyết để có thể hy vọng tìm kiếm thị trường mới. Đọc thêmEuroCham : Tinh giản hành chính nhưng cần nhanh, hiệu quả để Việt Nam tăng hấp lực Dĩ nhiên là với tình hình Mỹ hiện nay, có một sự bất ổn và khó lường nhất định, cho nên Việt Nam vừa phải có chiến lược đa dạng hóa, vừa phải tăng cường trao đổi thương mại với các quốc gia có một khuôn khổ trao đổi thương mại ổn định và có thể dự đoán được, tức là những nước có hiệp định thương mại tự do. Về năng lực cạnh tranh, như tôi đã nói, đó là đầu tư. Ở điểm này, Việt Nam vẫn còn một số việc phải làm để điều chỉnh chính sách của mình. Họ đã bắt đầu thực hiện cải cách, hiện giờ chủ yếu là ở cấp độ hành chính. Nhưng họ phải tiếp tục mở cửa cho thương mại quốc tế, cho nước ngoài. Cách tốt nhất để cải thiện năng lực cạnh tranh của mình là tự mình đối mặt với cạnh tranh quốc tế. Và đó là điều Việt Nam cần hiểu. Việt Nam cũng phải tự do hóa chính sách nhập khẩu, chính sách đầu tư để trở thành một nhân tố chủ chốt trong chuỗi giá trị toàn cầu của thương mại thế giới. RFI Tiếng Việt
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Việt Nam đón hơn 10,6 triệu lượt du khách quốc tế, tăng 20,7% so với cùng kỳ năm 2024, tổng thu từ du lịch ước tính đạt 518 nghìn tỉ đồng (1). Việt Nam tích cực xây dựng hình ảnh với thế giới vì du lịch quốc tế là nguồn đóng góp trực tiếp quan trọng cho GDP, được kỳ vọng 6-8% năm 2025 với 980-1.050 tỉ đồng doanh thu. Bộ Văn Hóa Thể Thao và Du Lịch tổ chức nhiều hoạt động quảng bá du lịch Việt Nam tại nhiều hội chợ du lịch quốc tế và các nước châu Âu như Ý, Thụy Sĩ, Ba Lan, Séc, Đức, đặc biệt là tại Pháp thông qua các sự kiện điện ảnh lớn như Liên hoan phim Cannes 2025 và các hoạt động bên lề, quảng bá, xúc tiến du lịch tại Hội nghị thượng đỉnh Diễn đàn Đối tác vì tăng trưởng xanh và mục tiêu toàn cầu 2030 (P4G) lần thứ 4, giới thiệu Nhã nhạc cung đình Huế tại Quảng trường Trocadéro (Esplanade de Trocadéro), Paris tối 11/05… Tuy nhiên, chính những chuyến công du Việt Nam của các nhà lãnh đạo các nước lớn trên thế giới chính là một cách quảng cáo hữu hiệu cho du lịch Việt Nam. Ví dụ hình ảnh chuyến công du Hà Nội ngày 25-27/05/2025 của tổng thống Emmanuel Macron được truyền thông Pháp liên tục đưa tin. Đất nước thanh bình, an toàn Hình ảnh ông Macron cũng phu nhân thong dong đi dạo Hồ Gươm ngay trong đêm khi vừa mới đến Hà Nội được bình luận nhiều. Và đây cũng là cách “quảng bá hình ảnh của Việt Nam ra thế giới”, theo cảm nhận của bà Nguyễn Thị Lan chia sẻ với RFI Tiếng Việt khi đang cùng bạn chụp ảnh ở Hồ Gươm : “Tôi thấy những cuộc đi dạo phố Hà Nội của tổng thống Pháp rất ý nghĩa. Người ta là tổng thống nhưng hòa đồng với người dân Việt Nam, điều đó chứng tỏ người dân rất thân thiện. Cho nên, qua đó cũng quảng bá được hình ảnh người Việt Nam thân thiện, các di tích, danh lam thắng cảnh của Việt Nam sẽ được thế giới biết đến”. Anh Tiến, ngồi cùng nhóm bạn trong một quán cà phê đối diện Nhà Thờ Lớn, nơi tổng thống Pháp và phu nhân đến thăm hôm trước, chia sẻ : “Nhìn chung, mọi người đều có tâm trạng phấn khởi. Đối với một người dân Việt Nam như tôi, tôi cũng cảm thấy là có một chút gì đấy rất là hãnh diện, rất tự hào. Mình tự hào vì đất nước mình là một đất nước nhỏ, mình phát triển sau người ta cả một quãng rất là dài, còn người ta ở một nước phát triển hơn mà người ta sang và cảm nhận được cuộc sống của người Việt Nam, thì chắc người ta cũng rất ngưỡng mộ đấy. Chứ nếu mình mà là nước lớn thì chuyện lại khác. Đúng không?” “Việt Nam” cũng trở thành từ khóa được tìm kiếm nhiều sau khi xảy ra “sự cố” lúc mở cửa máy bay và bị đồn thổi là “tổng thống bị vợ tát”. Một yếu tố khác là tổng thống Macron phát biểu với báo chí, truyền thông chiều 26/05 ngay ngoài đường, đằng sau là một dãy xe máy. Tiếp theo là hình ảnh tổng thống và phu nhân được người dân Hà Nội đến chào và tặng quà khi rời khỏi nhà hàng Madame Hiền ở phố Hàng Bè. Anh Tiến cho rằng “phải cảm thấy thoái mái, cảm thấy đất nước thanh bình mà họ yên tâm” hòa vào đám đông. “Những hình ảnh đó mà được quảng bá lên thì khách du lịch nhìn vào đấy, người ta sẽ sang Việt Nam nhiều hơn. Mức độ tin tưởng hoặc là những phong cảnh của Việt Nam đẹp, cuộc sống rất là thanh bình, cho nên sẽ thu hút. Bởi vì bản thân tổng thống các nước đi sang Việt Nam, có cần phải có vệ sĩ đi đâu, không cần mà, người ta đi lại bình thường cũng như những người dân bình thường thôi mà. Người dân Việt Nam cũng rất là mến khách, điều đó ai cũng biết. Còn phong cảnh thì được ưu ái rất nhiều”. Nhiều công trình văn hóa, di tích lịch sử tại Hà Nội được đưa vào lịch trình tham quan và làm việc của tổng thống Pháp, như Phủ chủ tịch, lăng chủ tịch Hồ Chí Minh, Văn Miếu Quốc Tử Giám, Bảo tàng Mỹ thuật, Nhà thờ lớn, khu phố cổ, Hồ Gươm… Những công trình này mang phong cách kiến trúc đa dạng, từ truyền thống đến Đông Dương và hiện đại. Định vị thương hiệu du lịch qua ẩm thực Song song với việc đề cao di sản kiến trúc, danh lam thắng cảnh, Việt Nam cũng muốn “định vị thương hiệu du lịch qua ẩm thực”, theo báo Nhân Dân và “lan tỏa tinh hoa ẩm thực Việt Nam ra thế giới thông qua ngoại giao”. Tạp chí Thông tin & Truyền Thông viết : “Hình ảnh các nguyên thủ, lãnh đạo cấp cao các nước hay doanh nhân nước ngoài đi dạo, thưởng thức các món ăn đường phố tại Việt Nam dường như đã không còn quá xa lạ và dần trở thành một “đặc sản” để Việt Nam thông qua đó quảng bá ẩm thực, văn hóa, con người nước Nam với bạn bè quốc tế”. Tổng thống Barack Obama đi ăn bún chả, nhà sáng lập kiêm chủ tịch và giám đốc điều hành (CEO) Nvidia Hoàng Nhân Huân (Jensen Huang) đi uống bia ở phố Tạ Hiện, thủ tướng Úc Anthony Albanese uống bia, ăn bánh mì, CEO Apple Tim Cook uống cà phê trứng… Tổng thống Pháp Emmanuel Macron ăn nem rán, bún riêu tại nhà hàng Madame Hiền, nổi tiếng món dân dã Việt Nam nhưng do bếp trưởng người Pháp Didier Corlou điều hành. Chị Nguyễn Hoàng Yến, quản lý Nhà hàng Madame Hiền, giải thích với RFI Tiếng Việt là khi được biết là tổng thống Pháp sẽ đến ăn trưa làm việc với giới hoạt động văn hóa, nghệ thuật, bếp trưởng Didier Corlou “đã đưa ra một số thực đơn để họ thử và chọn, sau đó để điều chỉnh theo đúng gu”. “Nhà hàng Madame Hiền nổi tiếng về ẩm thực Việt Nam nhưng lại do bếp trưởng là người Pháp cho nên dùng toàn bộ sản phẩm thuần Việt và dùng các gia vị, rau thơm của Việt Nam. Thực đơn gửi đến đoàn của tổng thống Pháp gồm có nem rán, nem cuốn, có món bún riêu. Dù là những món ăn truyền thống nhưng hơi có phong cách của bếp trưởng. Điểm mạnh của ẩm thực Việt Nam nói chung và của Hà Nội nói riêng, theo tôi, đó là nhờ gia vị và “mùa nào thức đấy”, đặc biệt là rau thơm, rau củ quả đều tươi. Đấy cũng là điểm khiến bếp trưởng của nhà hàng Madame Hiền gắn bó với Việt Nam và quyết định mở nhà hàng về món ăn Việt Nam”. Kết hợp di sản kiến trúc với ẩm thực Ngoài ra, địa điểm cũng là thế mạnh của nhà hàng. Được xây từ năm 1928 theo thiết kế của kiến trúc người Pháp Lagisquet, căn biệt thự cổ vẫn giữ nguyên vẹn vẻ đẹp cổ kính theo kiến trúc Đông Dương. Theo chia sẻ của chị Hoàng Yến, đây là một trong năm biệt thự Pháp cổ được một thương gia người Pháp cải tạo, khai thác kinh doanh nhà hàng từ lâu. Những nét kiến trúc đặc trưng được bảo tồn cẩn thận để quảng bá tới du khách quốc tế khi đến Việt Nam. “Nhà hàng chọn khu biệt thự Pháp cổ, thường có quang cảnh và không gian mở để cho thực khách thưởng thức và có bầu không khí ấm cúng. Về không gian, nội thất, nhà hàng thử sử dụng như trong một gia đình Việt Nam, ấm cúng, không phải vào một nhà hàng sang trọng mà là vào một nhà hàng của gia đình Việt Nam. Món ăn bình dân nhưng vì bếp trưởng của nhà hàng từng làm trong khách sạn Métropole gần 20 năm, nên anh ấy sử dụng gia vị và rau thơm Việt Nam, nhưng thêm chút hương vị Pháp vào đó”. Thành phố Hà Nội đã lập danh sách những tòa biệt thự Pháp cổ còn lại ở Hà Nội, trong đó có rất nhiều công trình quan trọng sẽ được trùng tu để tạo thêm giá trị về kiến trúc, di sản, văn hóa. Theo Cơ quan hỗ trợ hợp tác quốc tế vùng Paris tại Việt Nam - PRX-Vietnam, hiện nhà tư vấn về bảo tồn di sản cho thành phố Hà Nội, nhiều biệt thự cổ sẽ được trùng tu để tạo thêm công năng mới như khách sạn, nhà hàng, quán cà phê, không gian triển lãm… Thực tế cần đúng với hình ảnh được quảng bá Tuy nhiên, đôi khi hình ảnh một Việt Nam thơ mộng bị phá vỡ bởi những thực tế kém hào nhoáng hơn. Trong bài “Điểm đến Việt Nam : những bất ngờ trong chuyến du lịch lớn đầu tiên đến châu Á” được đăng trên nhật báo Pháp Le Figaro ngày 14/07/2025, hai du khách trẻ người Pháp chia sẻ trải nghiệm, ngỡ ngàng cũng có và thất vọng cũng có : nắng nóng khắc nghiệt, ô nhiễm đô thị, và thậm chí là tình trạng quá tải ở một số địa điểm mang tính biểu tượng như Vịnh Hạ Long. Giao thông ở Hà Nội, đặc biệt là phố đường tàu, được coi là điểm đặc biệt nhưng nhanh chóng trở nên ngột ngạt, ồn ào, vì còi xe liên tục cùng với ô nhiễm không khí, khiến Agathe thấy hài lòng vì được đến với thiên nhiên Ninh Bình sau ba ngày ở Hà Nội. Tháng 07/2025, Việt Nam được tạp chí Time Out chọn là điểm du lịch kinh tế nhất và phong phú nhất ở Đông Nam Á. Ngoài giá vé máy bay thiếu cạnh tranh so với một số nước trong khu vực như Thái Lan, Singapore, chi phí ở Việt Nam không quá đắt, khuyến khích giới trẻ “xách ba lô lên và đi”. Ngoài ra, còn phải kể đến chính sách miễn thị thực. Việt Nam ký các hiệp định miễn thị thực song phương với nhiều quốc gia và đơn phương miễn thị thực cho công dân 13 nước (2), chủ yếu là các nước châu Âu, thời hạn tạm trú được nâng lên thành 45 ngày. Biện pháp có hiệu lực đến hết ngày 14/03/2028 và sẽ được xem xét gia hạn theo quy định của pháp luật Việt Nam. Trong 6 tháng đầu năm 2025, Bộ Văn Hóa, Thể Thao và Du Lịch đã xây dựng và triển khai Chương trình kích cầu phát triển du lịch năm 2025. Tuy nhiên, theo Báo Tuyên Quang ngày 28/07 (3), các nhà quản lý du lịch đều ý thức được rằng “để duy trì đà tăng trưởng và nâng cao chất lượng du lịch, Việt Nam cần tiếp tục đầu tư vào cơ sở hạ tầng, phát triển sản phẩm du lịch độc đáo, bền vững và đặc biệt là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực”. (1) Theo báo cáo ngày 24/07/2025 của bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch. (2) Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy, Phần Lan, Anh và Bắc Ireland, Nga, Belarus, Nhật Bản, Hàn Quốc. (3) Báo Tuyên Quang, "Hơn 10 triệu lượt khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2025".
Vào lúc đang tìm cách ứng phó với cuộc chiến thuế quan của Hoa Kỳ, Việt Nam thắt chặt quan hệ quân sự với Trung Quốc. Theo tin báo chí Việt Nam, ngày 22/07/2025, lực lượng lục quân của Việt Nam và Trung Quốc đã khai mạc đợt Huấn luyện “Chung tay đồng hành - 2025” tại Quảng Tây, một tỉnh nằm ở vùng biên giới Việt-Trung. Đây là lần đầu tiên lục quân Việt Nam và Trung Quốc tổ chức thao dượt chung, theo dự kiến sẽ kéo dài đến 30/07. Theo thông báo của bộ Quốc Phòng Trung Quốc, đợt huấn luyện này “nhằm tăng cường học hỏi lẫn nhau và trao đổi kinh nghiệm công tác biên giới, đồng thời làm sâu sắc hơn nữa hợp tác thực tiễn giữa quân đội hai nước”. Theo nhận định của nhật báo Hồng Kông South China Morning Post ngày 20/07, đây là dấu hiệu cho thấy quan hệ quân sự giữa hai nước láng giềng đang ngày càng chặt chẽ trong những tháng gần đây bất chấp các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ. South China Morning Post nhắc lại, về mặt kinh tế, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam và là nhà cung cấp quan trọng cho ngành sản xuất của Việt Nam. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đến thăm Việt Nam vào tháng 4, vài ngày sau khi tổng thống Mỹ Donald Trump phát động cuộc chiến thuế quan với toàn cầu. Tại Hà Nội, ông Tập Cận Bình đã kêu gọi các nước láng giềng châu Á hợp tác để "chống lại hành vi bắt nạt đơn phương". Hợp tác quốc phòng đã trở nên chặt chẽ hơn giữa hai nước trong năm nay, đánh dấu kỷ niệm 75 năm quan hệ ngoại giao, được thể hiện qua việc lần đầu tiên quân đội Trung Quốc được mời tham gia diễu binh tại Sài Gòn kỷ niệm 50 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam. Cũng trong tháng 4, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Đổng Tuấn đã đến thăm miền Bắc Việt Nam và gặp người đồng cấp Việt Nam Phan Văn Giang, với cam kết tăng cường hợp tác quốc phòng của cả hai bên. Tháng 7 năm ngoái, Lực lượng Cảnh sát Vũ trang Trung Quốc và Lực lượng Cảnh sát Cơ động Việt Nam đã tiến hành các cuộc thao dượt chống khủng bố chung tại Quảng Tây. Mỹ, đối thủ thương mại chung Hợp tác song phương về quốc phòng và an ninh đã được đẩy mạnh cho dù hai bên cũng đang tăng cường nỗ lực khẳng định các yêu sách lãnh thổ chồng lấn của mình ở Biển Đông, nơi Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền gần như toàn bộ. Kể từ năm 2021, Việt Nam đã âm thầm nhưng đều đặn đẩy mạnh các hoạt động xây dựng đảo tại quần đảo Trường Sa. Nhưng Bắc Kinh nói chung vẫn kiềm chế, không chỉ trích công khai Hà Nội. Lý do có lẽ là vì cả hai nước đều đang tập trung đối phó với đối thủ chung về mặt thương mại, đó là Hoa Kỳ. Về phía Bắc Kinh, trong tuần này sẽ diễn ra vòng đàm phán thương mại song phương mới giữa Trung Quốc với Mỹ tại Thụy Điển vào lúc hai nước đang “hưu chiến” thuế quan đến giữa tháng 8. Còn về phía Việt Nam, mặc dù vào đầu tháng 7 vừa qua, tổng thống Mỹ Donald Trump thông báo đã đạt được thỏa thuận về thuế quan với Hoa Kỳ, nhưng trên thực tế hai nước vẫn đang đàm phán để hoàn tất các điều khoản chính . Cho tới nay, cả Washington lẫn Hà Nội đều không công bố bất cứ tài liệu chính thức hoặc điều khoản chi tiết nào. Tại cuộc họp báo Ở Hà Nội ngày 17/07, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam Phạm Thu Hằng cho biết hai bên vẫn đang "tiếp tục thảo luận để làm rõ và cụ thể hóa các nội dung liên quan", sau cuộc điện đàm giữa tổng thống Trump và tổng bí thư Tô Lâm. Ông Trump thậm chí đã thông báo luôn cả mức thuế 20% đối với hàng Việt Nam nhập vào Hoa Kỳ. Riêng các mặt hàng, chủ yếu từ Trung Quốc, bị xem là trung chuyển qua Việt Nam để “né” thuế của Hoa Kỳ, sẽ bị áp thuế đến 40%. Tuy nhiên, theo hãng tin Bloomberg, các nguồn tin thân cận cho biết các nhà lãnh đạo Việt Nam đã bị bất ngờ trước thông báo nói trên và đang tích cực đàm phán với phía Mỹ để giảm thuế suất. Khi đơn phương thông báo mức thuế 20% trong khi Việt Nam chưa xác nhận, phải chăng Hoa Kỳ đang “xử ép” Việt Nam? Trả lời RFI Việt ngữ ngày 24/07/2025, nhà nghiên cứu Vũ Xuân Khang, hiện là học giả thỉnh giảng (visiting scholar) về quan hệ quốc tế tại đại học Boston College, Hoa Kỳ, nhận định: "Việt Nam có lý do chính đáng khi không xác nhận mức thuế 20% tổng thống Trump thông báo, vì Việt Nam mong muốn mức thuế quan của mình không được nhiều hơn 10% so với các đối thủ cạnh tranh trong khu vực. Việt Nam cũng là nước thứ hai sau Vương Quốc Anh mà ông Trump công bố đạt được thỏa thuận thương mại với Mỹ. Hiện nay, cả Philippines, Indonesia, và Nhật Bản đều đã đàm phán xong với Mỹ và nhận được mức thuế quan ít hơn Việt Nam. Trong những ngày tới có thể Mỹ sẽ đạt thêm được thỏa thuận với những đối thủ cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam như Thái Lan, Malaysia, hay Ấn Độ. Việt Nam đang cố gắng kềm mức thuế quan ở mức 10 đến 15%, để duy trì tính cạnh tranh với các đối thủ khác. Rõ ràng việc Việt Nam chưa xác nhận mức thuế quan cho thấy hai nước vẫn còn nhiều bất đồng phải giải quyết, nhất là điều khoản về mức thuế 40% đối với hàng hóa trung chuyển qua lãnh thổ Việt Nam. Điều khoản không rõ ràng này có thể gây tổn hại cho kinh tế Việt Nam, nếu Mỹ mặc định bất kỳ nguyên liệu sản xuất nào mà Việt Nam nhập từ Trung Quốc cũng cấu thành hàng 'Made in China'. Việc ông Trump ra thông báo sớm trước khi Việt Nam xác nhận cho thấy Hoa Kỳ có thể muốn đánh đòn phủ đầu để ép Việt Nam phải chấp nhận mức 20%, cao hơn mức Việt Nam mong muốn." Việt Nam, "sân sau" của Trung Quốc ? Thật ra khi áp thuế cao đối với Việt Nam, Mỹ muốn nhắm tới đối thủ lớn hơn là Trung Quốc, vì chính quyền Trump vẫn xem Việt Nam là “sân sau” của hàng Trung Quốc. Nhưng thực tế có hoàn toàn đúng như vậy không? Nhà nghiên cứu Vũ Xuân Khang ghi nhận: "Nếu tính về mặt kinh tế sản xuất đơn thuần, các nghiên cứu từ Hoa Kỳ và Úc đã chứng minh điều này là không đúng. Ở Mỹ, các nhà kinh tế trong chính quyền Trump thường hay sử dụng hai biểu đồ Việt Nam nhập hàng từ Trung Quốc và Việt Nam xuất qua Mỹ, để chứng minh Việt Nam là sân sau của Trung Quốc, khi hai biểu đồ này tăng giảm song song. Tuy nhiên, sự so sánh này là thiếu logic, vì biểu đồ không tính đến vai trò đang lên của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Đúng là Việt Nam nhập thêm hàng từ Trung Quốc, nhưng Việt Nam nhập hàng để đáp ứng nhu cầu tăng mạnh trong nước, cũng như xuất đi các thị trường khác ngoài Mỹ. Không thể phủ nhận một số hàng hóa Việt Nam nhập từ Trung Quốc có thể bị gắn mác Việt Nam để xuất qua Mỹ, tuy nhiên, theo nghiên cứu của viện Lowy ở Úc thì số lượng này chỉ chiếm khoảng 1/4 hàng hóa Việt Nam nhập từ Trung Quốc, còn lại 3/4 thì hoàn toàn không phải là như vậy. Điều này cũng không phải quá bất ngờ khi nhiều nhà máy từ Trung Quốc đã dịch chuyển qua Việt Nam để sản xuất kể từ nhiệm kỳ thứ 1 của tổng thống Trump, khi thương mại Mỹ-Trung có hục hặc." Trước những đòn thuế quan của Mỹ, Việt Nam phải xử lý như thế nào để làm vừa lòng Trump nhưng cũng không làm mất lòng Trung Quốc? Nhà nghiên cứu Vũ Xuân Khang nêu ý kiến: "Việt Nam vẫn sẽ dựa vào chính sách ngoại giao và ngoại thương đa phương hóa, đa dạng hóa để tránh làm mất lòng cả Mỹ và Trung Quốc. Một mặt, Việt Nam sẽ cố gắng đáp ứng các điều kiện của Mỹ để làm giảm thuế quan, đặc biệt là chống hàng giả, hàng vi phạm bản quyền trên thị trường. Mặt khác, Việt Nam sẽ nỗ lực đa dạng hóa thị trường xuất khẩu để tránh phụ thuộc quá nhiều vào Mỹ. Hiện nay Việt Nam xuất khẩu qua Mỹ khoảng 140 tỷ đô, tương đương 30% GDP của Việt Nam. Đối với Trung Quốc, Việt Nam sẽ tiếp tục tăng cường quan hệ thương mại song phương, cũng như tăng cường hợp tác chính trị và quân sự để Trung Quốc thấy là Việt Nam không có ý định chống Trung Quốc và ngả về Mỹ do áp lực thuế quan." Không thể dựa vào Mỹ Vì Việt Nam phụ thuộc nhiều về Hoa Kỳ về thương mại, chính quyền Trump có vẻ muốn dùng chiến tranh thuế quan để buộc Việt Nam phải “chọn phe”. Chính sách này liệu có thể lôi kéo Việt Nam đứng hẳn về phe Mỹ để chống Trung Quốc ? Hay là ngược lại sẽ đẩy Việt Nam xích gần hơn với Trung Quốc? Nhà nghiên cứu Vũ Xuân Khang nhận định: "Chính sách này sẽ không thể lôi kéo Việt Nam đứng về phe Mỹ chống Trung Quốc, do Việt Nam luôn ưu tiên an ninh hơn là kinh tế. Thứ nhất, Trung Quốc là nước có ảnh hưởng căn bản đến an ninh của Việt Nam, do Trung Quốc có thể tấn công và chiếm đóng lãnh thổ Việt Nam cả trên bộ lẫn trên biển. Bài học Ukraina cho Việt Nam thấy rõ là không nên tin tưởng vào hỗ trợ quân sự hay kinh tế của Mỹ để chống lại láng giềng mạnh hơn, nhất là khi chiến tranh Nga-Ukraina đã kéo dài hơn 3 năm và Ukrain mất 1/5 lãnh thổ ở phía đông vào tay Nga, còn Mỹ thì cũng không có khả năng giúp Ukraina lấy lại lãnh thổ đã mất. Mỹ mặc dù là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, với 140 tỷ đô mỗi năm, nhưng 140 tỷ đô không đáng kể gì nếu đặt chủ quyền lãnh thổ và ổn định an ninh lên bàn cân. Việt Nam đã nhiều lần khẳng định cần phải duy trì môi trường an ninh hòa bình để phát triển kinh tế lâu dài. Thứ hai, Mỹ không phải là cường quốc trên bộ, nên kể cả khi Mỹ có muốn toàn tâm giúp Việt Nam cũng sẽ không đủ khả năng đáp trả lại các đòn tấn công của Trung Quốc đối với Việt Nam. Cần phải nhớ Mỹ đã không thể đánh bại Trung Quốc trong chiến tranh Triều Tiên, hay chiến tranh ở Đông Dương, mặc dù Mỹ được trang bị khí tài hiện tại hơn. Đấy là chuyện của 50 năm trước, còn bây giờ thì khả năng Mỹ đánh bại được Trung Quốc trên bộ còn ít hơn rất nhiều, do Trung Quốc đã hiện đại hóa quân sự từ năm 1979 đến nay. Còn về hải quân thì chính Mỹ cũng không còn khả năng chạy đua vũ trang trên biển với Trung Quốc, do năng lực đóng tàu của Trung Quốc đã gấp 200 lần Mỹ. Và tôi xin nhắc lại là 200 lần, chứ không phải nói nhầm. Việt Nam sẽ mong muốn giữ vị trí trung lập như hiện nay để tránh mất lòng cả Mỹ và Trung Quốc, nhất là tránh một cuộc chiến tranh giữa Việt Nam với Trung Quốc, nhưng nếu Mỹ ép Việt Nam đến mức quá đáng, còn Trung Quốc cam kết mua nhiều hơn hàng hóa của Việt Nam, thì khả năng Mỹ mất nốt con bài thương mại với Việt Nam là rất cao. Mỹ nên ngừng hy vọng có thể dùng lá bài thương mại 140 tỷ đô một năm, cũng như một vài tàu tuần tra hay máy bay F-16, để thuyết phục Việt Nam chống Trung Quốc, bởi vì Trung Quốc, với tiềm lực quân sự và kinh tế của một siêu cường, hoàn toàn có t
Hà Nội đặt lộ trình cấm xe máy xăng theo chỉ thị ngày 12/07/2025 của thủ tướng: Vành đai 1 từ ngày 01/07/2026, vành đai 2 từ năm 2028, vành đai 3 từ năm 2030. Hà Nội có khoảng 6,9 triệu xe máy, riêng vành đai 1 đã có 450.000. Xe máy xăng dầu chiếm 60% nguồn gây ô nhiễm không khí tại Hà Nội. Tình trạng này ngày càng thêm nghiêm trọng buộc thành phố phải triển khai triệt để kế hoạch có từ năm 2017, song song với việc phát triển hệ thống giao thông công cộng xanh. Bị coi là « cạnh tranh không công bằng », xe máy là phương tiện quá tiện lợi, nhưng lại là nguồn gây ô nhiễm môi trường vì chủ yếu dùng xăng. Để bù đắp phần nào sự thiếu hụt này, thành phố Hà Nội chủ trương phát triển hệ thống giao thông công cộng hiện nay để tiện lợi hơn, hiện đại hơn, hấp dẫn hơn nhằm thu hút người sử dụng. Đây là mục đích của dự án Moov’Hanoi và ứng dụng MaaS, được hai chuyên gia Pháp giải thích với RFI Tiếng Việt ngày 27/05/2025 : Kiến trúc sư Emmanuel Cerise, trưởng đại diện Vùng Paris tại Hà Nội, giám đốc Cơ quan hỗ trợ Hợp tác quốc tế Vùng Paris tại Việt Nam - PRX-Vietnam và nhà quy hoạch đô thị Basile Hassan, trưởng dự án Moov’Hanoi. PRX-Vietnam là đối tác tư vấn, hỗ trợ cho thành phố Hà Nội trùng tu nhiều công trình kiến trúc cổ, giao thông công cộng… trong khuôn khổ hợp tác phi tập trung giữa vùng Île-de-France (Pháp) và thành phố Hà Nội. RFI : Ngày 03/04/2025, trong khuôn khổ dự án Moov’Hanoi do UBND TP Hà Nội, Hội đồng Vùng Île-de-France (Cộng hòa Pháp) và Cơ quan Phát triển Pháp tài trợ, Cơ quan hợp tác quốc tế Vùng Paris tại Việt Nam (PRX-Vietnam) tổ chức hội thảo chuyên đề “Chiến lược hệ thống vé giao thông công cộng và MaaS”. Dự án có mục đích như thế nào ? Thành phố phản ứng thế nào với ý tưởng này ? KTS Emmanuel Cerise : Tôi sẽ để Basile Hassan nói chi tiết về dự án. Nhưng trước tiên phải nhắc đến bối cảnh của hội thảo, thực ra là một buổi làm việc, tập trung các bên liên quan về những chủ đề này. Phía chúng tôi đóng vai trò cung cấp tư vấn chuyên môn cho các đối tác của mình. Vì vậy, sau đó sẽ không có dự án thí điểm nào được tiến hành. Ý tưởng của buổi làm việc là tập hợp các cá nhân liên quan để trao đổi, thảo luận, cho thấy cách làm của chúng tôi và cách chúng tôi có thể giúp các đối tác Việt Nam giải quyết những vấn đề này. Basile Hassan : Đúng vậy. Trong khuôn khổ hỗ trợ kỹ thuật cho Sở Giao thông Vận tải, chúng tôi thấy có mong muốn tiến hành số hóa vé giao thông công cộng (GTCC). Hiện giờ, ngoài tài xế, trên xe buýt vẫn có một nhân viên kiểm tra và bán vé. Chính quyền Việt Nam hiểu rằng việc này khá cổ và cần được cải thiện. Cho nên cơ quan phụ trách xe buýt đang có một dự án triển khai máy soát vé tự động. Có khoảng 20 tuyến xe buýt đang thử nghiệm. Chúng tôi hiểu rằng phía đối tác Việt Nam muốn giải quyết vấn đề này và tiếp nhận kinh nghiệm của người dân vùng Île-de-France. Vì vậy, chúng tôi đã tổ chức hội thảo về vé và ứng dụng MaaS. Vé cho phép tiếp cận phương tiện giao thông, thông qua vé cứng hoặc vé điện tử. Còn MaaS (Mobility as a Service - Giao thông như một dịch vụ) là một cách tiếp cận tích hợp về tính di động. Trên ứng dụng này, người ta có thể tổ chức hành trình di chuyển, lập kế hoạch chính xác cách di chuyển và thanh toán. Có nghĩa là trên một thiết bị, ví dụ điện thoại thông minh, người ta có thể lập lộ trình, trả tiền vé, làm mọi thứ họ cần hoặc để có được thông tin về mạng lưới giao thông công cộng, hiện trạng đông hay vắng hoặc có sự cố gì không… Có thể thấy vé và MaaS là hai loại hình bổ sung cho nhau, thậm chí tôi muốn nói vé ngày càng được tích hợp với MaaS. Vé được soát ở các máy soát vé tự động. Nhưng MaaS lại là tương lai sau này bởi vì khi có vé điện tử, vé sẽ được lưu trên điện thoại, cùng với mọi dữ liệu, thông tin giao thông khác. Tôi cho rằng buổi làm việc được các đồng nghiệp và đối tác Việt Nam đón nhận khá tốt. Chúng tôi có những trao đổi khá phong phú, chia sẻ kinh nghiệm. Tôi hy vọng việc này có thể giúp chính quyền Hà Nội trong kế hoạch hiện đại hóa vé giao thông công cộng. Ngoài ra còn có ý tưởng tạo điều kiện cho việc kết nối giữa các tuyến xe buýt và giữa xe buýt với tàu điện. Hiện nay xe buýt có một hệ thống vé riêng, tàu điện có một hệ thống vé riêng. Mục tiêu là đơn giản hóa vấn đề, để có một hệ thống chung cho phép hành khách chuyển từ xe buýt sang tàu điện và ngược lại, mà không cần phải đổi vé. Đây là việc rất quan trọng! Emmanuel Cerise : Thực ra đang có một số thử nghiệm được tiến hành ở Hà Nội. Đó cũng là lý do tại sao thành phố Hà Nội yêu cầu chúng tôi tổ chức hội thảo này. Bởi vì đây là những vấn đề mà họ vô cùng quan tâm. Tôi muốn nói là các nhà quản lý xe buýt và tàu điện là những người không có nhiều nguồn lực tài chính, ví dụ để thực hiện dự án…, nhưng họ hoàn toàn nhận thức được rằng điều đó là cần thiết và quan tâm đến MaaS, đến vấn đề liên thông giữa các loại hình vận tải… Ví dụ, gần đây Công ty MTV Đường sắt Hà Nội đã thiết lập quan hệ đối tác với Grab, cũng như nhiều hãng taxi trực tuyến khác để được giảm giá khi đặt taxi từ một nhà ga tàu điện. Tại sao ? Bởi vì mọi người đều biết rất rõ rằng cần có sự thay đổi phương tiện đi lại khi muốn đi từ nơi này đến nơi khác. Ngoài ra còn có một thử nghiệm về tuyến đường dành riêng cho xe đạp để kết nối hai tuyến tàu điện bằng cách đi dọc sông Tô Lịch. Có thể thấy là có nhu cầu. Một số thử nghiệm nhỏ đang được triển khai. Vì vậy, hội thảo của chúng tôi thực sự nằm trong phạm vi quan tâm về chủ đề này, nhưng vẫn còn một chặng đường rất dài để bảo đảm là sẽ hoạt động bình thường. Và thực ra chuyện này là bình thường. Đọc thêmThành công của tuyến đường sắt đô thị 3 Hà Nội mở đường cho những dự án khác với Pháp ? RFI : Song song với việc đơn giản hóa và tạo tiện lợi cho vé, phương tiện giao thông, đặc biệt là xe buýt, cũng đang được hiện đại hóa ! Basile Hassan : Chúng ta thấy xe buýt Vin phát triển từ nhiều năm qua, thậm chí là nhiều xe buýt mới của Vin đang lưu thông. Các vấn đề mà chúng ta đang đề cập, như cải thiện mạng lưới giao thông..., đều nhằm mục đích giảm phát thải khí nhà kính. Phát triển giao thông công cộng giúp hạn chế tình trạng ô nhiễm ở một thủ đô đang bị ô nhiễm nghiêm trọng, do đó, điện khí hóa là điều cần thiết và việc này giúp hạn chế khí thải từ xe cộ trong thành phố. Đây là việc rất quan trọng ! Chính quyền đã bày tỏ mong muốn chuyển đổi đội xe sang xe điện. Cũng có những câu hỏi về xe buýt chạy bằng hydro, nhưng chủ yếu vẫn là xe điện. Tuy nhiên, lại phát sinh câu hỏi lấy điện từ đâu ? Nên mua loại xe nào ? Tổ chức mạng lưới như thế nào dựa trên kho bãi cho phép sạc xe buýt ? Vì cơ sở hạ tầng cho xe điện sẽ không giống với xe chạy xăng dầu. Chính vì vậy, chúng tôi tổ chức một hội thảo vào tháng 06/2025 về những vấn đề này. Có hai chuyên gia từ cơ quan Île-de-France Mobilité đến tham dự, trong đó có người đứng đầu bộ phận chuyển đổi năng lượng và hiệu suất năng lượng, cũng đang giải quyết đúng vấn đề đó ở vùng Île-de-France, tức là chuyển đổi đội xe buýt sang năng lượng sạch hơn, như điện, hydro. Đọc thêm Ô nhiễm không khí ở Hà Nội: Giải pháp không phải đơn giản Emmanuel Cerise : Thực ra sắp tới sẽ còn có một hoạt động quan trọng khác của dự án Moov’Hanoi. Chúng tôi cũng đang giúp UBND thành phố Hà Nội xem xét lại mạng lưới xe buýt. Chúng tôi đã gọi thầu và nhận được đề nghị từ một số nhà tư vấn nhưng chưa chọn. Ý tưởng là hỗ trợ Hà Nội để mạng lưới xe buýt hiệu quả hơn, mỗi tuyến phải chặt chẽ hơn. Phải nhắc lại là hệ thống xe buýt hiện tại không phải là được thiết kế kém, nhưng vấn đề là bổ sung nhiều tuyến mới. Ví dụ, năm 2008, vùng Hà Nội được điều chỉnh cho nên diện tích cũng thay đổi. Một số tuyến được tích hợp vào mạng lưới hiện có. Ngoài ra sự phát triển đô thị cũng rất mạnh mẽ với những khu đô thị mới, đặc biệt là ở vùng ven đô.Có thể thấy là thành phố thay đổi rất nhiều. Mạng lưới xe buýt hiện tại phần nào là kết quả của quá trình tích lũy nhưng lại không được suy tính liên kết với thành phố ngày nay. Mạng lưới phù hợp vào năm 2000, nhưng Hà Nội của năm 2000 và 2025 khác nhau hoàn toàn, cho nên cần tái cấu trúc mạng lưới này. Thêm vào đó còn có hai tuyến tàu điện, được coi là hành lang đi lại quan trọng, trong khi trước đây không có. Vì vậy, chúng ta cần điều chỉnh lại mạng lưới xe buýt cho phù hợp với thành phố ngày nay, cũng như với những thách thức giao thông mới bằng cách kết hợp tuyến xe buýt nhanh BRT và hai tuyến tàu điện. Đây là việc chúng tôi sắp khởi động. Nhưng xin nhắc lại là chúng tôi đóng vai trò hỗ trợ, tư vấn cho các cơ quan chức năng Hà Nội. Việc tái cấu trúc mạng lưới xe buýt là rất quan trọng vì, như Basile đã nói, nếu chuyển sang điện hóa mạng lưới, các tuyến cũng sẽ phải thích ứng với việc đó vì cần phải sạc xe buýt... Đây là việc mang tính tổng thể. Phía chúng tôi hoàn toàn sẵn sàng, ý tôi muốn nói là chúng tôi sẽ sớm bắt đầu hỗ trợ các đối tác của mình về vấn đề thay đổi mạng lưới này. Đọc thêmPháp muốn cùng Hà Nội xây “xương sống” hệ thống giao thông công cộng RFI : Tất cả những điểm mà chúng ta đề cập trên đây, cũng như trong số trước, đều nhằm mục đích cải thiện giao thông, thu hút người dân đến với phương tiện công cộng và từ đó làm giảm sử dụng xe cá nhân gây ô nhiễm môi trường. Vậy có thể tóm lược dự án này qua những điểm như thế nào ? Basile Hassan : Dự án được thiết kế để hỗ trợ chính quyền Hà Nội xoay quanh bốn trục. Thứ nhất là tìm hiểu về di chuyển mà tôi đã đề cập trước đây. Chúng tôi đã thực hiện một khảo sát về di chuyển hộ gia đình với Viện Nghiên cứu Vùng Paris (Institut Paris Région) để tìm hiểu cách người Hà Nội đi lại. Nghiên cứu được thực hiện vào tháng 12/2023 đến đầu năm 2024, với 2.000 người Hà Nội. Khảo sát này đã giúp cập nhật các chỉ số chính về di chuyển và rất quan trọng cho dự án. The khảo sát, 73% di chuyển là bằng xe hai bánh cơ giới, 10% bằng ô tô, 5% bằng phương tiện công cộng và phần còn lại là đi bộ và xe đạp. Chúng tôi cũng đã hoàn thiện công việc mô hình hóa tại một ga tàu điện ngầm - ga Thượng Đình. Chúng tôi đã làm việc với Đại học Xây dựng Hà Nội để lập các kịch bản chuyển đổi phương thức, tình hình hiện tại
Đầu tháng 5 vừa qua, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành nghị quyết mới về phát triển khu vực tư nhân, lần đầu tiên khẳng định "kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia". Đối với những người mong muốn một làn sóng cải cách mới, có thể mở ra giai đoạn tăng trưởng kinh tế tiếp theo của Việt Nam, Nghị quyết 68 được ca ngợi là một văn kiện chính sách quan trọng, thậm chí là một "bình minh mới". Theo Nghị quyết 68, khu vực tư nhân ở Việt Nam hiện chiếm 50% GDP, 30% thu ngân sách nhà nước và 82% việc làm, tuy nhiên văn kiện này thừa nhận những vấn đề trong việc phát triển một khu vực tư nhân mạnh ở Việt Nam: “Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản kìm hãm sự phát triển, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước.” Nghị quyết nêu rõ, trong 5 năm tới, Việt Nam cần tăng gấp đôi số lượng doanh nghiệp nhỏ đăng ký chính thức, từ khoảng 900.000 doanh nghiệp hiện nay lên 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030. Đến năm 2045, cả nước phải đạt mục tiêu ít nhất 3 triệu doanh nghiệp, đóng góp hơn 60% GDP và "có năng lực cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế". The Diplomat: Đảng "độc thoại" với khu vực tư nhân Vì sao Đảng Cộng sản Việt Nam lại cảm thấy cần phải ban hành một nghị quyết như vậy và nghị quyết này hướng đến ai? Nick J. Freeman, một nhà tư vấn phát triển kinh tế, trong một bài viết đăng trên trang mạng của Nhật The Diplomat ngày 08/07/2025, giải đáp: “Một số người có thể lập luận rằng đây là một phần trong nỗ lực của Việt Nam nhằm thuyết phục bộ Thương Mại Hoa Kỳ rằng Việt Nam thực sự là một nền kinh tế thị trường? vào thời điểm các vấn đề thương mại và thuế quan đang là ưu tiên hàng đầu trong kinh tế. Gần đây nhất, vào tháng 8/2024, Washington vẫn coi Việt Nam là một nền kinh tế phi thị trường (chỉ có khoảng một chục quốc gia bị xem như vậy), điều này có ảnh hưởng đến cách Hoa Kỳ đánh giá thuế đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam và đối với bất kỳ cáo buộc bán phá giá nào. Bộ Thương Mại Mỹ lưu ý rằng, tuy Hà Nội đã có những nỗ lực cải cách gần đây, "sự can thiệp sâu rộng" của chính phủ vào nền kinh tế đã "làm sai lệch giá cả và chi phí của Việt Nam". Chắc chắn rằng việc chính phủ Việt Nam sở hữu trực tiếp nhiều doanh nghiệp nhà nước và mức độ kiểm soát của chính phủ đối với một loạt các nguồn lực kinh doanh là những vấn đề di sản của nền kinh tế chỉ huy của Việt Nam trước những năm 1990 . Cũng đúng là cho đến nay, bộ phận thành công nhất của khu vực tư nhân là bộ phận có vốn đầu tư nước ngoài. Mức độ thành công mà Việt Nam đạt được trong 40 năm qua trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài không được phản ánh trong việc phát triển một khu vực phi nhà nước, tự phát triển hơn.” Theo Nick J. Freeman, “các doanh nghiệp nhà nước (và chính phủ sở hữu các doanh nghiệp đó ) phải chịu một phần trách nhiệm, vì đã lấn át các đối thủ tư nhân trong một số lĩnh vực, nhưng họ không phải là thủ phạm duy nhất. Ai cũng thừa nhận rằng môi trường bảo đảm cho các công ty tư nhân phát triển và đạt được quy mô kinh tế cần thiết để cạnh tranh hiệu quả đã không hoàn toàn thuận lợi.” Nick J. Freeman viết tiếp: “Nếu tin vào Nghị quyết 68, các doanh nghiệp nhà nước sắp mất đi những đặc quyền còn lại của họ. Tuy nhiên, những thói quen cũ khó thay đổi. Giống như vào thời kỳ kinh tế chỉ huy, nghị quyết đặt ra nhiều mục tiêu đầy tham vọng cho sự phát triển của khu vực tư nhân vào năm 2030, chẳng hạn như tăng gấp đôi số lượng doanh nghiệp tư nhân, có 20 doanh nghiệp tư nhân trên 1.000 dân, tăng đóng góp của khu vực tư nhân vào GDP và lực lượng lao động... Sự ưu ái có phần lãng mạn của giới lãnh đạo đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn, mặc dù điều Việt Nam thực sự cần là một đội ngũ các công ty tư nhân lớn có thể tự mình cạnh tranh với các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thay vì cứ phải tự xoay xở. Món quà lớn nhất mà giới lãnh đạo Hà Nội có thể dành cho khu vực tư nhân là giải phóng họ khỏi những mục tiêu tùy tiện như vậy, và trao cho họ quyền tự chủ để phát triển và thành công về mặt thương mại, bằng cách tập trung và tận dụng năng lực, cũng như chuyên môn vốn có của nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Nếu Đảng yêu thích khu vực tư nhân, thì hãy để họ tự do.” Nick J. Freeman ghi nhận năm nay, dự kiến Việt Nam sẽ cải tổ Hiến pháp, cũng có thể sẽ có một số thay đổi quan trọng trong những phần liên quan đến nền kinh tế, vì những thay đổi về tư duy trong Nghị quyết 68 bắt đầu không phù hợp với một số điều khoản trong Hiến pháp. Ví dụ, Điều 51 Hiến pháp khẳng định: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”. Tác giả bài viết kết luận: “Một phần nào đó, Nghị quyết 68 khiến ta có cảm giác như một lời độc thoại của Đảng Cộng sản Việt Nam với khu vực tư nhân, như thể họ đang tìm cách tự thuyết phục mình, cũng như thuyết phục bất kỳ ai khác, dù trong nước hay nước ngoài, rằng triển vọng kinh tế tương lai của Việt Nam sẽ phụ thuộc vào sự phát triển thành công của khu vực tư nhân. Với hàng loạt vụ bê bối gây chấn động gần đây trong lĩnh vực doanh nghiệp và ngân hàng, có lẽ Hà Nội cảm thấy cần phải tái khẳng định cam kết theo đuổi nền kinh tế thị trường, dù “định hướng xã hội chủ nghĩa” đến đâu. Liệu Nghị quyết 68 có đủ sức thuyết phục chính quyền Hoa Kỳ rằng Việt Nam ngày nay thực sự là một nền kinh tế thị trường hay không? Có thể hình dung rằng Washington sẽ xem xét có những thay đổi nào trong cách diễn đạt của Hiến pháp, bao gồm cả Điều 4 : “Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng“ Nikkei Asia: Hưởng lợi nhiều nhất là các doanh nghiệp lớn Trang mạng Nikkei Asia ngày 10/07/2025 thì đặc biệt lưu ý là Nghị quyết 68 về kinh tế tư nhân chủ yếu tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp lớn, còn số phận của các doanh nghiệp nhỏ thì vẫn không rõ ràng. Tờ báo viết: “Tại Việt Nam, một đội quân những người bán hàng rong nhỏ lẻ đang cung cấp thực phẩm cho cả nước, từ già đến trẻ, bán những món ăn chủ yếu, như bánh mì thịt với giá chưa đến một đô la. Đội quân này cũng là trọng tâm của Nghị quyết 68. Giống như 5 triệu hộ kinh doanh cá thể mà chính quyền ước tính đang hoạt động không chính thức tại Việt Nam, nhiều người bán hàng rong không nộp thuế và không được đăng ký chính thức là doanh nghiệp, theo các chuyên gia. Họ cho rằng thời gian, thủ tục hành chính liên quan đến việc đăng ký các doanh nghiệp siêu nhỏ không mang lại lợi ích gì, mà chỉ là gánh nặng vì rườm rà và có thể ảnh hưởng đến thu nhập của các doanh nghiệp này, thường hoạt động mà không thu hoặc cấp hóa đơn”. Phóng viên của tờ báo đã đến một con hẻm đông đúc ở quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, nơi các doanh nghiệp nhỏ đủ loại hình chiếm lĩnh tầng trệt của hầu hết các chung cư, rõ ràng thách thức trong việc thực hiện cải cách vẫn còn ít được hiểu rõ. Một chủ nhà hàng sushi trong con hẻm mô tả Nghị quyết 68 là "đáng thất vọng". Nghiêm, một chủ nhà hàng đăng ký là kinh doanh hộ gia đình, cho biết : "Thực sự rất khó mà tuân thủ các tiêu chuẩn." Gần đó, một người phụ nữ bán bánh bao trên một chiếc xe đẩy nhỏ cho biết gia đình bà đã tránh đăng ký kinh doanh cho đến nay, sợ rằng thuế sẽ cắt giảm thu nhập ít ỏi của họ. Các doanh nghiệp lớn nhỏ trên khắp cả nước đang chờ đợi được giải thích rõ ràng hơn về luật thuế mới được ban hành phù hợp với các cải cách khu vực tư nhân, bao gồm cả việc doanh nghiệp phải nộp bao nhiêu thuế. Một người bán hàng rong, xin được giấu tên, cho biết: " Xe bán bánh bao do bố mẹ tôi làm chủ và họ chỉ kiếm được một ít tiền, vì vậy tôi không nghĩ họ sẽ đăng ký. Thu nhập của chúng tôi quá ít ỏi." Nghị quyết 68 kêu gọi các cơ quan chức năng xóa bỏ lệ phí đăng ký và miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp mới trong ba năm đầu hoạt động. Nghị quyết cũng thúc đẩy việc đơn giản hóa và số hóa các thủ tục hành chính, khuyến khích tiêu dùng và bán hàng hóa Việt Nam, đồng thời đảm bảo việc sử dụng hợp lý quyền tiếp cận đất đai, vốn, công nghệ và dữ liệu trong các lĩnh vực kinh tế. Nikkei Asia lưu ý: “Nghị quyết 68 mới chỉ bắt đầu được cụ thể hóa trong luật, khiến nhiều chủ doanh nghiệp nhỏ đang loay hoay tìm hiểu xem chính sách và quy định của chính phủ sẽ ảnh hưởng đến họ cụ thể như thế nào. Một số người lo ngại sẽ có cuộc trấn áp chống trốn thuế và kinh doanh hàng giả, nên có thể sẽ bị chậm trễ trong quá trình đăng ký kinh doanh cho các doanh nghiệp hợp pháp. ( … ) Mặc dù nỗ lực thúc đẩy khu vực tư nhân được ủng hộ rộng rãi trong nước, các chuyên gia lo ngại rằng nhóm nhỏ các tập đoàn tư nhân lớn hiện có của Việt Nam có thể là những người hưởng lợi nhiều nhất, trong khi các chủ doanh nghiệp nhỏ đang phải vật lộn dưới áp lực chính thức hóa hoạt động.” Nikkei Asia trích dẫn ông Nguyễn Khắc Giang, nghiên cứu viên thỉnh giảng tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á của Singapore, cho biết “có thể sẽ được hưởng lợi nhiều nhất chính là các doanh nghiệp vốn đã được hưởng ưu đãi từ các nhà hoạch định chính sách, bao gồm quyền tiếp cận đất đai - đặc biệt là đất thuộc sở hữu nhà nước - và tín dụng ưu đãi từ các ngân hàng thương mại tại Việt Nam". Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Giang lấy Vingroup làm ví dụ. Tập đoàn này đã dựa vào lĩnh vực bất động sản để xây dựng cơ đồ và hiện có một loạt các công ty con, bao gồm VinFast, thương hiệu ô tô đầu tiên của Việt Nam vươn ra toàn cầu. Trong số các doanh nghiệp lớn khác có thể hưởng lợi từ Nghị quyết 68, có Tập đoàn thép Hòa Phát, công ty bất động sản Sun Group và nhà sản xuất ô tô THACO. Các doanh nghiệp tư nhân lớn hiện có ở Việt Nam rất táo bạo, giàu vốn, hoặc có mối quan hệ với các tổ chức tài chính toàn cầu, và nhất là đã chứng minh được khả năng phát triển nhanh chóng, trong khi các doanh nghiệp nhà nước vẫn chậm chạp và kém hiệu quả, theo nhận định của các nhà quan sát. Cũng trong bài viết của Nikkei Asia, Alexander Vuving, giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế
“Ngày 01/07/2025 sẽ đi vào lịch sử cải cách bộ máy nhà nước Việt Nam như một dấu mốc mang tính đột phá và kiến tạo, cũng như lịch sử xây dựng và phát triển đất nước”. Tuyên bố được đăng trên trang web Cải cách Hành chính vì Việt Nam chính thức có 34 đơn vị hành chính cấp tỉnh, gồm 28 tỉnh và 6 thành phố, giảm gần một nửa so với trước đây. Đề án sáp nhập là do tổng bí thư Tô Lâm chủ trương và Quốc Hội biểu quyết thông qua ngày 12/06. Tinh giản bộ máy nhà nước được coi là điều vô cùng cần thiết để Việt Nam trở thành nước có thu nhập cao từ nay đến năm 2045. Thực hiện thành công công cuộc cải cách lần này, tổng bí thứ Tô Lâm còn cho thấy quyền lực cá nhân và những chiến lược tập trung quyền lực đằng sau. Đây là nhận định của giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược (IRSEM), Trường Quân sự Pháp, khi trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt ngày 04/07/2025. RFI : Việc sắp xếp lại đơn vị hành chính đã diễn ra nhiều lần trong lịch sử Việt Nam và lần gần đây nhất có hiệu lực thi hành ngày 01/07/2025. Mục tiêu của cuộc cải cách này là gì ? Benoît de Tréglodé : Việc sắp xếp lại đơn vị hành chính, cụ thể là giảm từ 63 tỉnh, thành xuống còn 34, bao gồm 28 tỉnh và 6 thành phố do chính quyền trung ương quản lý. Đây là một bước vô cùng quan trọng trong công cuộc cải cách đất nước, theo mong muốn của tổng bí thư Tô Lâm, với mục tiêu đầy tham vọng : thúc đẩy phát triển để đưa Việt Nam thành nước phát triển có thu nhập cao từ nay đến năm 2045. Vì vậy, cải cách bộ máy Nhà nước là một chặng, việc sáp nhập tỉnh cũng rất quan trọng, bởi vì qua đó người ta thấy một quyết tâm kỹ trị, một mong muốn kinh doanh và cả kinh tế, trong khi người tiền nhiệm Nguyễn Phú Trọng luôn đặt trọng tâm vào sự trong sạch thuần túy về mặt tư tưởng và kỷ luật của đảng. Điều mà tổng bí thư Tô Lâm thúc đẩy trong cuộc cải cách lần này là tạo ra những thực thể hành chính mới có khả năng cạnh tranh từ góc độ kinh tế. Tôi muốn nói đó là điều rất cụ thể, chứ không chỉ là lý thuyết. Có hai lưu ý sơ bộ để hiểu về cuộc cải cách này. Điều đáng chú ý trước tiên là ý muốn của một người, ở đây là ông Tô Lâm. Những địa giới hành chính mới của các tỉnh cũng là cách cho thấy quyết định được đưa từ trên xuống. Việc này đưa Đảng, và cuối cùng là tổng bí thư, vào trung tâm của quá trình ra quyết định mang tính quốc gia. Quốc Hội không thảo luận về dự án này mà chỉ phê duyệt. Chúng ta đang quay trở lại với một logic khá cũ, bị quên trong hơn một thập niên, là các đại biểu Quốc Hội tranh luận về các dự án lớn của bộ máy. Ở đây, ông Tô Lâm áp đặt cải cách mà Quốc Hội sẽ thông qua. Điểm này rất quan trọng mà tôi sẽ đề cập sau. Lưu ý thứ hai, đó là ông Tô Lâm gọi “cuộc cách mạng chống quan liêu” để tăng thêm hiệu quả. Có một điều không thể phủ nhận mà bất kỳ ai theo dõi hoặc quan sát các vấn đề chính trị, hành chính, cuộc sống hàng ngày của người Việt Nam đều không thể nói ngược lại : Hết thập niên này sang thập niên khác, một bộ máy quan liêu ngày càng phình to được lập ở nhiều cấp độ, từ xã, huyện đến tỉnh và trung ương, cho nên đã hạn chế hiệu quả hoạt động. Khi tổng bí thư nói đến việc tinh gọn, làm cho bộ máy hành chính chặt chẽ, mạnh mẽ, hiệu quả, hiệu suất hơn (về mặt giấy tờ), người ta có thể nói rằng ông ấy có lẽ đúng. Quá trình hiện đại hóa kinh tế của đất nước chắc chắn sẽ liên quan đến cuộc đổi mới này, bởi vì một bộ máy hành chính kém hiệu quả, cồng kềnh là rất tốn kém và chỉ tạo thêm “cửa” cho các nhà đầu tư muốn làm việc với Việt Nam. Đọc thêmTô Lâm, tân lãnh đạo cứng rắn của Việt Nam thiên về tư bản Ngoài ra, còn phải kể đến 3 lý do chính đằng sau việc tái cấu trúc hành chính và sáp nhập tỉnh. Thứ nhất, việc tinh giản bộ máy hành chính địa phương làm giảm các điểm tiếp xúc, các cấp ra quyết định và các tuyến chỉ huy, cho nên giảm được gánh nặng hành chính cho những người muốn làm việc với một địa phương. Có nghĩa là ít “cửa” hơn, ít tham nhũng hơn một chút, bởi vì có ít người để “làm việc” hơn. Lý do chính thứ hai, cải tổ ở cấp độ các vùng lãnh thổ Việt Nam sẽ tạo nên các không gian thúc đẩy động lực kinh tế và hạn chế chủ nghĩa địa phương. Cho nên cần nhắc lại, tinh giản là để hiệu quả hơn. Điểm thứ ba, được nhiều chuyên gia nêu lên : Cuộc cải cách lần này là nhằm giảm bớt ngân sách nhà nước, hiện dành tới 70% cho chi phí vận hành định kỳ của các cơ quan hành chính. Mục tiêu mang tính kinh tế, rất cụ thể. Nhưng đó không phải là những lý do duy nhất mà chúng ta sẽ nói đến sau. RFI : Ở Pháp, việc phân chia đơn vị hành chính đôi khi cũng được thực hiện vì mục đích bầu cử. Liệu trường hợp này có diễn ra ở Việt Nam không vì Đại hội Đảng cũng đang đến gần, trong khi lợi ích tài chính, đơn giản hóa hành chính… vẫn được nhấn mạnh khi sáp nhập tỉnh, như ông nhắc đến ở trên ? Benoît de Tréglodé : Tôi nói ngay là có. Đó là điều hiển nhiên. Tôi đã nhấn mạnh đến khía cạnh mục tiêu và tổ chức, rất cơ bản của cuộc cách mạng chống quan liêu. Đừng quên rằng chúng ta đang ở Việt Nam, Đại hội Đảng sẽ diễn ra trong chưa đầy một năm. Vì vậy, cuộc cách mạng mang hai mục tiêu, vừa về kinh tế, và đối với ông Tô Lâm, chắc chắn là còn mang tính chính trị. Sự tập trung chính trị này có nghĩa là gì ? Đây chỉ là một vấn đề đơn giản về số học. Cuộc cải cách sẽ củng cố sự tập trung chính trị. Ít tỉnh hơn, sẽ có ít người tham gia vào Ban Chấp hành Trung ương hơn, và như vậy sẽ tạo thuận lợi cho bộ Chính trị hoặc ban bí thư, chỉ phải kiểm soát ít hơn. Việc giảm số lượng tỉnh cũng dẫn đến việc giảm số lượng đại biểu được cử vào Ban Chấp hành Trung ương. Điều này rất quan trọng, bởi vì Ban Chấp hành Trung ương và các ban chính trị của đảng sẽ được bầu tại Đại hội toàn quốc lần thứ 14 của đảng vào đầu năm 2026. Với việc ít tỉnh hơn, ít đại diện hơn, rõ ràng việc này sẽ giúp tập trung ảnh hưởng nhiều hơn vào tay ông Tô Lâm và các đồng minh của ông. Không cần phải che giấu, cuộc cải cách này còn có mục đích tập trung quyền lực xung quanh lãnh đạo quyền lực của hệ thống chính trị Việt Nam, trong trường hợp này là tổng bí thư. Theo logic của Tô Lâm hiện nay, tập trung quyền lực cũng là bảo đảm thêm sự ổn định chính trị cho đất nước, cho đội ngũ lãnh đạo đất nước. Lập luận này xuất phát từ nhận định là cần phải phát triển Việt Nam về kinh tế để đạt được mục tiêu phát triển đầy tham vọng năm 2045 và để chống lại những bất ổn trên chính trường khu vực và quốc tế, cũng tác động đến Việt Nam. Nói tóm lại, mục đích chính trị cũng đi kèm với mục tiêu hành chính và kinh tế trong đợt cải cách quy mô lớn này. RFI : Làm thế nào có thể tiến hành cuộc cải cách vào thời điểm này và nhanh đến như vậy ? Benoît de Tréglodé : Quả thực, rất nhiều người thắc mắc về vấn đề này. Đã thành thông lệ là mỗi năm trước kỳ Đại hội đảng vẫn có những chiến dịch chống tham nhũng lớn (tiếp tục hoặc tái khởi động) để phân loại trong số những người thân cận hoặc đối thủ của những nhân vật chuẩn bị cho đại hội sau đó. Năm nay, không nhất thiết phải là một chiến dịch chống tham nhũng mới khiến toàn bộ môi trường chính trị ngưng đọng hoàn toàn, mà là cuộc đại cải cách đầy tham vọng hệ thống hành chính Việt Nam, theo mong muốn của ông Tô Lâm. Điều có thể nghĩ tới ngay lập tức, nếu một cuộc cải cách đầy tham vọng như vậy được thực hiện bởi một người duy nhất thì đó là do ông ấy không cảm thấy bị bất kỳ ai đe dọa và điều này nằm trong quyền lực to lớn của ông trong bộ máy chính trị Việt Nam. Vào đúng năm trước Đại hội Đảng, với cuộc tinh giản bộ máy hành chính ở cấp địa phương, nhưng cũng có thể nói là ở cấp trung ương, ở cấp bộ, không ai chắc chắn là giữ được vị trí của mình, kể cả trong Ban Chấp hành Trung ương. Số người may mắn được chọn sẽ ít hơn vào năm 2026. Có thể nói rằng chiến dịch kiểm soát khổng lồ này thậm chí còn hiệu quả hơn các chiến dịch chống tham nhũng thông thường. Bởi vì chúng khiến mọi người run sợ, ai cũng muốn giữ lấy chỗ và có thể theo đuổi sự nghiệp trong một bộ máy hành chính bị thu hẹp lại. Đọc thêmViệt Nam : Chủ tịch nước bị cách chức, tổng bí thư bị tiếm quyền ? Cuối cùng, chỉ một người thắng cuộc lớn nhất, đó là ông Tô Lâm, người tổ chức công cuộc này cùng với ban lãnh đạo của ông hiện tại hoặc trước đây trong bộ Công An. Có một bầu không khí chung, có thể nói là lo lắng, về sự chuyển đổi xã hội này, cho dù nhiều người hoan nghênh, đánh giá dự án là “cao cả”, để bộ máy hành chính cồng kềnh trở nên hiệu quả hơn, sáp nhập các đơn vị hành chính chồng chéo để giúp đất nước giàu mạnh hơn, các địa phương hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài hơn. Nhưng thường thì ở Việt Nam, người ta vẫn làm “một công đôi việc”. Người ta mang đến cho người dân một cuộc cải cách được hoan nghênh với những mục tiêu rất tham vọng, cao cả. Nhưng đồng thời, công cuộc này lại được thực hiện bởi một chính trị gia đang tận dụng nó để trụ vững ở trung tâm và thể hiện toàn bộ quyền lực của mình trong trung tâm bộ máy. RFI : Những tỉnh mới, từ giờ rộng lớn hơn rất nhiều, có thể sẽ phải đối mặt với những thách thức nào trong tương lai ? Benoît de Tréglodé : Đây là cả một vấn đề. Đúng là có thể có những tác động tích cực, đúng đắn. Việc thành lập các siêu tỉnh để thu hút đầu tư nước ngoài có thể giúp địa phương phát triển hiệu quả hơn, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài qua việc “giảm hai, ba lần” số “cửa” tham nhũng. Trước đây, các nhà đầu tư nước ngoài đôi khi phải gõ cửa các ủy ban tỉnh, ủy ban huyện, xã, địa phương liên quan… càng nhiều cửa thì càng có nhiều công chức tham nhũng và càng khiến hoạt động thêm phức tạp. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, các chính quyền mới sẽ đơn giản hơn và minh bạch hơn trong việc hợp tác sau khi cải cách sáp nhập tỉnh có hiệu lực từ ngày 01/07/2025. Đọc thêmChủ tịch nước kiêm tổng bí thư, ông Tô Lâm nắm trọn quyền lực ở Việt Nam Mặt khác, có thể là còn quá sớm để nói hoặc hình dung cụ thể hoạt động sẽ như thế nào, nhưng việc thành lập những tỉnh lớn như vậy có thể tạo nên sự bất ổn lâu dài nếu các nhà lãnh đạo tỉnh tương lai dần trở nên quyền lực hơn, một ngày nào đó không hoàn toàn chia sẻ năng lực hoặc tầm nhìn với ông Tô Lâm và bắt đầu tập trung quyền lực cho các mục đích cá nhân.
Nhiều lần trong tháng 02 và 03/2025, Hà Nội đứng đầu danh sách các thành phố ô nhiễm nhất thế giới. Mạng lưới giao thông công cộng được chú ý phát triển từ nhiều năm qua không cải thiện được tình hình do hàng ngày vẫn có hơn 6 triệu xe máy và 800.000 ôtô xăng, dầu lưu thông, chiếm khoảng 56% ô nhiễm không khí của Hà Nội (1). Tại sao xe cá nhân vẫn được chuộng làm phương tiện lưu thông chính còn mạng lưới công cộng vẫn không thu hút được người sử dụng ở Hà Nội? Có ít nhất ba yếu tố chính : thói quen sử dụng xe máy - được coi là phương tiện tiện lợi, số lượng ô tô lưu thông ngày càng nhiều, do hình ảnh "tích cực" thể hiện cho "thành đạt" và phương tiện công cộng hiện tại vẫn thiếu kết nối, ít tiện lợi. Đây là nhận định của kiến trúc sư Emmanuel Cerise, trưởng đại diện Vùng Paris tại Hà Nội, giám đốc Cơ quan hỗ trợ Hợp tác quốc tế Vùng Paris tại Việt Nam - PRX-Vietnam và nhà quy hoạch đô thị Basile Hassan, trưởng dự án Moov’Hanoi, khi trả lời RFI Tiếng Việt ngày 27/05/2025. PRX-Vietnam là đối tác tư vấn, hỗ trợ cho thành phố Hà Nội trùng tu nhiều công trình kiến trúc cổ, giao thông công cộng… trong khuôn khổ hợp tác phi tập trung giữa vùng Île-de-France (Pháp) và thành phố Hà Nội. RFI : Có thể thấy Hà Nội có một mạng lưới giao thông công cộng khá dày đặc, nhất là mạng lưới xe buýt, và tương đối phát triển với nhiều tuyến khác nhau. Ngoài ra còn có thêm hai tuyến tàu điện. Nhưng tại sao hệ thống giao thông công cộng này vẫn chưa được tận dụng tối đa? Đâu là lý do giải thích cho thực trạng này? Làm thế nào để có thể thu hút thêm người sử dụng? KTS Emmanuel Cerise : Xin nói một chút về mạng lưới. Đúng là hệ thống đã phát triển, mạng lưới xe buýt đang trong quá trình chuyển đổi, với những xe buýt hiện đại hơn. Nhưng vẫn chưa đủ. Có nghĩa là hệ thống vẫn cần phải phát triển nhiều hơn nữa khi chúng ta thấy tỷ lệ di chuyển bằng phương tiện công cộng, bằng xe buýt, vẫn còn khá thấp. Cho nên thực sự vẫn còn có thể tiến triển được. Nếu so sánh mạng lưới xe buýt ở vùng Île-de-France có diện tích lớn hơn nhiều và có dân số gấp đôi vùng Hà Nội thì riêng mạng lưới xe buýt ở vùng Île-de-France đã lớn hơn 10 lần. Vì vậy, rõ ràng là phải tiếp tục phát triển mạng lưới xe buýt ở Hà Nội. Basile Hassan : Emmanuel có kinh nghiệm ở Hà Nội nên biết rõ. Tôi chỉ muốn nói đơn giản hơn là mạng lưới giao thông công cộng hiện tại không đáp ứng được nhu cầu của người dân. Hà Nội có tàu điện nhưng lại không đủ, thậm chí còn không đi đến trung tâm thành phố. Trong bối cảnh người dân chủ yếu sử dụng xe máy, rất cạnh tranh về mặt thời gian, đi từ điểm A đến điểm B mà không phải thay đổi phương tiện, cho nên giao thông công cộng có vẻ kém cạnh tranh hơn vì mất thời gian hơn so với xe máy, phải nối chuyến, phải đi đến các bến. Vì vậy về mặt thời gian và hiệu quả, phương tiện công cộng kém hấp dẫn hơn xe máy, được ưa chuộng ở Hà Nội. Emmanuel Cerise : Để nói về điểm này, theo nhiều nghiên cứu được tiến hành ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, sự cạnh tranh với xe máy là không công bằng. Không có gì hiệu quả hơn là ra khỏi nhà bằng xe máy, đi đến bất cứ đâu và đỗ xe được ở mọi nơi... Điều đó có nghĩa là nếu chúng ta muốn phát triển giao thông công cộng, đến một lúc nào đó sẽ phải hạn chế phương tiện giao thông cá nhân : ô tô và xe máy. Ô tô đã kém hiệu quả hơn vì nhìn chung, không phải ai cũng có thể đỗ xe ở nhà hoặc gần nhà vì cần chỗ rộng, trong khi lại thiếu bãi đậu xe. Do đó, sử dụng ô tô kém hiệu quả hơn nhưng lại thời thượng. Do đó về mặt hình ảnh, chúng ta lại có cạnh tranh không công bằng vì giao thông công cộng vẫn có một hình ảnh không tích cực. Có xe máy chưa chắc đã là một hình ảnh tích cực, nhưng có ô tô là một hình ảnh tích cực. RFI : Cho nên phải thay đổi cách nhìn này ? Emmanuel Cerise : Đúng thế. Chúng ta không thể nói rằng sẽ cấm xe máy, ô tô bởi vì mạng lưới không đủ để thay thế hoàn toàn phương tiện cá nhân. Tuy nhiên, các cơ quan chức năng cần cải thiện, củng cố và tạo hình ảnh tích cực cho tàu điện và xe buýt. RFI : Ngoài ra còn có vấn đề kết nối giữa những phương tiện giao thông công cộng với nhau ở Hà Nội. Emmanuel Cerise : Đây cũng là một điểm khác khiến việc sử dụng phương tiện công cộng ở Hà Nội hơi khó khăn. Mạng lưới hiện tại không phải là đa phương thức, mà như kiểu 2 hoặc 3 mạng lưới khác nhau. Về tàu điện, mỗi tuyến hoạt động riêng lẻ, không kết nối tốt với mạng lưới xe buýt hiện có hoặc với các phương tiện giao thông khác. Nhiều nỗ lực đã được thực hiện và đó cũng thực sự là mục tiêu của dự án Moov’Hanoi của chúng tôi. Kiểu dự án này vận hành rất tốt ở vùng Île-de-France. Đôi khi người dân Paris phàn nàn, nhưng phải nói khá là dễ để đi từ điểm này đến điểm khác bằng phương tiện công cộng. Chuyển từ tàu điện ngầm này sang tàu điện ngầm khác hoặc từ tàu nội vùng RER sang tàu điện ngầm rất là đơn giản. Ở Hà Nội thì chưa có gì được làm để có thể chuyển từ phương tiện này sang phương tiện khác, ví dụ từ xe buýt sang tàu điện, nhưng cũng có thể từ xe máy cá nhân sang tàu điện hoặc sang xe buýt hoặc từ taxi, Grab sang tàu điện. Đây là một điểm thực sự cần được cải thiện vì việc này có thể giúp cải thiện hình ảnh của phương tiện giao thông công cộng. Basile Hassan : Bởi vì người dùng tàu điện, có lúc phải đi bộ để chuyển phương tiện, cho nên để họ có thể sử dụng tàu điện, các khu vực nhà ga cần được thiết kế sao cho có thể dễ dàng đến bến. Ví dụ, tôi so sánh với vùng Île-de-France ở Pháp, có những thiết bị, tiện nghi giúp mọi người sử dụng tàu điện, như bãi đỗ xe trung chuyển cho ô tô và xe máy hoặc những nhà xe cho xe đạp, vỉa hè và lối đi được thiết kế thoải mái cho người đi bộ. Và những điều này cũng góp phần vào cải thiện tính liên phương thức, bổ sung cho những kết nối giữa tàu điện mà Emmanuel đã nói đến. RFI : Liệu có thể nói thêm rằng người Việt không có thói quen đi bộ? Emmanuel Cerise : Điều này là đúng. Nhưng tôi tin chắc rằng đó là những thói quen có thể thay đổi. Và thực ra chúng ta có thể thấy điều đó. Tôi sống ở Việt Nam từ nhiều năm. Mười hoặc 15 năm trước, đi bộ trên vỉa hè khó khăn hơn nhiều so với bây giờ. Ở trung tâm thành phố, người ta đang cải thiện điều được gọi là “khả năng đi bộ cho thành phố”, nghĩa là vỉa hè ngày càng thông thoáng, thảm thực vật trong thành phố phong phú hơn, các cửa hàng cũng hấp dẫn hơn. Vì vậy, tôi nghĩ chúng ta sẽ có thể thay đổi được thói quen này. Đọc thêmPRX-Vietnam hỗ trợ Hà Nội quy hoạch không gian xanh ở quận Hoàn Kiếm RFI : Tháng 03/2023, Việt Nam đã khởi động dự án Moov’Hanoi. Dự án hướng đến những mục tiêu như thế nào? Basile Hassan : Dự án Moov’Hanoi có mục tiêu thu hút người dùng tàu điện và hỗ trợ chính quyền Việt Nam cải thiện mạng lưới giao thông. Dự án cho phép giải quyết vấn đề chuyển đổi cách thức đi lại khi đề cập đến việc hạn chế xe cơ giới cá nhân. Có nhiều việc phải làm về hình thành cơ sở hạ tầng tàu điện, đó là một phần trong dự án Moov’Hanoi, tái cấu trúc mạng lưới xe buýt, cải thiện tính liên phương thức tại các nhà ga và hiểu rõ về giao thông ở Hà Nội, thậm chí đây là điểm đầu tiên cần nắm bắt : Mọi người đi lại trong thành phố như thế nào? Các trung tâm thu hút tạo ra lưu lượng giao thông ở đâu? Đó chính là công việc nghiên cứu về phát triển một dịch vụ, phát triển phương tiện giao thông công cộng, nhưng đồng thời, cũng cần buộc người dân hạn chế sử dụng xe máy hoặc ô tô riêng. Điểm này được gọi là “chuyển đổi phương thức”. Đó là sự thay đổi trong hành vi, làm thế nào để mọi người chuyển sang những phương tiện giao thông “sạch” hơn, ví dụ phương tiện công cộng, đi bộ hoặc đạp xe. Dự án Moov’Hanoi là một phần của cách tiếp cận này nhằm thu hút mọi người đến với phương tiện giao thông công cộng. Và như vậy, việc này cũng gián tiếp khiến mọi người từ bỏ dần phương tiện giao thông cá nhân của họ. Đọc thêmNan giải bài toán ô nhiễm không khí ở Hà Nội RFI : Dự án kéo dài từ năm 2023 đến 2026, có nghĩa là còn một năm nữa kể từ thời điểm này. Dự án có thể sẽ được hoàn tất theo thời hạn và hoàn thành các mục tiêu đề ra? Basile Hassan : Những dự án về giao thông, cơ sở hạ tầng như này cần rất nhiều thời gian. Dự án Moov’Hanoi mới được tiến hành hai năm, đó là khoảng thời gian rất ngắn. Chúng tôi đang thực hiện những hành động nhỏ nằm trong một khuôn khổ lớn hơn một chút. Dự án có được hoàn thành vào năm 2026 không? Dự án sẽ được triển khai. Nhưng tất nhiên sẽ xuất hiện những công việc khác cần thực hiện và việc này sẽ dẫn chúng tôi đề cập đến những chủ đề khác, ví dụ như vé tàu xe điện tử MaaS (Mobility as a Service). Số hóa phương tiện giao thông không hoàn toàn nằm trong dự án Moov’Hanoï, nhưng chúng tôi cũng đề cập vì nằm trong khuôn khổ hỗ trợ kỹ thuật cho các cơ quan chức năng Việt Nam, UBND thành phố Hà Nội và sở Giao thông Vận tải. Nhưng đúng vậy, sẽ có thể phải phát triển nhiều hoạt động khác sau năm 2026. Emmanuel Cerise : Trong khuôn khổ hợp tác nói chung và dự án Moov’Hanoi nói riêng, chúng tôi chủ yếu cung cấp chuyên môn và tư vấn, còn việc triển khai dự án thuộc về thẩm quyền của chính quyền Việt Nam và các cơ quan liên quan, như bộ Giao thông Vận tải. Do đó chúng tôi không có nhiều ảnh hưởng đến các bộ phận kỹ thuật. Chúng tôi tư vấn cho họ về những thực tiễn. Nhìn chung, họ lắng nghe chúng tôi và trao đổi diễn ra tốt đẹp. Tiếp theo, Việt Nam, cũng như những khắp nơi trên thế giới, đều có những quy định cụ thể, mỗi thành phố cũng có các quy định riêng, khuôn khổ hành chính riêng. Các đối tác Việt Nam của chúng tôi tuân theo khuôn khổ hành chính và lập pháp địa phương để triển khai dự án. Các dự án giao thông trên toàn thế giới là những dự án mất rất nhiều thời gian bởi vì liên quan đến các chính sách công, nhân dân… cho nên chưa bao giờ là những dự án nhanh chóng. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn kiến trúc sư Emmanuel Cerise, giám đốc công ty PRX-Vietnam và Basile Hassan, trưởng dự án Moov’Hanoi. (1) VTC News, Giao thông là nguyên nhân chính ô nhiễm không khí tại Hà Nội.
Để có thể tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng như hiện nay, Việt Nam đã đề ra một kế hoạch đầy tham vọng với nhiều dự án cơ sở hạ tầng lớn. Nhưng để những dự án này có thể được thật sự có hiệu quả, phải làm sao giải quyết được những nguyên nhân dẫn đến hai vấn đề chính, đó là đội vốn và trễ hạn. Trong năm 2025, tổng vốn đầu tư công được phê duyệt dự kiến sẽ lên tới 875 nghìn tỷ đồng (35 tỷ đô la ), tăng 37,7% so với tổng số vốn được giải ngân vào năm 2024. Các dự án cơ sở hạ tầng quan trọng đang được xây dựng bao gồm Đường cao tốc Bắc-Nam và Sân bay quốc tế Long Thành. Riêng dự án tuyến đường sắt cao tốc Bắc-Nam, sẽ có chi phí hơn 67 tỷ đô la và dự kiến hoàn thành vào năm 2035, đang gây rất nhiều tranh cãi ở Việt Nam. Theo bộ Xây Dựng Việt Nam, hiện đã có 5 doanh nghiệp nộp đề xuất sơ bộ đầu tư vào dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam, trong đó có Công ty Đầu tư và Phát triển Đường sắt tốc độ cao Vinspeed, thuộc tập đoàn tư nhân Vingroup của nhà tỷ phú Phạm Nhật Vượng. Theo phương án đề xuất, VinSpeed cam kết tự tìm 20% vốn (tương đương khoảng 12 tỷ đô la), phần còn lại họ đề nghị được vay từ nguồn vốn nhà nước với lãi suất 0% trong 35 năm. Thời gian thi công dự kiến 5 năm và khai thác trong 99 năm. Tương tự, Thaco (Tập đoàn Trường Hải) cũng đề xuất phương án đầu tư với 20% vốn tự có, phần còn lại huy động từ các nguồn trong và ngoài nước, thời gian thi công 7 năm, vận hành 70 năm. Nhưng các chuyên gia đang đặt nhiều nghi vấn về khả năng của những tập đoàn nói trên huy động được số vốn cần thiết, cũng như khả năng hoàn thành dự án đúng thời hạn cam kết. Vấn đề là các dự án cơ sở hạ tầng công ở Việt Nam cho tới nay thường bị chậm tiến độ, lãng phí và bị đội vốn. Những nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng đó? RFI Việt ngữ phỏng vấn nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp, Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore. RFI: Thưa anh Lê Hồng Hiệp, Việt Nam đã thông qua rất nhiều dự án xây dựng cơ sở tầng lớn, đặc biệt là dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam. Đối với một dự án lớn kéo dài nhiều năm như dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam, liệu Việt Nam có đủ khả năng để huy động nguồn vốn? Và nhất là nếu có sự tham gia của các tập đoàn tư nhân như Vinspeed, liệu họ có đủ khả năng để huy động vốn? Lê Hồng Hiệp: Năm nay Việt Nam đặt ra mục tiêu tăng trưởng GDP là 8% và các năm sau là ít nhất là 10%. Trong bối cảnh các trụ cột khác của tăng trưởng kinh tế như là xuất khẩu, tiêu dùng trong nước, đổi mới sáng tạo, còn đang gặp rất là nhiều khó khăn, việc tăng cường đầu tư cả tư nhân lẫn đầu tư công, đặc biệt là đầu tư vào cơ sở hạ tầng, trở thành một lựa chọn bắt buộc đối với Việt Nam để giúp tăng trưởng kinh tế. Việt Nam cần một nguồn vốn khổng lồ. Gần đây, các chuyên gia của tập đoàn phát triển hạ tầng tư nhân có ước tính là từ giờ tới năm 2040, Việt Nam cần khoảng 570 tỷ đô la đầu tư vào cơ sở tầng cho các lĩnh vực như giao thông vận tải, năng lượng, viễn thông, hay các hạ tầng liên quan. Để mà huy động được nguồn vốn khổng lồ như vậy thì Việt Nam sẽ phải thông qua nhiều con đường phổ biến nhất. Thứ nhất là ngân sách nhà nước thông qua các thu xếp cho các khoản đầu tư phát triển, đầu tư cơ sở tầng. Thứ hai là vay nợ của nhà nước thông qua việc phát hành trái phiếu trong nước cũng như ở nước ngoài và vay nợ từ các cái đối tác phát triển, bao gồm các đối tác ODA, cũng như các tổ chức tín dụng phát triển quốc tế. Thứ ba là huy động vốn từ khu vực tư nhân, như VinGroup hay Thaco, để tham gia phát triển dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam. Thứ tư là hợp tác công tư, hình thức hợp tác giữa nhà nước và lĩnh vực tư nhân để có các giải pháp tài chính phục vụ cho những mục tiêu phát triển. Việt Nam phải phối hợp các cái nguồn vốn khác nhau. Có những dự án thì có thể phải huy động ngân sách nhà nước, đặc biệt là những dự án mà lĩnh vực tư nhân có thể không đủ năng lực hay là không có lợi ích nhiều khi tham gia. Tôi lấy ví dụ dự án phát triển điện hạt nhân: Hiện tại Việt Nam đang đề ra mục tiêu phát triển hai nhà máy điện hạt nhân. Nguồn vốn ước tính lên tới khoảng 22 tỷ đô la. Các doanh nghiệp tư nhân không đủ năng lực, cũng như không có lợi ích nhiều khi tham gia các dự án này. Trong những lĩnh vực như vậy thì nhà nước sẽ phải huy động vốn từ ngân sách nhà nước hay là vay nợ của nước ngoài. Tuy nhiên, những lĩnh vực khác như phát triển đường cao tốc, hay đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam thì có thể xem xét việc tạo nguồn vốn từ lĩnh vực tư nhân. Tuy nhiên, do lĩnh vực hạ tầng đòi hỏi nguồn vốn lớn, thời gian thu hồi vốn kéo dài và khả năng thua lỗ rất là cao, việc huy động từ lĩnh vực tư nhân cũng không hề đơn giản và đấy là lý do mà chúng ta sẽ thấy trong cái thời gian tới sẽ có các cuộc tranh luận, các cân nhắc liên quan tới dự án đường sắt tốc độ cao Bắc -Nam: Liệu có nên giao cho các tập đoàn tư nhân hay không và nếu giao cho họ thì các điều kiện, điều khoản liên quan tới các ưu đãi cho nhà đầu tư, để làm sao họ có thể thu hồi vốn trong quá trình tham gia phát triển các dự án đầu tư cơ sở tầng lớn như vậy thì sẽ được tiến hành như nào? RFI: Thưa anh, cho dù là vốn tư nhân hay vốn nhà nước, thì các vấn đề lớn cho tới nay ở Việt Nam, đó là những dự án cơ sở hạ tầng thường hay bị chậm tiến độ cũng như là hay bị đội vốn, tức là số vốn ban đầu ước tính như thế nhưng cuối cùng thì rất là cao, như dự án Metro ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đây có phải là vấn đề sẽ đặt ra trong những năm tới đối với những cái dự án vừa nói ở trên? Lê Hồng Hiệp: Đội vốn hay là chậm tiến độ, trễ hạn là một vấn đề sẽ còn lặp lại ở nhiều dự án khác nhau. Đây không chỉ là vấn đề của riêng của Việt Nam, mà còn xảy ra với nhiều dự án ở các quốc gia khác, kể cả các nước phát triển, vì nhiều lý do khác nhau. Riêng ở Việt Nam thì chúng ta thấy vấn đề này diễn ra quá thường xuyên, những dự án càng lớn thì nguy cơ đội vốn hay trễ hạn thì càng cao hơn. Có một số nguyên nhân.Thứ nhất là việc lập kế hoạch thiếu thực tế, không có tính khả thi cao. Ví dụ như Việt Nam vừa rồi đề xuất mục tiêu phát triển hai nhà máy điện hạt nhân trong vòng 5 năm tới, năm 2030, 2031 là hoàn thành. Tôi nghĩ đấy là một mục tiêu không thực tế. Thực tiễn ở các quốc gia khác chỉ ra rằng phát triển những dự án điện hạt nhân lớn như vậy cần rất nhiều thời gian. Việc lập kế hoạch cũng phải kỹ càng hơn. Trong bối cảnh Việt Nam, việc phát triển trong vòng 5 năm hai nhà máy điện hạt nhân công suất lớn như vậy là hoàn toàn là không khả thi. Chưa kể là chúng ta chưa có một kế hoạch rõ ràng cụ thể chi tiết các công nghệ mà chúng ta sẽ sử dụng là gì và sẽ mua từ đâu. Thứ hai là năng lực quản lý, chúng ta thấy Việt Nam cũng thiếu kinh nghiệm quản lý các dự án, đặc biệt là các dự án quy mô lớn, do đó dẫn tới chậm trễ trong việc phối hợp giữa các bên và các biện pháp phê duyệt thủ tục. Các dự án nhỏ hơn rất nhiều như Metro Nhổn - Ga Hà Nội, hay Metro số 1 ở Sài Gòn quy mô không phải quá lớn, nhưng cũng trễ hạn rất nhiều và đội vốn rất nhiều. Lâu nay chúng ta cũng thường đổ lỗi là do các nhà thầu nước ngoài, nhưng rất nhiều nguyên nhân là xuất phát từ phía Việt Nam. Liên quan tới năng lực quản lý thì còn có vấn đề thủ tục hành chính phức tạp. Trong dự án metro Bến Thành - Suối Tiên chẳng hạn, có rất nhiều vướng mắc liên quan tới giải ngân của ODA từ Nhật Bản, do thủ tục pháp lý hành chính từ phía Việt Nam rất phức tạp về quy trình phê duyệt rồi quy trình thay đổi các chi tiết của dự án, dẫn tới chậm trễ trong việc giải ngân, dẫn tới định trệ của tiến độ dự án. Ở nhiều dự án của Việt Nam thì còn có vướng mắc về giải phóng mặt bằng. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn tới chậm trễ và đội vốn. Thứ tư là phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài. Nhập khẩu các công nghệ và thiết bị nước ngoài có thể khiến chi phí tăng cao, đặc biệt là khi tỷ giá biến động hoặc là khi nhà thầu ngoại quốc trì hoãn việc nhập khẩu thì có thể cũng dẫn tới tiến độ bị chậm trễ và chi phí gia tăng. Trong thời gian tới, khi Việt Nam tiến hành các dự án quy mô lớn hơn như đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, nếu không có các biện pháp chuẩn bị kỹ lưỡng và các bước đi nhằm tháo gỡ các vướng mắc như tôi vừa nêu, chắc chắn dự án cũng sẽ gặp phải những vấn đề đội vốn và trễ hạn. RFI: Đối với những dự án quan trọng như đường sắt cao tốc Bắc - Nam thì liệu Việt Nam có đủ trình độ kỹ thuật để tự mình thực hiện, hay là chúng ta phải nhờ đến trợ giúp của những nước đã có những kinh nghiệm, trình độ về những dự án tương tự? Lê Hồng Hiệp: Trong lĩnh vực xây dựng các tuyến đường cao tốc chẳng hạn, tôi nghĩ là Việt Nam có thể hoàn toàn đủ trình độ để làm được. Còn đối với lĩnh vực đường sắt thì chắc chắn là Việt Nam sẽ không đủ năng lực về mặt kỹ thuật để tự mình thực hiện. Các dự án đơn giản hơn rất nhiều như các tuyến metro ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh thì cho tới lúc này chúng ta không tự chủ được về công nghệ mà phải dựa vào công nghệ nước ngoài. Tuyến Cát Linh - Hà Đông là dựa vào công nghệ Trung Quốc, hay tuyến Bến Thành - Suối Tiên ở Thành phố Hồ Chí Minh là dựa vào công nghệ của Nhật. Ngay cả những dự án đường sắt đô thị như vậy mà chúng ta cũng phải dựa vào công nghệ nước ngoài, thì dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam chắc chắn cũng sẽ phải dựa vào công nghệ nước ngoài. Hiện tại Việt Nam chưa nêu rõ là sẽ nhập công nghệ từ nước nào, nhưng chúng ta có thể dễ dàng đoán được chắc chắn là sẽ tới từ những quốc gia có công nghệ đường sắt phát triển như là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc hay là Pháp, Đức ... Bên cạnh việc nhập về các công nghệ lõi, liên quan tới hệ thống động cơ, hệ thống đầu kéo, hay hệ thống điều khiển tín hiệu, vân vân, thì Việt Nam sẽ tự làm được những hạng mục nào và có thể nội địa hóa được bao nhiêu phần trăm các công đoạn các công nghệ liên quan tới cái dự án này? Vừa rồi tập đoàn Hòa Phát tuyên bố họ có khả năng cung cấp được thép làm đường ray của đường sắt tốc độ cao chẳng hạn. Ngoài Hòa Phát, còn có những công ty nào có thể cung cấp được các được các trang thiết bị đầu vào cho dự án này? Đấy là vấn đề mà chúng ta cần quan tâm. Bao nhiêu phần trăm trong suất đầu tư lên lên tới 67 tỷ đô la Mỹ đấy sẽ ở lại Việt Nam và bao nhiêu sẽ chi trả cho đối
Sau 12 năm đàm phán, Việt Nam và Indonesia đã đạt được thỏa thuận về phân định vùng đặc quyền kinh tế. Văn bản được công bố chính thức ngày 23/12/2022 trong chuyến thăm cấp Nhà nước Jakarta của chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc. Bước cuối cùng là Quốc Hội hai nước phê chuẩn văn bản để có chính thức có hiệu lực và giải quyết những căng thẳng, bất đồng và cùng phát triển khai thác tài nguyên theo đúng luật biển quốc tế. Trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt ngày 18/04/2025, nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, Trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), nhấn mạnh bối cảnh quan hệ song phương tốt đẹp là một trong những yếu tố giúp Việt Nam và Indonesia thiết lập được thỏa thuận. Năm 2025, hai nước kỷ niệm 70 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Quan hệ “đối tác chiến lược” có từ năm 2013 được nâng lên thành “đối tác chiến lược toàn diện” vào ngày 09/03/2025 nhân chuyến thăm cấp Nhà nước của tổng bí thư Tô Lâm tới Indonesia. Về kinh tế, trong ASEAN, Indonesia là đối tác thương mại lớn thứ ba của Việt Nam và Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ tư của Indonesia. Mục tiêu của hai chính phủ là tăng kim ngạch thương mại song phương lên 18 tỷ đô la vào năm 2028. RFI : Việt Nam và Indonesia sớm phê chuẩn hiệp định phân định vùng đặc quyền kinh tế (EEZ). Việt Nam và Indonesia có những yêu sách cụ thể như nào ở Biển Đông ? Laurent Gédéon : Các cuộc đàm phán về pháp lý liên quan đến hiệp định tập trung vào việc giải quyết các vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn mà Việt Nam và Indonesia đều đòi chủ quyền. Tôi muốn nhắc lại cả hai nước đều là thành viên của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, được Indonesia phê chuẩn ngày 03/02/1986 và Việt Nam phê chuẩn ngày 25/07/1994. Như vậy, cả hai nước đều công nhận luật biển quốc tế. Sự chồng lấn về chủ quyền giữa hai nước liên quan đến vùng biển xung quanh quần đảo Natuna ở phía nam Biển Đông. Đối với Việt Nam, đường phân định EEZ phải trùng với ranh giới thềm lục địa giữa Indonesia và Việt Nam. Hà Nội dựa vào thực tế là ranh giới này đã được xác định vào năm 2003 thông qua một thỏa thuận song phương. Ngược lại, Indonesia cho rằng ranh giới của vùng đặc quyền kinh tế cần được đàm phán riêng biệt với ranh giới của thềm lục địa. Jakarta lập luận rằng theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), đây là hai vùng biển riêng biệt, cho nên phải được đàm phán riêng. Do đó, Indonesia muốn tính đến đường trung tuyến giữa quần đảo Natuna và Côn Đảo : Quần đảo Natuna cách đảo Kalimantan của Indonesia khoảng 300 km, còn Côn Đảo cách bờ biển Việt Nam khoảng 90 km. Nhưng đối với Hà Nội, việc sử dụng đường trung tuyến giữa các quần đảo là không công bằng vì có lợi cho Indonesia. Đọc thêmViệt Nam và Indonesia đạt đồng thuận về phân định vùng đặc quyền kinh tế Nhiều vấn đề pháp lý khác cũng đã được nêu lên trong quá trình đàm phán, đặc biệt là những khác biệt trong các đường cơ sở được sử dụng để đo khu vực phân định. Là một quốc gia quần đảo, Indonesia được phép sử dụng đường cơ sở quần đảo, tức là các đường thẳng, không nhất thiết phải chạy theo đường bờ biển, trong khi Việt Nam chỉ có thể sử dụng đường cơ sở thông thường chạy theo đường bờ biển. Hai phương pháp cơ bản khác nhau này làm phức tạp các cuộc đàm phán vì Hà Nội cho rằng điều này làm suy yếu vị thế của họ. Bất chấp những khác biệt, Indonesia và Việt Nam cuối cùng đã thống nhất về hai đường ranh giới phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, trong đó quy định rằng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế là hai vùng biển riêng biệt cần được đàm phán riêng. Tuy nhiên, do tính chất bảo mật của các cuộc đàm phán song phương, cách thức hai bên áp dụng phương pháp đường trung tuyến để giải quyết tranh chấp của họ đã không được tiết lộ, nhưng không thể phủ nhận rằng đây là một sự thỏa hiệp mang tính sáng tạo, thể hiện bước tiến pháp lý đáng kể trong khi vẫn tuân thủ các nguyên tắc của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. RFI : Thỏa thuận về vùng đặc quyền kinh tế là bước tiến quan trọng sau hơn một thập niên đàm phán. Triển vọng của cả hai nước sẽ thế nào, cũng như tương lai về mối quan hệ giữa hai nước với Trung Quốc ? Laurent Gédéon : Như đã nói, Hiệp định về vùng đặc quyền kinh tế giữa Indonesia và Việt Nam là một bước tiến lớn không chỉ trong quan hệ song phương giữa hai nước mà còn cho toàn bộ môi trường khu vực. Hệ quả đầu tiên và rõ ràng nhất là thỏa thuận này sẽ chấm dứt căng thẳng giữa hai nước liên quan đến hoạt động đánh bắt cá của tàu thuyền Việt Nam trong vùng biển vẫn được Indonesia coi là vùng đặc quyền kinh tế của họ. Hệ quả thứ hai liên quan đến các nguồn năng lượng trong khu vực này, đặc biệt là khí đốt tự nhiên, một số mỏ nằm ở phần EEZ của Indonesia giáp với EEZ của Việt Nam. Việc làm rõ ranh giới giữa hai vùng đặc quyền kinh tế sẽ cho phép Indonesia tự do phát triển hoạt động thăm dò và khai thác nguồn tài nguyên này. Hệ quả thứ ba mang tính chất pháp lý bởi vì thỏa thuận Việt Nam-Indonesia mở đường cho các thỏa thuận tương tự có thể có giữa các nước khác trong khu vực, có nghĩa là có thể thấy trong việc áp dụng đường phân định kép (thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế) một mô hình cho các cuộc đàm phán trong tương lai. Hệ quả cuối cùng ảnh hưởng đến Trung Quốc vì đường ranh giới chung do Việt Nam và Indonesia thiết lập chồng lấn một phần với đường chín đoạn đánh dấu yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với phần lớn Biển Đông. Đọc thêmViệt Nam kêu gọi ASEAN đoàn kết vào lúc Bắc Kinh lấn lướt ở Biển Đông Tuy nhiên, có một thắc mắc về chính sách của Indonesia liên quan đến Trung Quốc. Nhân chuyến thăm Bắc Kinh ngày 09/11/2024 của tổng thống Indonesia Prabowo Subianto, nhiều thỏa thuận đã được ký kết, kể cả hợp tác công nghiệp và khai khoáng, hợp tác thương mại, với tổng giá trị lên tới 10 tỷ đô la. Ngoài ra còn có một thỏa thuận về hợp tác hàng hải, trong đó hai bên cam kết cùng nhau phát triển kinh tế hàng hải ở Biển Đông, bao gồm cả những khu vực có tranh chấp chồng lấn. Tuyên bố chung được đưa ra trong dịp này nêu rõ rằng hai nước đã “đạt được một thỏa thuận quan trọng về phát triển chung ở những khu vực có yêu sách chồng lấn”. Tuy nhiên cho đến nay, tất cả các nước có tranh chấp hàng hải với Bắc Kinh, như Indonesia, Philippines, Việt Nam, Brunei, Malaysia và Đài Loan, đều tránh tham gia vào thỏa thuận phát triển chung với Trung Quốc vì sợ rằng việc đó sẽ bị hiểu là công nhận chính thức các yêu sách của Trung Quốc. Mặc dù Indonesia đã thận trọng khẳng định lại rằng họ không công nhận các yêu sách quá đáng của Trung Quốc đối với Biển Đông, nhưng thỏa thuận giữa Bắc Kinh và Jakarta đã đánh dấu sự phá vỡ lập luận trước đây và cho thấy rõ mâu thuẫn trong lập trường của Indonesia về luật hàng hải quốc tế. Về phần Việt Nam, quốc gia không bị ràng buộc bởi bất kỳ thỏa thuận chung nào với Trung Quốc về các khu vực tranh chấp, vẫn kiên định với lập trường của họ và trong phản đối các yêu sách hàng hải của Trung Quốc. Đối với Hà Nội, thỏa thuận này chắc chắn là một bước đột phá ngoại giao lớn và là tiền lệ pháp lý mà Hà Nội có thể khai thác ở cấp độ ngoại giao. Ngoài ra, thỏa thuận cũng có lợi thế là không đặt Hà Nội vào thế đối đầu trực tiếp với Bắc Kinh trong khi vẫn khẳng định được cam kết của họ đối với luật pháp quốc tế. RFI : Sau thỏa thuận về vùng đặc quyền kinh tế giữa Việt Nam và Indonesia, liệu đã có thể nói đến một liên minh đối trọng Philippines, Indonesia, Việt Nam để đối phó với các yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông không ? Laurent Gédéon : Có, trong bối cảnh Trung Quốc luôn chú ý đến việc không để một mặt trận chống Trung Quốc trỗi dậy giữa các quốc gia ven Biển Đông và rộng hơn là trong ASEAN, thì thỏa thuận Việt Nam-Indonesia mở đường cho sự xuất hiện của các chiến lược tập thể đối phó với những tranh chấp hàng hải ở Biển Đông. Những chiến lược này đáng chú ý - và cũng gây vấn đề cho Trung Quốc - vì chúng được thực hiện theo cách tuân thủ chặt chẽ luật hàng hải quốc tế. Việc này càng giành được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế và củng cố thêm sự cô lập của Trung Quốc đối với các yêu sách chủ quyền tối đa của nước này. Đọc thêmThỏa thuận Việt Nam - Indonesia: Một hướng giải quyết tranh chấp Biển Đông? Cho nên chúng ta có thể thấy những thỏa thuận kiểu này gia tăng trong tương lai, đặc biệt là liên quan đến Việt Nam, Philippines và Malaysia. Đó là một quá trình dài, trước hết đòi hỏi các đối tác tăng cường tin tưởng nhau, và sẽ ngày càng phức tạp hơn vì liên quan đến các vùng biển quanh quần đảo Trường Sa, nơi vẫn được biết đến là trung tâm của các vấn đề địa-chiến lược đặc biệt quan trọng. Ngoài ra, cũng cần lưu ý rằng việc ký kết các hiệp định quốc tế là sự kiện quan trọng nhưng việc thực hiện chúng cũng quan trọng không kém. Và về điểm này, sẽ cần phải phân tích cẩn thận những tác động thực địa của hiệp định Việt Nam-Indonesia để đưa ra kết luận và phát triển các phân tích triển vọng có thể diễn ra. Cho nên, ngoài một liên minh đối trọng giữa Philippines, Việt Nam và Indonesia, chúng ta có thể xem rằng các thỏa thuận kiểu này phù hợp với sự hội tụ lợi ích ngầm hoặc rõ ràng của ba nước vì chúng hạn chế khả năng của Trung Quốc trong việc khẳng định các yêu sách chủ quyền và dẫn đến việc Bắc Kinh ngày càng bị cô lập về pháp lý. Dĩ nhiên Trung Quốc có thể tìm cách đảo ngược để áp đặt quan điểm của họ, nhưng việc đó sẽ làm giảm thêm tính hợp pháp về mặt pháp lý của các hành động, yêu sách của Bắc Kinh. Do đó, thỏa thuận này có thể đóng vai trò là mô hình giải quyết các tranh chấp hàng hải khác ở Đông Nam Á và tạo thành đòn bẩy ngoại giao khôn khéo để thay đổi tình hình trong khu vực. RFI : Việt Nam đã bị Ủy Ban Châu Âu đưa ra “thẻ vàng” về tình trạng đánh bắt cá bất hợp pháp. Thỏa thuận với Indonesia được coi là dấu chấm hết cho tình trạng đánh bắt cá bất hợp pháp trong khu vực. Liệu đây có phải là một kiểu cam kết để cá Việt Nam có thể vào thị trường châu Âu không ? Laurent Gédéon : Vùng đặc quyền kinh tế cho phép một quốc gia tiếp cận độc quyền các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở vùng biển và đáy biển của nước đó. Việc phân định rõ ràng không gian này thường giúp tránh được những hiểu lầm và mâu
Trong lĩnh vực pháp lý, hợp tác giữa Pháp với Việt Nam là hợp tác lâu đời nhất so với các nước phương Tây khác và hiện nay, một trong những tổ chức tham gia tích cực nhất vào hợp tác pháp lý Pháp - Việt, đó là Hội Hợp tác Pháp lý Châu Âu-Việt Nam ( ACJEV ), mà chủ tịch là nữ luật sư Thị Mỹ Hạnh Ngô Folliot. Bà Ngô Folliot cũng là chủ tịch Ủy ban Việt Nam của Luật sư đoàn Paris, một ủy ban được thành lập vào năm 2013. Trả lời RFI Việt ngữ tại Paris ngày 09/05/2025, luật sư Ngô Folliot nhắc lại: “Hợp tác pháp lý giữa Pháp và Việt Nam là hợp tác lâu đời nhất trong số các nước phương Tây với Việt Nam. Hợp tác này bắt đầu từ năm 1993, với việc thành lập Nhà Pháp luật Việt-Pháp. Trung tâm này đã hoạt động rất tốt cho đến khi đóng cửa năm 2012, vì nhiều lý do. Luật sư đoàn Paris đã thành lập Ủy ban Việt Nam để tiếp nối hoạt động của Nhà Pháp luật, thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo để hỗ trợ Việt Nam. Có thể nói là tôi hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực pháp lý gần như hằng ngày. Tôi thường xuyên phải trả lời những tham vấn, những câu hỏi của một sinh viên, một giáo sư hay một luật sư từ Việt Nam. Nhất là ở Pháp, với tư cách là chủ tịch Ủy ban Việt Nam của Luật sư đoàn Paris, trong khuôn khổ chương trình thực tập quốc tế, tôi còn tiếp nhận các sinh viên ngành luật, các luật sư Việt Nam sang Pháp thực tập. Họ tham gia các khóa thực tập bằng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp, từ 3 tuần học lý thuyết tại Luật sư đoàn Paris và 3 tuần đến 1 tháng thực tập trong văn phòng luật sư của tôi. ” Cùng với đà phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, tranh chấp xảy ra ngày càng nhiều và vì thế cần phải có những phương thức giải quyết tranh chấp, bao gồm thương lượng, hòa giải, trọng tài và giải quyết tranh chấp bằng toà án. Hiện nay trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, hoà giải đang dần dần trở thành phương thức giải quyết tranh chấp được các luật sư cũng như doanh nghiệp ưa chuộng. Các nhà hòa giải ở Việt Nam càng cần phải học hỏi kinh nghiệm từ các nước, trong đó có Pháp. Dưới sự bảo trợ của đại sứ quán Pháp tại Hà Nội, vào tháng 7 tới, Hội ACJEV sẽ phối hợp sẽ với Trung tâm Hòa giải Thương mại Quốc tế của Việt Nam và một số cơ quan khác, tổ chức những cuộc hội thảo ở ba thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và Quy Nhơn về đề tài: “Hòa giải, hòa giải ở năm lục địa và vai trò của luật sư”. Luật sư Ngô Folliot cho biết: “Đây là lần thứ ba chúng tôi tổ chức hội thảo về vấn đề hòa giải. Dầu sao thì các chủ đề chính là do phía Việt Nam lựa chọn theo nhu cầu của họ. Gần đây nhất là vào năm 2023, chúng tôi đã trình bày về hòa giải tại Pháp và châu Âu. Điều mà những người bạn trong giới đại học Việt Nam, cũng như các hiệp hội luật sư và sinh viên quan tâm chính là các trung tâm hòa giải, mà đó cũng chính là hoạt động của chúng tôi. Vì vậy, chúng tôi trao đổi rất nhiều về hoạt động chuyên môn của mình. Hoạt động hòa giải ở Việt Nam có nền tảng chung với hoạt động hòa giải ở Pháp và châu Âu. Ở Việt Nam hiện nay, hòa giải là bắt buộc, là điều kiện tiên quyết trước khi đưa vụ việc ra tòa, giống như ở Pháp, Ý và các nước khác ở châu Âu. Đó là hòa giải trong khuôn khổ của tòa án. Nhưng cũng có những hình thức hòa giải ngoài tòa án, như hòa giải cơ sở, được sử dụng để giải quyết các tranh chấp trong khu phố. Đây là hình thức hòa giải thành công nhất và vẫn luôn tồn tại ở Việt Nam. Còn hoạt động hòa giải thương mại tại Việt Nam ra đời từ nghị định năm 2017 khi các tranh chấp thương mại bùng nổ tại Việt Nam. Việc hòa giải là cần thiết và đặc điểm của nó là tính bảo mật. Người hòa giải cũng như các bên được yêu cầu không tiết lộ những gì đang diễn ra trong quá trình hòa giải, để có được sự tin tưởng của các bên liên quan khi sử dụng phương pháp giải quyết tranh chấp này. Tất nhiên vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng đến nay, với nghị định về hòa giải thương mại năm 2017, tức là 8 năm sau, hòa giải thương mại tại Việt Nam đã có nhiều tiến bộ. Tuy vậy, đây vẫn chưa phải là biện pháp thành công nhất để giải quyết các tranh chấp thương mại. Những cuộc hội thảo đầu tiên do hội ACJEV tổ chức cũng như trong các cuộc hội thảo sắp tới chính là dịp để hai bên trao đổi kinh nghiệm về các hoạt động hòa giải, đặc biệt là kinh nghiệm của phía Pháp về những nhà hòa giải chuyên trách, theo lời luật sư Ngô Folliot:“Ví dụ, có những tranh chấp chuyên biệt, tức là trong các lĩnh vực phân phối, xây dựng, năng lượng tái tạo, có những người hòa giải chuyên về các lĩnh vực này và họ sẽ can thiệp. Ngoài ra, ngay cả ở Việt Nam, ngày càng có nhiều tranh chấp với chính quyền có thể được giải quyết bằng phương pháp hòa giải. Trong lĩnh vực này, nhóm chúng tôi có hai chuyên gia, một cựu thẩm phán và một luật sư. Nói chung là các nhà hòa giải được chuyên môn hóa theo từng lĩnh vực. Ngoài những người làm công việc hòa giải cơ sở hoặc các hoạt động hòa giải khác, còn có các nhà hòa giải chuyên về một số lĩnh vực nhất định. Bằng chứng là trong hội thảo mà chúng tôi tổ chức, có một nhà hòa giải trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, một nhà hòa giải trong lĩnh vực xây dựng, một nhà hòa giải trong các tranh chấp giữa nhà phân phối và nhà cung cấp. Những kinh nghiệm của Pháp và châu Âu luôn được bạn bè Việt Nam quan tâm, vì chúng ta không hành động theo cùng một cách. Ngay cả khi về cơ bản luật của hai nước có những nét giống nhau, nhưng về thực tiễn chắc chắn có những khác biệt. Chúng tôi quan tâm đến các hoạt động của Việt Nam, cũng như Việt Nam quan tâm đến các hoạt động của Pháp và châu Âu. Các hội thảo sẽ được tổ chức tại Hà Nội vào ngày 4 tháng 7, tại Đà Nẵng ngày 9 tháng 7 và sau đó là tại Quy Nhơn ngày 12 tháng 7. Tại sao lại phải tổ chức ở ba địa điểm khác nhau? Đó chính là để cho càng nhiều người Việt Nam càng tốt tham dự các hội thảo này và có thể trao đổi với chúng tôi. Ngoài các hội thảo, còn có các cuộc thảo luận. Trong suốt năm, vẫn có những trao đổi ý tưởng giữa luật sư Việt Nam và Pháp và chúng tôi liên tục trao đổi ý tưởng để cải thiện cả hoạt động thực hành và kiến thức của mình.”Chính là qua các cuộc hội thảo cũng như qua các trao đổi thường xuyên mà luật sư Ngô Folliot hiểu rõ hơn về hoạt động hòa giải ở Việt Nam, một lĩnh vực còn khá mới so với các lĩnh vực pháp lý khác:“Dĩ nhiên là luật lệ luôn cần được thay đổi để thích ứng với nhu cầu, với bối cảnh của đất nước, bối cảnh toàn cầu. Luôn có những điểm cần cải thiện, nhưng tôi thấy luật hòa giải của Việt Nam đã khá hoàn chỉnh mặc dù được ban hành những năm gần đây. Chắc chắn có những điểm cần hoàn thiện, nhưng không phải là về nội dung, mà chỉ là trong thực hành, chúng ta cần phải tiến xa hơn nữa. Luật hòa giải thương mại đã có từ 8 năm trước, Luật hòa giải, đối thoại thì mới được soạn thảo từ năm 2020 và có hiệu lực từ năm 2021. Chúng ta đã ở giai đoạn đầu với tất cả 16 tỉnh đều đã thực hiện thử nghiệm, tình hình chỉ có thể được cải thiện hơn. Hòa giải người tiêu dùng là phương thức hòa giải cơ bản nhất, có từ lâu nhất. Ở Pháp, chúng tôi có những người hòa giải chuyên trách cho từng lĩnh vực, ví dụ, nếu bạn có tranh chấp với một tiệm giặt ủi, bạn nên liên hệ với tổ chức quản lý các tiệm này. Nếu bạn có vấn đề về năng lượng hoặc điện, bạn hãy liên hệ với một chuyên gia hòa giải, mỗi lĩnh vực đều phải có người trung gian hòa giải riêng. Ngay cả trong giới luật sư, khi có tranh chấp giữa chúng tôi thì cũng cần có người hòa giải, phải cố giải quyết vấn đề thông qua người hòa giải trước khi tiến hành tố tụng. Tôi không biết ở Việt Nam có người hòa giải nào cho luật sư hay không, nhưng ngày càng có nhiều người hòa giải chuyên trách và họ sẽ phải được đào tạo trong các lĩnh vực họ hành nghề. Những người hòa giải phải hành xử một cách độc lập, vô tư và phải xử lý vấn đề như thể họ không biết các bên. Ngoại trừ trong các tranh chấp láng giềng: Ở Việt Nam có một đặc thù là người hòa giải phải là người biết rõ các bên, vì xung đột thường xảy ra ở làng quê, hay ở các thành phố nơi mọi người đều biết nhau, gia đình rất quan trọng. Trong trường hợp này, người hòa giải biết rõ các bên và gia đình của họ. Điều này rõ ràng là giúp giải quyết vấn đề tốt hơn.”Cuộc hội thảo được tổ chức tại Đại học Ngoại thương ở Hà Nội ngày 04/07 sẽ là dịp để hai bên Pháp - Việt Nam trao đổi về hoạt động hòa giải trên khắp 5 châu, đặc biệt là tại Pháp, châu Âu và châu Phi cũng như tại châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng. Các diễn giả cũng sẽ trình bày về hòa giải cho những tranh chấp trong các lĩnh vực phân phối, xây dựng, năng lượng sạch và tranh chấp với cơ quan hành chính.



