Discover
Tạp chí tiêu điểm
318 Episodes
Reverse
Kế hoạch hòa bình cho Gaza của tổng thống Mỹ Donald Trump được các bên xung đột chấp thuận và giai đoạn một đã nhanh chóng được triển khai vào giữa tháng 10/2025. Lần đầu từ kể khi xung đột bùng nổ cách nay hai năm, viễn cảnh hòa bình lâu dài cho Gaza hé mở. Giải giáp lực lượng quân sự của Hamas là đòi hỏi chủ yếu của Israel để tổ chức mà nhiều nước phương Tây coi là « khủng bố » này không còn là mối đe dọa với Nhà nước Do Thái. Tổ chức Hamas không tự nguyện buông súng và để ngỏ khả năng gắn liền vấn đề này với sự ra đời của một Nhà nước Palestine có chủ quyền. Theo giới quan sát, viễn cảnh giải giáp lực lượng Hamas, một nội dung chính trong kế hoạch hòa bình 20 điểm của tổng thống Mỹ, có khả năng thực thi được hay không là một vấn đề còn hoàn toàn để ngỏ. Hamas suy yếu, buộc phải chấp nhận thỏa thuận « hạ vũ khí » Sau khi kế hoạch 20 điểm của tổng thống Mỹ được công bố, chuyên gia về chiến tranh đô thị John Spencer, Học viện Quân sự Hoa Kỳ tại West Point, một người thân cận với thủ tướng Israel Netanyahu, tỏ ra rất tin tưởng vào viễn cảnh thực thi việc tước vũ khí của Hamas: « Kế hoạch 20 điểm được thảo ra là một kế hoạch hòa bình toàn diện, hoàn toàn loại bỏ Hamas khỏi vai trò là một tác nhân. Nếu mọi điểm của kế hoạch đó được tuân thủ thì sẽ không còn Hamas nữa. Hamas sẽ không có vai trò gì trong các nỗ lực chính trị, thậm chí là trong các hoạt động xây dựng xã hội trong tương lai. Điều quan trọng nữa là các quốc gia với đa số là người Ả Rập và Hồi giáo đã ký kết vào kế hoạch này. Đây không phải là một thương vụ để đàm phán, mà là một kế hoạch 20 điểm để thực hiện… Dải Gaza sẽ được phi cực đoan hóa và phi quân sự hóa. Hamas sẽ phải từ bỏ tất cả vũ khí. Chắc chắn kế hoạch này là chiến thắng hoàn toàn của Israel, nhưng cũng phục vụ các lợi ích của người Palestine không thuộc Hamas. Người Palestine sẽ có một chính phủ mới. Sẽ có một chương trình giáo dục giải cực đoan, và thậm chí cả con đường hướng tới quyền tự quyết của người Palestine nói chung. Kế hoạch này mang lại nhiều tiềm năng nhất cho hòa bình, không chỉ cho Gaza mà còn cho người dân Palestine. » Đọc thêm : Israel và Hamas đạt thỏa thuận về giai đoạn đầu trong kế hoạch hòa bình của Trump cho Gaza Tuy nhiên, thách thức của việc thực thi mục tiêu giải giới lực lượng vũ trang Hamas nằm ngay trong các điều khoản của kế hoạch này. Theo nhà nghiên cứu David Rigoulet-Roze, Viện Phân tích Chiến lược Pháp (IFAS), chuyên gia về các cuộc xung đột ở Trung Đông, điều 13 của kế hoạch quy định việc « phi quân sự hóa » bao gồm phá hủy cơ sở hạ tầng quân sự (đường hầm, kho vũ khí và xưởng sản xuất vũ khí), nhưng hiện tại vẫn chưa có thỏa thuận cụ thể về việc giám sát quá trình này. Trong chuyến công du mới đây tại Israel, phó tổng thống Mỹ J.D Vance thừa nhận là không có thời hạn cụ thể cho việc giải giáp Hamas. Sau hai năm chiến tranh, Hamas vẫn là một thế lực Theo giới chuyên gia, hai năm sau khi xung đột bắt đầu, lực lượng Hamas vẫn bám trụ vững chắc ở dải Gaza, mặc dù suy yếu nhiều. Hiện chưa có số liệu thống kê chính xác về tổn thất của phong trào Hồi giáo này. Nhiều nguồn tin đưa ra con số từ 8.000 đến 12.000 chiến binh thiệt mạng trong hai năm chiến tranh, trên tổng số 25.000 đến 30.000 chiến binh Palestine trước vụ khủng bố ngày 07/10/2023. Hamas có thể vẫn tiếp tục tuyển mộ thêm đến 15.000 chiến binh trong thời gian chiến tranh chống Israel, theo một số nguồn tin Mỹ, được trang mạng Bỉ RTL trích dẫn. Theo truyền thông Anh quốc, chỉ vài giờ sau khi lệnh ngừng bắn được thực thi, Hamas đã ngay lập tức triển khai đến 7.000 chiến binh trên những vùng đất mà Israel rút quân. Một số giới chức Hamas cho biết mục tiêu là để bảo đảm an ninh chống lại những kẻ trộm cướp và các băng đảng người Palestine được sự hậu thuẫn của quân đội Israel trước đây. Đọc thêm - Trung Đông : Phe Hamas từ chối cam kết giải giáp Hamas sở hữu một kho vũ khí đa dạng, bao gồm vũ khí hạng nhẹ, hỏa tiễn tự chế và drone thô sơ. Theo ghi nhận năm 2018 của Small Arms Survey, một chương trình nghiên cứu chuyên về vũ khí của Thụy Sĩ, Hamas từ lâu đã phát triển một ngành công nghiệp tại chỗ để sản xuất hỏa tiễn từ các vật liệu dân dụng. Dự trữ vũ khí của Hamas được đánh giá là phân tán, rất khó truy tìm. Sức mạnh Hamas (1) : Hệ thống đường hầm hàng trăm cây số Sức mạnh quân sự của Hamas một phần chủ yếu dựa vào các hệ thống đường hầm nằm sâu trong lòng đất dài hàng trăm cây số, và các đô thị ở dải Gaza được Hamas dày công xây dựng để biến thành các thành lũy khó chinh phục. Chuyên gia về chiến tranh đô thị John Spencer nhận định hệ thống đường hầm quân sự nhưng gắn liền với các công trình dân sự, và hệ thống phòng thủ đô thị nói chung ở Gaza là độc nhất vô nhị : « Hamas cai quản dải Gaza từ năm 2005 đã chi hơn một tỷ đô la cho hệ thống đường hầm phức hợp ước tính dài hơn 350 dặm, dành cho mục đích quân sự, nằm bên dưới các khu vực đô thị của Gaza, bắt đầu từ ngay dưới các tòa nhà cho đến hơn độ sâu khoảng 60 mét dưới lòng đất. Không chỉ đường hầm, mà mọi khía cạnh của môi trường Gaza đã được Hamas chuẩn bị cho chiến tranh trong vòng 20 năm, kể từ khi họ nắm quyền vào năm 2007. Nhưng trước đó nữa, ngay cả trong giai đoạn Israel chiếm đóng dải Gaza (cho đến năm 2005), Hamas đã xây dựng nhiều đường hầm vì mục tiêu quân sự. Đó là một điều rất độc đáo và thực sự độc nhất vô nhị trong lịch sử chiến tranh đô thị. Trong lịch sử, hầu hết các trận chiến đô thị đều là nơi mà bên phòng thủ có rất ít thời gian chuẩn bị. Càng có nhiều thời gian chuẩn bị phòng thủ thì chiến tranh càng kéo dài và càng tàn khốc. Một số trận chiến lớn nhất trong lịch sử chiến tranh đô thị như Stalingrad về cơ bản là giao tranh giữa hai lực lượng quân đội trên địa hình đô thị. Trận chiến đô thị lớn nhất kể từ Đệ nhị Thế chiến II, trước chiến tranh Ukraina, là trận Mosul, một trận chiến kéo dài chín tháng để giành lại thành phố từ tay tổ chức Nhà nước Hồi giáo. Phải huy động đến hơn 100.000 quân, lực lượng an ninh Irak mới giành lại được thành phố (có từ 3.000 đến 5.000 quân cố thủ), vì Daech đã có hai năm chuẩn bị phòng thủ. Trong khi tại thành phố lớn như Gaza, Hamas đã có 20 năm chuẩn bị. Bên dưới mỗi bước chân người đi đường đều có một đường hầm. Về cơ bản, mọi ngôi nhà đều đã được quân sự hóa, hầu hết đều có kho chứa bom, thiết bị nổ tự chế hoặc vị trí bắn tỉa. » Sau hai năm chiến tranh, với khoảng 80% khu vực Gaza bị phá hủy, và 90% vũ khí hạng nặng của Hamas bị tiêu hủy, theo quân đội Israel, Hamas không còn là mối đe dọa trực tiếp với Israel, nhưng 60% của hệ thống đường hầm 500, 600 km vẫn còn nguyên vẹn, theo số liệu của chính Israel. Sức mạnh của Hamas không chỉ ở hệ thống đường hầm quân sự độc nhất vô nhị này, mà một phần chủ yếu nằm ở việc tại dải Gaza, Hamas không có đối thủ cạnh tranh. Theo nhà nghiên cứu Hugh Lovatt, chuyên về Trung Đông và Bắc Phi tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại Châu Âu, Hamas không thể sụp đổ, do các nhóm đối địch « không có đủ sức mạnh quân sự để đạt được điều này » và « cũng không có được sự ủng hộ của người Palestine, nhất là khi họ bị mất uy tín do mối quan hệ với Israel ». Sức mạnh Hamas (2): Từ phong trào thuần túy tôn giáo đến bàn tay sắt tại Gaza Về nguồn gốc của tổ chức độc quyền thống trị dải Gaza từ năm 2006, nhà xã hội học chính trị Laetitia Bucaille, Viện INALCO và Trung tâm CESMA, tác giả cuốn « Gaza quel avenir ? » (Tương lai nào cho Gaza ?) vừa ra mắt, nhấn mạnh đến quan hệ với Huynh đệ Hồi giáo, một tổ chức tôn giáo với tham vọng chính trị mang tầm vóc khu vực (Radio France) : « Hamas là từ viết tắt tiếng Ả Rập của Phong trào Kháng chiến Hồi giáo, được thành lập vào cuối năm 1987, thời điểm bắt đầu Intifada lần thứ nhất, tức phong trào phản kháng của người Palestine chống lại ách cai trị của Isarel. Phong trào này là một nhánh chính trị của tổ chức Huynh đệ Hồi Giáo. Chúng ta biết là Huynh đệ Hồi giáo bắt đầu thành lập các mạng lưới hoạt động tại các vùng lãnh thổ Palestine vào cuối những năm 1970, được Ả Rập Xê Út và Koweit tài trợ. Các thế lực này dựa vào việc tái Hồi giáo hóa xã hội để chuẩn bị về dài hạn tái chiếm Palestine. Với họ, chủ nghĩa dân tộc Ả Rập thế tục đã thất bại, và họ tin tưởng lực lượng tiếp nối giúp đạt được mục tiêu này chính là Hồi giáo. » Hamas độc quyền thống trị tại dải Gaza sau cuộc bầu cử năm 2006. Nhà nhân chủng học Đức Susanne Schroter, trong bộ phim tài liệu « Hệ thống Hamas » (của Arte), mô tả « sau chiến thắng bầu cử, họ đã tấn công Fatah, một phong trào chính trị yếu hơn, bằng những hành động cực kỳ tàn bạo. Bắn người tại nơi làm việc, buộc họ phải rời bỏ nhà cửa, trục xuất họ khỏi đất nước. Hamas đã bộc lộ bản chất thật sự của mình và gửi một thông điệp rõ ràng đến người dân Palestine: Không có sự phản đối nào được dung thứ. » Đọc thêm - Điểm lại lịch sử tranh đấu vì độc lập: Từ "20 năm bị xóa sổ" đến Nhà nước Palestine Nhà sử học Đức Ulrik Becker, cũng trong bộ phim tài liệu nói trên, nhấn mạnh đến việc tổ chức Hồi giáo này, trong thời gian độc quyền kiểm soát Gaza, đã truyền bá rộng rãi tư tưởng thánh chiến dân tộc chủ nghĩa chống Israel cho trẻ em, ngay từ trong nhà trường : « Điều tôi thấy bi thảm và đặc biệt khủng khiếp là hệ tư tưởng hiếu chiến và bài Do Thái này đang được gieo rắc vào đầu óc trẻ em từ rất nhỏ. Thật đáng sợ khi thấy ý tưởng hy sinh bản thân vì lý tưởng thánh chiến lại xuất hiện trong sách giáo khoa và trong mọi môn học. Ví dụ, trong môn toán, có những bài tập như, ‘‘chênh lệch giữa số liệt sĩ bị giết trong cuộc Intifada đầu tiên với cuộc Intifada thứ hai là bao nhiêu ?’’ hoặc trong môn vật lý, ‘‘dùng ná cao su để nhắm vào người Israel, cần tính toán góc bắn như thế nào’’ ». Vòng xoáy hận thù Israel – Palestine: Mảnh đất màu mỡ cho Hamas và quyền lực của Netanyahu Kế hoạch hòa bình 20 điểm cho Gaza của tổng thống Mỹ không xác định rõ lộ trình giải giáp Hamas, không có thời hạn cho việc phi quân sự hóa Gaza. Sau hai năm chiến tranh, bất chấp các tổn thất nặng nề, lực lượng quân sự Hồi giáo dân tộc chủ nghĩa Hamas vẫn còn sở hữu hàng trăm cây số đường hầm, được coi là căn cứ địa vững chắc. Đông đảo người dân Palestine
Từ ngày 08 đến 10/10/2025, tổng thống Vladimir Putin có chuyến thăm cấp nhà nước ba ngày tại Tajikistan vào thời điểm các nước Trung Á đang có những chuyển đổi địa chính trị trong khi Nga tìm cách duy trì ảnh hưởng đang dần suy yếu của mình do cuộc chiến xâm lược Ukraina. Về mặt chính thức, tổng thống Nga đến thủ đô Dushanbe để dự hai cuộc họp quan trọng : Thượng đỉnh Nga và năm nước Trung Á Kazakhstan, Kirghizistan, Ouzbekistan, Tajikistan, và Turkmenistan, và Thượng đỉnh Cộng đồng Các Quốc gia Độc lập (CIS) giữa Nga, năm nước Trung Á cùng với Belarus, Armenia và Azerbaijan. Trung Á : Sân sau chiến lược truyền thống của Nga Theo giới quan sát, những cuộc họp này còn là cách để ông Putin chứng tỏ Nga vẫn duy trì kiểm soát đối với « các nước láng giềng gần », những nước nằm trong vùng ảnh hưởng của Matxcơva, đặc biệt là tại Trung Á, đang trở thành vùng tranh giành ảnh hưởng giữa Trung Quốc và phương Tây. Nhìn từ góc độ lịch sử, Trung Á từ lâu được xem như là sân sau chiến lược của Nga. Và mỗi nước Cộng hòa có những nét đặc biệt và riêng biệt trong quỹ đạo thuộc địa Nga và Xô Viết cũng như là trong mối quan hệ của họ đối với Nga. Các mối liên hệ trong nhiều lĩnh vực kinh tế, thương mại, giáo dục và an ninh, quân sự cũng từ đó được siết chặt hơn. Nhà nghiên cứu về Trung Á đương đại, Isabelle Ohayon, trợ lý giám đốc Trung tâm Nghiên cứu về thế giới Nga, Kavkaz và Trung Âu, trên đài phát thanh France Culture, ngày 08/04/2025, nhắc đến Kazakhstan như một ví dụ điển hình : « Kazakhstan có mối liên hệ rất chặt chẽ và lâu đời với Nga, bởi vì nước này là quốc gia đầu tiên, là không gian đầu tiên bị đế chế Nga đô hộ ngay từ đầu thế kỷ XVIII. Đây cũng là đất nước, trước khi Liên Xô sụp đổ, có cộng đồng cư dân Nga và nói tiếng Nga đông nhất. Người Kazakhstan chỉ chiếm có 39% dân số vào năm 1991 so với tỷ lệ 70% hiện nay. Điều đó cho thấy là hiện tượng Nga hóa, sự hiện diện của Nga, cũng như sự gắn bó với nền văn hóa lớn của Nga theo nghĩa chung đã thâm nhập, thấm nhuần sâu sắc tại Kazakhstan hơn là các nước Cộng hòa khác. Nếu chỉ xét về việc sử dụng ngôn ngữ, tiếng Nga được dùng phổ biến, song ngữ phát triển khá mạnh mẽ ». Năm 1991, Liên Xô tan rã, nhưng các mối quan hệ đó vẫn tồn tại. Theo nữ tiến sĩ Laetitia Spetschinsky, chuyên ngành Quan hệ Quốc tế tại trường đại học Công giáo Louvain, Bỉ, trả lời phỏng vấn báo Bỉ L’Echo, « sự tan rã một đế chế không có nghĩa là toàn bộ cấu trúc được xây dựng trong suốt chiều dài lịch sử bị sụp đổ : Hệ thống liên thông đường sắt và các tiêu chuẩn công nghiệp vẫn được duy trì ». Về điểm này, nhà nhiếp ảnh người Ouzbekistan Timur Karpov, trong một chương trình trên đài truyền hình ARTE (19/11/2024), có cùng nhận định : « Nga luôn gây sức ép mạnh mẽ đối với Uzbekistan. Mối quan hệ giữa hai nước đã bắt đầu phát triển trong suốt thời kỳ Xô Viết. Vào thời điểm đó, toàn bộ giới lãnh đạo đất nước, bằng cách này hay cách khác, đều có liên hệ chặt chẽ với Nga. Hệ quả là việc nước tôi khó thể tách rời khỏi Nga cũng là lẽ tất nhiên ». Chiến tranh Ukraina : Bàn cờ Trung Á được xáo lại Nhưng việc Nga phát động chiến tranh xâm lược Ukraina đã làm thay đổi bàn cờ địa chính trị tại Trung Á. Những phát biểu của ông Putin sẵn sàng dùng vũ lực để chiếm lại những vùng lãnh thổ từng thuộc về đế chế Nga hay để bảo vệ kiều dân Nga ở hải ngoại càng làm gia tăng nỗi lo về an ninh tại các nước Trung Á. Điều này thôi thúc các nước trong khu vực cùng với một số nước vùng Kavkaz bắt đầu mở rộng các mối quan hệ với nhiều nước đối tác cũng như đối thủ của Nga, từ Trung Quốc, Liên Hiệp Châu Âu, cho đến Thổ Nhĩ Kỳ hay các nước Vùng Vịnh, nhằm tìm cách bảo vệ trước nguy cơ một cuộc tấn công mới từ Nga. Đối với năm nước Trung Á, cuộc chiến Ukraina một thời cơ tốt để thiết lập các mối quan hệ mới với nhiều cường quốc khác. Vladislav Inozemstsev, cố vấn đặc biệt tại Viện Nghiên cứu về Truyền thông Trung Đông, trả lời hãng Bloomberg, lưu ý, « tầm ảnh hưởng của Putin đang suy yếu, nhưng sẽ không kéo dài bao lâu ». Trong số các nước tận dụng khoảng trống quyền lực do Nga để lại, Trung Quốc là bên hưởng lợi nhiều nhất. Phóng sự của ký giả Heike Smith, ban tiếng Pháp đài RFI, nêu trường hợp cửa khẩu Khorgos, nằm giữa Trung Quốc và Kazakhstan. Tại đây, các hoạt động vận chuyển hàng hóa từ Trung Quốc sang châu Âu tăng vọt ngoạn mục kể từ khi chiến tranh Ukraina bùng nổ, theo như mô tả của Hicham Belmaachi, một doanh nhân người Maroc. « Từ khi xảy ra chiến tranh ở Ukraina, chúng tôi nhận thấy nhiều công ty quốc tế, đặc biệt là các hãng vận tải biển lớn nhất, đã rút khỏi Nga. Điều này đồng nghĩa với việc các hãng lớn vận tải đường biển quốc tế đã ngừng hoạt động tại Nga. Vì vậy, chúng tôi đã phải thiết kế lại hoàn toàn hệ thống kho bãi tại khu vực này. Cụ thể là Kazakhstan, Uzbekistan và Kyrgyzstan, thay vì nhập khẩu phần lớn sản phẩm từ Nga, nay đã chuyển hướng sang Trung Quốc ». Mối tương quan lực lượng cũng vì thế có thay đổi. Nga không còn thế ưu việt tại Trung Á như trước đây. Nếu như Matxcơva vẫn thống trị khu vực trong lĩnh vực an ninh, Nga lại bị Trung Quốc cạnh tranh trong lĩnh vực thương mại, công nghệ và thậm chí cả ngoại giao. Về điểm này, nhà chính trị học người Kazakhstan, Dossym Satpaiev, giám đốc trung tâm tư vấn Risks Assessment Group, trả lời RFI, nhận định cuộc chiến tại Ukraina đã mang đến một cơ hội tốt cho phép Kazakhstan giữ khoảng cách với Matxcơva. « Đúng là chúng tôi có đường biên giới rất dài với Nga. Khoảng 20% dân số là người Nga. Dầu mỏ xuất khẩu của chúng tôi vẫn đi qua lãnh thổ Nga. Hơn nữa, một phần lãnh thổ Kazakhstan phụ thuộc vào nguồn cung cấp điện của Nga. Kazakhstan cũng nhận khí đốt từ Nga. Vì vậy, Nga vẫn có ảnh hưởng đối với Kazakhstan. Nhưng mặt khác, cuộc chiến ở Ukraina đã tạo cho Kazakhstan một cơ hội tốt để dần dần tách khỏi Matxcơva. Kazakhstan giờ đây phải tìm kiếm một đối trọng địa chính trị với Nga. » Trung Á : Thách thức mới cho Nga Không chỉ có Trung Quốc, nhiều cường quốc phương Tây cũng bắt đầu dòm ngó đến Trung Á, từ Liên Hiệp Châu Âu, Thổ Nhĩ Kỳ, cho đến nước Mỹ của Donald Trump, thông qua các thỏa thuận về đầu tư khai thác khoáng sản, vận chuyển và năng lượng. Trên đài RFI, Michael Levystone, đồng sáng lập Đài Quan sát Tân Á – Âu, chuyên gia về Châu Âu và vùng Á-Âu tại INALCO, nhận xét tiếp : « Đây là khu vực có tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo, chẳng hạn như năng lượng mặt trời ở Uzbekistan, năng lượng gió trên bờ biển Caspi của Kazakhstan và Turkmenistan, và thủy điện, vốn đã rất phát triển ở Kyrgyzstan và Tajikistan. Một khu vực nằm ở ngã tư của các cường quốc : Nga, Trung Quốc, Iran, và cũng không xa Thổ Nhĩ Kỳ. Trong bối cảnh các lệnh trừng phạt rất khắc nghiệt đối với nền kinh tế Nga nhằm trả đũa cho cuộc xâm lược Ukraina ngày 24 tháng 2 năm 2022, khu vực này một lần nữa thực sự trở thành trung tâm thương mại xuyên khu vực giữa Trung Quốc và Liên Hiệp Châu Âu theo hướng Đông-Tây, và giữa Nga và Nam Á theo hướng Bắc-Nam. Đây là những quốc gia, các nước Cộng hòa Trung Á, đang nỗ lực tối đa hóa tiềm năng địa kinh tế mới này, gắn liền với việc điều chỉnh quy mô các hành lang giao thông đi qua khu vực này để kết nối các cường quốc kinh tế với nhau. » Dù vậy, giới chuyên gia đều nhận định, bất chấp cuộc chiến tại Ukraina, tầm ảnh hưởng của Nga tuy suy giảm, nhưng Matxcơva vẫn còn hiện diện đáng kể về mặt chính trị, kinh tế và quân sự trong vùng. Trang Bloomberg lưu ý, hàng triệu di dân Trung Á đang sinh sống và làm việc tại Nga gởi tiền, góp phần nuôi sống nền kinh tế trong nước. Kazakhstan, Kirghizistan và Armenia là thành viên của khu vực thuế quan chung do Nga điều hành. Còn Tajikistan tham gia vào khối liên minh phòng thủ với Matxcơva, trong khi Kazakhstan là quốc gia duy nhất trong vùng không có căn cứ quân sự Nga. Trong bối cảnh mới này, theo quan điểm của ông Michael Levystone, mục tiêu chuyến công du Trung Á của tổng thống Putin là nhằm chứng minh Nga vẫn có ảnh hưởng trong vùng. Trên làn sóng RFI, ông nhận định : « Nga đang phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ Trung Quốc và các nước vùng Vịnh, đặc biệt là Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và Ả Rập Xê Út. Về đất hiếm, Liên minh Châu Âu và Hoa Kỳ rất chú ý và ngày càng hiện diện nhiều hơn. Năng lượng hạt nhân theo truyền thống là một trong những điểm mạnh trong chính sách ngoại giao kinh tế của Matxcơva trong khu vực. Ngoài năng lượng hạt nhân, còn có vũ khí Nga. Vấn đề nhỏ là tại Uzbekistan, Rosatom đã trúng thầu xây dựng một nhà máy điện hạt nhân, nhưng công suất lắp đặt đã bị tổng thống Mirziuyev hạ xuống đáng kể vào năm 2024. Và tại Kazakhstan, dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân trên Hồ Balkash thực tế đã được chính quyền Astana trao cho Rosatom vào đầu năm nay. Bộ trưởng Năng lượng Kazakhstan khi đó đã tuyên bố Trung Quốc sẽ được trao thầu xây dựng một dự án hạt nhân khác tại Kazakhstan. Vì vậy, chúng ta có thể thấy rõ ràng ngay cả ở đây, Nga cũng không hoàn toàn có chủ quyền. Các nước Trung Á, trong trường hợp này là Kazakhstan, vẫn có phản xạ muốn cân bằng mọi thứ để tránh, về cơ bản, giao phó một phần đáng kể an ninh năng lượng của họ cho riêng Nga. »
Moldova, quốc gia nhỏ bé với hơn 2 triệu dân, thành viên Liên Xô cũ, vốn rất ít được chú ý, đột ngột trở thành tâm điểm thời sự châu Âu cuối tháng 9/2025. Bầu cử Quốc Hội Moldova không chỉ là cuộc đấu giữa đảng PAS cầm quyền của tổng thống Maia Sandu, chủ trương nhanh chóng gia nhập Liên Âu và khối đảng phái yêu nước thân Nga (BECS), mà còn là một thử thách lớn với Liên Âu, coi việc mở rộng khối là con đường giúp củng cố hòa bình, an ninh và thịnh vượng. Cuộc bầu cử Modlova là trận quyết đấu mới giữa Liên Âu với Nga trong « cuộc chiến hỗn hợp », khi chiến tranh tâm lý, chiến tranh trên mạng đi kèm với những can thiệp hoặc đe dọa can thiệp bằng vũ lực. Báo chí châu Âu nói đến một « trắc nghiệm lớn đầu tiên » trong cuộc đọ sức giữa Liên Âu và Nga » (RTBF). « Một phần tương lai của Liên Âu và chính sách mở rộng của khối sẽ được quyết định tại đây », theo nhà chính trị học Florent Parmentier, chuyên về khu vực đông Âu hậu Liên Xô. Nhìn từ Ukraina, đang trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Nga, đây là một trắc nghiệm « với Ukraina và toàn châu Âu ». Tổng thống Volodymyr Zelensky khẳng định : « Châu Âu không thể cho phép mất Moldavia, như đã mất Belarus và Gruzia ». Tình thế đầy bất trắc trước bầu cử Ngày 28/09/2025 vừa qua, cử tri Moldova đã dành đa số quá bán tại Quốc Hội mới cho đảng của nữ tổng thống Maia Sandu, người đã đặt cử tri trước lựa chọn « địa-chính trị » rõ ràng: Bầu cho PAS là hội nhập hoàn toàn với gia đình Liên Âu. Và ngược lại, nếu đảng PAS mất đa số, Moldavia sẽ rơi trở lại quỹ đạo của điện Kremlin, đất nước « sẽ mất tất cả ». Xét theo sự ủng hộ trước đó của cử tri, tình thế Moldova trước bầu cử là đầy bất trắc, dù mục tiêu gia nhập Liên Âu được ghi vào Hiến pháp, sau cuộc trưng cầu dân ý cuối năm ngoái 2024. Phe ủng hộ gia nhập Liên Âu chỉ giành chiến thắng trong gang tấc (50,35%). Số người ủng hộ tổng thống Maia Sandu cũng sụt giảm nhiều trong cuộc bầu cử tổng thống năm ngoái. Chiến tranh Ukraina khiến kinh tế Moldova suy trầm, lạm phát tăng vọt. Moldova có lúc phải tiếp nhận đến 1,5 triệu người tị nạn Ukraina. Điện Kremlin cắt khí đốt với Moldova từ đầu năm nay. Chưa kể đến sự tồn tại của vùng ly khai thân Nga Transnistria, nơi có cả nghìn quân Nga trú đóng, và nhiều khu vực, nơi có đến hơn 90% cư dân chống gia nhập Liên Âu. Theo một số ước tính, trước thềm bầu cử, có đến 30% cử tri do dự. Tung tin giả, mua phiếu bầu, gây rối: « Lòng tin vào Liên Âu », mục tiêu triệt hạ chính Nga và các thế lực thân điện Kremlin bị cáo buộc chi hàng trăm triệu euro để can thiệp vào cuộc bầu cử, tương đương với nhiều phần trăm tổng sản phẩm quốc nội của Moldova, một quốc gia thường được xếp vào nhóm nghèo nhất châu Âu. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn Viện Pháp về Quan hệ Quốc tế (IFRI), ngay sau cuộc bầu cử Quốc Hội Moldova, nhà nghiên cứu Florent Parmentier, ghi nhận ba yếu tố « can thiệp bầu cử » chính: « Thứ nhất là thông tin bịa đặt, và việc thiết lập một hệ thống tuyên truyền với mục tiêu cuối cùng là lên án Liên Âu, lĩnh vực được triển khai hết công suất. Một ví dụ : trong chuyến thăm Chisinau của tổng thống Pháp, thủ tướng Đức và thủ tướng Ba Lan ngày 27/8/2025, có một tin giả được tung ra. Nếu tổng thống Maya Sandou chiến thắng trong cuộc bầu cử lập pháp, rất có thể ngay lập tức sẽ có 700 binh sĩ Moldova được cử tham gia liên quân tình nguyện vì Ukraina do Pháp và Anh chủ trương. Loại tin giả này nhằm làm cho mọi người tin là tổng thống Maia Sandou sẽ kéo Moldova vào cuộc chiến tranh (chống Nga). Bên cạnh việc thường xuyên tung tin giả, một nỗ lực gây bất ổn khác liên quan đến vấn đề mua phiếu bầu, điều vốn đã được bàn luận rộng rãi trong cuộc bầu cử tổng thống cuối năm ngoái. Ngày 20/10/2024, vòng bỏ phiếu đầu tiên, bà Maia Sandou tuyên bố : đã có đến 300.000 cử tri bị mua chuộc. Để đánh giá đúng tầm mức to lớn của con số này, cần liên hệ với tổng số dân Moldova 2,6 triệu người. Yếu tố thứ ba là trong trường hợp có sự chênh lệch sít sao về kết quả bầu cử, có thông tin về kế hoạch của Nga huấn luyện một số phần tử gây bạo loạn người Moldova cùng với người Serbia, tổ chức các cuộc biểu tình phản đối sau bầu cử, và có các hành động gieo rắc không khí lo sợ. Như vậy, chúng ta thấy cái đích tấn công của Nga là lòng tin vào Liên Hiệp Châu Âu cũng như chính sách kết nạp thành viên mới của Liên Âu và những lợi ích mà Liên Âu có thể mang lại. Tiếp theo đó là làm xói mòn lòng tin vào các định chế nhà nước Moldova. » ECFR : Gần như hóa giải được nạn mua phiếu trước bầu cử Để chống lại các can thiệp Nga, Liên Âu dồn lực cho Moldova. Tháng 9/2025, trước thềm cuộc bầu cử, Hội đồng Đối ngoại châu Âu (European Council on Foreign Relations - ECFR), viện tư vấn hàng đầu về các chính sách của châu Âu, tiến hành một khảo sát tại quốc gia này. Theo thẩm định của ECFR, với các hỗ trợ của các cơ quan của Liên Âu về điều tra tài chính và chia sẻ các thông tin khác, chính quyền Moldova về cơ bản đã hóa giải được các can thiệp của Nga trong lĩnh vực mua phiếu bầu, giảm mạnh so với kỳ bầu cử tổng thống năm ngoái. Tổng cộng 25.000 người đã bị phạt vì tội mua bán phiếu bầu trong thời gian tranh cử. Chính quyền Moldova kết hợp tấn công các mạng lưới mua bán phiếu bầu với việc tuyên truyền rộng rãi về « tính chất tội phạm » của hoạt động này, nâng cao nhận thức cộng đồng quy mô lớn, « bao gồm quảng cáo, truyền hình và mạng xã hội, đặc biệt tại các nhà thờ Chính thống giáo », khiến « hầu hết các mạng lưới mua bán phiếu bầu » được coi là « đã bị tê liệt » trước bầu cử. Việc nhà tài phiệt Vladimir Plahotniuc bị dẫn độ từ Hy Lạp về Moldova ngay trước thềm bầu cử được coi là một đòn nặng giáng vào các thế lực thao túng. Plahotniuc là cựu chủ tịch đảng Dân Chủ Moldova cánh tả, cựu phó chủ tịch Quốc Hội, được coi là người giàu nhất Moldova. Plahotniuc cùng Ilan Shor, nhà tài phiệt Moldova, cựu chủ tịch đảng Sor thân Nga cánh hữu, hiện đang lưu vong tại Matxcơva, bị cáo buộc lừa đảo 1 tỉ euro. Cả hai đều chạy ra nước ngoài năm 2019 vì sợ bị bắt. Ilan Shor hiện bị cáo buộc đứng sau các tài trợ cho hoạt động đưa tin giả, tin bóp méo trên các mạng Facebook, TikTok, Telegram… Chống tin giả: Lần đầu tiên EU triển khai « Đội Phản ứng Nhanh » Lần đầu tiên Liên Âu triển khai Đội Phản ứng Nhanh chống lại cuộc chiến Hỗn hợp (Hybrid Rapid Response Team) để hỗ trợ một quốc gia, là Moldova, chống lại can thiệp của nước ngoài, từ đầu năm nay, với thành phần gồm nhóm chuyên gia từ Bruxelles và từ nhiều quốc gia thành viên. Vào tháng 6, Liên Âu họp với đại diện các tập đoàn truyền thông kỹ thuật số Google, Meta và TikTok cùng các cơ quan chức năng Moldova và các nhóm thuộc xã hội dân sự nước này để phối hợp đối phó với các chiến dịch thông tin sai lệch. Kể từ tháng 7/2025, Ủy Ban Châu Âu lập FACT, một chi nhánh khu vực thuộc Đài quan sát Truyền thông Kỹ thuật số Châu Âu (EDMO), tập trung vào việc chống các chiến dịch thông tin sai lệch của Nga trong kỳ bầu cử vừa qua tại Moldova. Chủ thuyết của Liên Âu : Kết nạp thành viên mới giúp « bảo đảm an ninh » Liên Hiệp Châu Âu hiện tại gồm 27 quốc gia thành viên. Tính từ Cộng đồng Kinh tế châu Âu, thành lập năm 1957, với 6 nước (Pháp, Đức, Ý, Bỉ, Hà Lan, Luxembourg), được coi là tiền thân của Liên Âu, khối đã trải qua 7 đợt kết nạp. Việc mở rộng cho sự tham gia của các thành viên mới, về mặt nguyên tắc, được Liên Âu coi là điều giúp mang lại hòa bình và an ninh cho châu lục, thúc đẩy kinh tế, củng cố nền dân chủ, nhà nước pháp quyền, nhân quyền. Moldova và Ukraina, cùng Gruzia là ba quốc gia chính thức đệ đơn gia nhập Liên Âu ngay sau khi Nga tấn công Ukraina đầu năm 2022. Trong bối cảnh này, Ủy Ban Châu Âu tiếp tục coi việc mở rộng khối như một chiến lược không những là hàng đầu, mà còn có ý nghĩa sống còn với khối. Ủy viên châu Âu phụ trách việc kết nạp các thành viên mới, bà Marta Kos, nhận định : « Việc mở rộng Liên Âu là một yếu tố then chốt trong việc đảm bảo an ninh của châu Âu trong bối cảnh đối đầu leo thang giữa các chế độ dân chủ và độc tài. » (họp báo sau cuộc gặp của các bộ trưởng phụ trách các vấn đề Châu Âu đầu tháng 9/2025, tại Copenhagen). Ủy viên châu Âu phụ trách việc kết nạp các thành viên mới nhấn mạnh : « tiến trình mở rộng Liên Âu đã trở thành một phần của cuộc đối đầu địa-chính trị giữa các xã hội dân chủ tự do và các chế độ độc tài. Điều này được thể hiện rõ ràng và khắc nghiệt nhất ở Ukraina, cũng như qua các hình thức chiến tranh hỗn hợp, kín đáo hơn ở các quốc gia ứng cử viên khác, chẳng hạn như Cộng hòa Moldova ». Ủy viên phụ trách kết nạp khẳng định tiến trình gia nhập của Ukraina và Moldova đang tiến triển nhanh chóng, và Ủy Ban Châu Âu đang nỗ lực để thúc đẩy. Trắc nghiệm « khả năng đề kháng » của châu Âu trước Putin Sau chiến thắng của đảng cầm quyền chủ trương hội nhập Liên Âu, thủ tướng Ba Lan Donald Tusk phát biểu trên X: « Các vị đã ngăn chặn được nỗ lực của Nga kiểm soát toàn bộ khu vực. Một bài học tốt cho tất cả chúng ta. » Trước thềm bầu cử, một báo cáo của Hội đồng Đối ngoại châu Âu ECFR, nói rõ: « nếu các đảng phái hoặc nhóm đảng phái liên kết với điện Kremlin trúng cử, sẽ có rủi ro an ninh trực tiếp ở biên giới phía tây nam Ukraina và Nga sẽ có một căn cứ ở vùng trung tâm để tiến hành các hoạt động chống lại các nước Liên Âu ». Hội đồng Đối ngoại châu Âu giải thích: « Châu Âu nên xem Moldova như một nơi thử nghiệm khả năng đề kháng của chính mình (European resilience). Cuộc bầu cử này có thể mang đến cho Bruxelles cái nhìn sâu sắc và quý giá về các chiến thuật, các công cụ và các hệ quả từ các hoạt động của Matxcơva… Cơ hội để phản bác chiến lược tuyên truyền sai lệch và chiến tranh hỗn hợp của Nga ». Nga: Tham vọng phục hồi quyền lực tại nhiều vùng thuộc Liên Xô cũ Về mặt chính thức, chính quyền Nga không chống lại việc các nước nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Matxcơva gia nhập Liên Hiệp Châu Âu. Tuy nhiên, tham vọng của Matxcơva khôi phục ảnh hưởng, thậm chí chi phối trở lại các vùng thuộc Liên Xô trước đây là điều mà đông đảo giới quan sát ghi nhận. Cách nay hai năm, truyền thông Mỹ loan tải kế hoạch bí mật của cơ quan an ninh Nga FSB, đề ra chiến
Vào lúc Trung Quốc tăng cường các hoạt động hăm dọa quân sự xung quanh đảo Đài Loan, tổng thống Mỹ Donald Trump kể từ ngày nhậm chức đã có những cử chỉ gây áp lực với chính quyền Đài Bắc từ quốc phòng, kinh tế cho đến công nghệ. Điều này làm dấy lên nghi vấn : Liệu các bảo đảm về an ninh trong khuôn khổ Taiwan Relations Act mà Hoa Kỳ cung cấp cho Đài Loan vẫn sẽ vững chắc ? Kể từ khi lên nắm quyền vào năm 2013, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã có một mục tiêu : Thống nhất Trung Quốc bằng cách đặt Đài Loan dưới sự quản lý của Bắc Kinh, kể cả bằng vũ lực nếu cần thiết. Tuy nhiên, đảo Đài Loan, mà Trung Quốc coi như là một phần lãnh thổ, một tỉnh ly khai, từ năm 1979, được hưởng sự bảo vệ của Mỹ thông qua Taiwan Relations Act (Đạo luật Quan hệ Đài Loan). TRA : Hoàn cảnh ra đời Chính sách này của Mỹ đối với Đài Loan ra đời trong bối cảnh Washington công nhận nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, có thủ đô là Bắc Kinh, như là nước Trung Quốc duy nhất, quốc gia mà Mỹ thiết lập quan hệ chính thức. Theo Camille Grand, nhà nghiên cứu tại Hội đồng Châu Âu về Quan hệ Quốc tế (ECFR), cựu trợ lý tổng thư ký NATO, trên làn sóng France Culture ngày 18/07/2025, việc Hoa Kỳ tìm cách xích lại gần Trung Quốc của Mao Trạch Đông, ngoài mục tiêu chiến lược chống Liên Xô, còn thể hiện một cái nhìn thực tế chiến lược của Washington, « về một đất nước sắp có một tỷ dân so với một hòn đảo nhỏ dân tộc chủ nghĩa mà cơ may lấy lại quyền lực ở lục địa đã trở thành một điều khôi hài ». Tuy công nhận Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Washington vẫn muốn duy trì các mối quan hệ đồng minh tại vùng Thái Bình Dương, và do vậy Mỹ vẫn hiện diện tại Hàn Quốc, Nhật Bản, cũng như đúc kết một mối quan hệ với Đài Loan trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là về an ninh, quốc phòng. Cũng trên làn sóng France Culture, chuyên gia về Trung Quốc, Alice Ekman, giám đốc nghiên cứu Viện Nghiên cứu An ninh Liên Hiệp Châu Âu, lưu ý TRA là một văn bản cho phép định hình hợp tác quốc phòng, nhưng không bảo đảm bất kỳ sự can thiệp quân sự nào của Mỹ nếu Đài Loan bị tấn công: «"Hoa Kỳ cam kết hỗ trợ duy trì hòa bình, an ninh và ổn định ở Tây Thái Bình Dương", như cách gọi vào thời điểm đó. Sau đó, mục 2, đoạn 2, đề nghị cung cấp cho Đài Loan "vũ khí phòng thủ cần thiết để đảm bảo sự ổn định và an ninh này". Rồi ở mục 3, tôi sẽ không đi sâu vào thủ tục và chi tiết, nhưng điều quan trọng là văn bản này cũng chính thức hóa việc bán vũ khí cho Đài Loan: "Hoa Kỳ cam kết cung cấp cho Đài Loan các mặt hàng quốc phòng và dịch vụ quốc phòng với số lượng đủ để đảm bảo khả năng tự vệ của Đài Loan" ». Trump II và những thách thức cho TRA Trong nhiệm kỳ I, tổng thống Trump đã để lại ấn tượng mạnh mẽ và tích cực đối với Đài Loan. Chính sách thuế quan và các quyết định hạn chế chuyển giao công nghệ của ông đã giúp Đài Loan đạt được mục tiêu mà họ theo đuổi từ gần hai thập niên : Đa dạng hóa đầu tư Đài Loan và dịch chuyển sang các quốc gia khác trong khu vực, đồng thời khuyến khích đưa một số nhà xưởng về đảo. Trong lĩnh vực quốc phòng, chính quyền Trump I cũng có những cử chỉ tích cực với doanh số bán vũ khí cho Đài Bắc đã đạt mức 18 tỷ đô la, so với con số 14 tỷ thời chính quyền Obama. Cũng trong nhiệm kỳ I, ông Trump còn ký Taiwan Travel Act (Đạo luật Du lịch Đài Loan) năm 2018, chấm dứt một số hạn chế trao đổi chính thức kể từ khi quan hệ bang giao bị cắt đứt năm 1979. Nhưng từ khi bắt đầu nhiệm kỳ II, mọi sự thay đổi. Tổng thống Trump có những phát biểu gay gắt đối với Đài Bắc, cho rằng hòn đảo này đã đánh cắp công nghệ chip bán dẫn, rằng Đài Loan phải tăng chi quốc phòng, và phải trả « phí bảo vệ » tương tự như một loại phí « bảo hiểm an ninh ». Và gần đây nhất, theo như tiết lộ của tờ Washington Post, tổng thống Mỹ dường như đã từ chối phê duyệt gói viện trợ quân sự cho Đài Loan trị giá hơn 400 triệu đô la. Gói viện trợ này bao gồm các mặt hàng như đạn dược và drone. Nhà Trắng tuyên bố rằng quyết định này vẫn chưa hoàn tất. Ngoài ra, hồi tháng 7/2025, ông Trump còn ngăn cản tổng thống Đài Loan trên đường đến thăm các nước bạn bè Trung Mỹ quá cảnh vào Mỹ sau khi có những phản đối từ Trung Quốc, khiến ông phải hủy chuyến đi. Trước đó, một tháng, Washington hủy một cuộc họp dự kiến tại Mỹ với bộ trưởng Quốc Phòng Đài Loan. Tất cả những động thái « bất thường » này của Mỹ đã làm dấy lên nỗi lo lắng : Chính sách bảo vệ Đài Loan của Mỹ có được bảo đảm dưới thời chính quyền Trump 2.0 ? Liệu những cử chỉ này của ông Trump có làm suy yếu « TRA » mà Mỹ cung cấp cho Đài Bắc ? Để trả lời những câu hỏi trên, nữ chuyên gia về Trung Quốc Alice Ekman, cho rằng nên xét đến vấn đề bán vũ khí. « TRA » là một văn bản chính thức hóa tính liên tục và nhu cầu cung cấp vũ khí cho Đài Loan. Câu hỏi đặt ra ở đây là bất chấp những áp lực từ Trung Quốc, tình hình bán vũ khí cho Đài Loan dưới thời Trump II ra sao ? « Vẫn còn quá sớm để biết được vì ông ấy chỉ mới bắt đầu nhiệm kỳ, nhưng người ta cũng đã bắt đầu có vài ước tính. Chính quyền Mỹ hy vọng sẽ đạt được thành tích như thời Trump I trên phương diện bán vũ khí. Nghĩa là, trong nhiệm kỳ I, họ đã phê duyệt các giao dịch bán vũ khí cho Đài Loan với tổng trị giá là 18 tỷ đô la và do vậy, họ hy vọng chí ít sẽ đạt được con số tương tự, thậm chí cao hơn. Để so sánh, dưới thời Biden, doanh số bán vũ khí của Mỹ cho Đài Loan đạt tổng cộng 8 tỷ đô la. Vì vậy, đây là điều thú vị nên xem xét đến, dù rằng người ta có ấn tượng là ông Trump chưa nói nhiều đến Đài Loan, thậm chí không hề nhắc đến hòn đảo này trong bài phát biểu nhậm chức ngày 20/01/2025. Nhưng điều tôi muốn nói là tôi không thấy bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy Hoa Kỳ sẽ thay đổi hướng đi liên quan đến Đài Loan kể từ đầu nhiệm kỳ của Trump. Điều tôi thấy, và tôi nghĩ nhiều nhà phân tích cũng thấy, là một cách tiếp cận mang tính giao dịch nhiều hơn, điều đó không có gì mới mẻ ». « TRA » : Đối tượng gây căng thẳng và áp lực Tuy nhiên, theo cách nhìn từ nhà nghiên cứu về an ninh Camille Grand, những phát biểu trên của tổng thống Trump còn là biểu hiện của những căng thẳng trong nội bộ chính trường Mỹ từ hai trường phái. Giữa một bên có sự đồng thuận lưỡng đảng xem cạnh tranh với Trung Quốc là một ưu tiên, trong đó Đài Loan là một trong những điểm nóng và do vậy, ủng hộ bảo đảm an ninh cho Đài Loan mạnh mẽ. « Và đây đặc biệt là quan điểm rất rõ ràng của Lầu Năm Góc, đề cập đến một phần lớn các công cụ quân sự của họ, vị thế của họ ở châu Á, trong trường hợp xảy ra khủng hoảng liên quan đến Đài Loan. Đây chính xác là những gì Bộ trưởng Quốc phòng Peter Hegseth đã phát biểu tại Singapore cách đây không lâu. Nhưng cũng có một xu hướng thứ hai trong phe Cộng hòa, nhìn chung theo chủ nghĩa biệt lập hơn, vì vậy họ rất thô bạo với châu Âu, với chủ trương "hãy tự lo liệu an ninh của mình", và cả trong bối cảnh châu Á, họ cũng nói với các đồng minh rằng, "nếu quý vị không tăng chi tiêu quốc phòng, nếu quý vị không tự lo cho an ninh của mình, chúng tôi sẽ xem xét những gì chúng tôi có thể sẽ làm". Và như vậy, với một thứ áp lực ngầm lên các đồng minh châu Á, dù là Nhật Bản, Hàn Quốc và nhất là Đài Loan hiện đang trên tuyến đầu do mối quan hệ an ninh kém vững chắc của họ, vì không có quân đội Mỹ thường trực, không có hiệp ước nào, như chúng tôi đã đề cập trước đó. » Ngoài ra, vì chỉ là một văn bản luật, không phải là một hiệp ước liên minh quân sự như ông Camille Grand đề cập ở trên, nên TRA luôn mang tính bất ổn và là đối tượng gây sức ép thường trực từ phía Đài Loan và Trung Quốc. Ông giải thích tiếp : « Một nhóm vận động hành lang của Đài Loan hoạt động rất mạnh mẽ - không phải theo nghĩa xấu - tại Washington, và nhóm này vẫn rất tích cực cho đến ngày nay, nhằm đảm bảo việc bảo vệ lợi ích của Đài Bắc trong các cuộc tranh luận tại Hoa Kỳ. Rồi còn có hoạt động của một nhóm vận động hành lang Trung Quốc, nhằm gây ảnh hưởng đến các quyết định của Mỹ ví dụ như chất lượng vũ khí được chuyển giao cho Đài Bắc, chiều sâu của mối quan hệ chính trị, v.v… » Trả lời phỏng vấn The Wall Street Journal, đại diện của Đài Loan tại Hoa Kỳ Alexander Tah Ray Yui khẳng định, trong vòng 10 năm qua, chi tiêu quốc phòng của Đài Loan tăng gần gấp đôi. Trong 8 năm, Đài Loan đã chi 26 tỷ đô la mua vũ khí, chủ yếu từ Mỹ. Và tổng thống Lại Thanh Đức cũng đã tuyên bố sẵn sàng tăng ít nhất 3% GDP cho quốc phòng. Đại diện Đài Loan tại Mỹ nói thêm một chi tiết : « Đã có 48 thông báo bán vũ khí từ Hoa Kỳ cho Đài Loan nhưng bất chấp một phần lớn trong ngân sách mà Đài Loan đã chi, những thiết bị đó vẫn chưa đến được Đài Loan vì nhiều lý do. Chúng tôi rất đánh giá cao việc Mỹ cung cấp những thiết bị này, nhưng điều quan trọng là tốc độ giao hàng mà những thiết bị này, vốn đã có sẵn trong kho, có thể được cung cấp cho Đài Loan ». Trung Quốc : Mối đe dọa hàng đầu Nhìn chung, chính sách của Mỹ đối với Đài Loan là không thay đổi. Trong nhãn quan Hoa Kỳ, Trung Quốc vẫn là mối đe dọa hàng đầu. Chỉ có điều phương thức thực hiện có thể sẽ mang tính « giao dịch » nhiều hơn, theo như nhận xét của Alice Ekman. Đây còn là cách để Mỹ có thể tiếp tục hỗ trợ Đài Loan và tránh được sức ép từ Trung Quốc trong các cuộc đàm phán về thương mại, theo như nhận định từ Viện Nghiên cứu Chiến tranh (ISW), trụ sở tại Mỹ. Quyết định hủy bỏ gói viện trợ quân sự 400 triệu đô la, nếu được xác nhận, sẽ phù hợp với ưu tiên của chính quyền Trump đối với việc bán vũ khí quân sự hơn là viện trợ quân sự. Đài Loan đã đáp trả mong muốn này của Washington qua việc bày tỏ ý định tăng cường mua thiết bị quân sự Mỹ thông qua các giao dịch mua bán vũ khí với nước ngoài. Cử chỉ này của Đài Bắc đã được Washington ủng hộ mạnh mẽ. Và điều đó cũng đồng nghĩa với việc các yêu cầu mang tính cưỡng ép của Trung Quốc đối với Đài Loan chỉ có tác dụng hạn chế. Theo trang ISW, Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ thông qua Đạo luật Quỹ Đồng minh Đài Loan và Đạo luật Sáu Đảm bảo với Đài Loan để bỏ phiếu vào ngày 18/09 trước khi được tổng thống ký thành luật. Văn bản thứ nhất quy định dành 120 triệu đô la cho giai đoạn 2026-2028 để trợ cấp các đồng minh ngoại giao và kinh tế của Đài Loan, chống lại sức ép kinh tế từ Trung
Quan hệ giữa Mỹ và Belarus, quốc gia thường được coi là hoàn toàn nằm trong quỹ đạo của điện Kremlin, có một số biến chuyển bất ngờ. Quan sát viên Mỹ được mời dự tập trận Zapad do Nga và Belarus chủ trì. Washington mở lại sứ quán tại Belarus. Trừng phạt với hãng hàng không quốc gia Belarus được dỡ bỏ sau khi Minsk thả hàng chục tù chính trị. Việc Mỹ và Belarus tốc lực bình thường hóa quan hệ có phải là một kịch bản nằm hoàn toàn trong lợi ích của chế độ Putin? Drone Nga xâm nhập lãnh thổ NATO, Mỹ được mời quan sát tập trận Zapad Ngay trước khi cuộc tập trận lớn Zapad 4 năm một lần, đêm 09/09/2025 khoảng 20 drone Nga xâm nhập lãnh thổ Ba Lan, quốc gia sườn đông của khối NATO. Đây là lần thứ 4 trong lịch sử liên minh phòng thủ NATO từ khi thành lập năm 1949, điều 4 Hiến chương của khối được một quốc gia thành viên kích hoạt để tham vấn các đồng minh. Lần đầu tiên chiến đấu cơ NATO được huy động để hủy diệt mục tiêu xâm nhập không phận của một thành viên. Chính trong bối cảnh đó, các quan sát viên quân đội Mỹ đã được mời tham dự cuộc tập trận Zapad vào hai ngày cuối, 15 và 16/09. Trước đó, ngày 11/09, chính quyền Minsk trả tự do cho 52 tù nhân nhiều quốc tịch, trong đó có 14 công dân nước ngoài và nhiều tù nhân chính trị Belarus, gồm cả ông Nikolai Statkevich, ứng cử viên tổng thống Belarus năm 2010 (người đã không chấp nhận đi ra nước ngoài, nên sau đó bị đưa trở lại nhà tù). Tuyên bố trả tự do cho tù nhân nói trên được đưa ra vào lúc luật sư John Coale, đặc sứ của tổng thống Trump, dẫn đầu một phái đoàn Mỹ đến Minsk. Cũng trong dịp này, phía Mỹ thông báo mở lại sứ quán tại Belarus, bị đóng cửa năm 2022 sau khi Nga xâm lược Ukraina, dùng Belarus làm bàn đạp tấn công Ukraina từ phía bắc. Trước đó, quan hệ giữa chính quyền Trump và Belarus đã có một bước tiến đáng kể. Hồi cuối tháng 6/2025, đặc phái viên của tổng thống Mỹ về Ukraina, ông Keith Kellogg, công du Belarus. Đây là cuộc gặp đầu tiên giữa một quan chức cấp cao Nhà Trắng và nhà độc tài Belarus từ 5 năm nay, và chuyến thăm đã « đánh dấu một bước ngoặt lớn » so với chính sách của tổng thống tiền nhiệm Joe Biden. Trong dịp này chế độ Lukashenko đã trả tự do cho 14 tù nhân chính trị Belarus, trong đó có ông Sergei Tikhanovsky, lãnh đạo đối lập, bị bắt giam khi cổ vũ cho phong trào biểu tình phản đối chính quyền trước cuộc bầu cử tổng thống năm 2020. Ông Tikhanovsky là chồng của bà Sviatlana Tsikhanouskaya, lãnh đạo hiện tại của phong trào đối lập Belarus, tị nạn ở hải ngoại. Đọc thêm : Quốc Hội Belarus « hợp thức hóa » trấn áp phong trào đòi dân chủ Trước khi bay đi Alaska hội kiến với tổng thống Nga Vladimir Putin ngày 15/08, ông Trump đã gọi điện cho tổng thống Lukashenko. Sau cuộc điện đàm, ông Trump gọi nhà độc tài Belarus, hiện không được các nước phương Tây công nhận sau cuộc bầu cử bị lên án là gian lận, là « vị tổng thống rất đáng kính », cho biết đã nhận lời mời thăm Belarus và « nóng lòng » gặp mặt đồng nhiệm. Vì sao Trump và chế độ Minsk nhanh chóng xích lại gần nhau ? Điểm chung bề ngoài có thể thấy rõ giữa tổng thống Mỹ Donald Trump và nhà độc tài Belarus là hai bên có sự gặp gỡ về quan điểm trong việc ủng hộ việc tìm giải pháp cho việc chấm dứt chiến tranh Ukraina. Hãng thông tấn Nhà nước Belarus Belta, trong một bài viết hồi cuối tháng 8/2025 (« Lukashenko: Trump excelled as a mediator during Alaska talks / Tổng thống Belaurs : Trump là một nhà trung gian tuyệt vời tại cuộc đối thoại Alaska »), cho biết tổng thống Belarus đã ca ngợi lãnh đạo Mỹ, bênh vực cuộc thượng đỉnh Alakska, bị không ít người lên án là đã quá nhân nhượng Putin. Một chuyên gia hàng đầu về Belarus, ông Artyom Shraibman, trong một bài trả lời phỏng vấn, với chủ đề chính « Những gì diễn ra trong lòng Belarus » (What’s Going On Inside Belarus), đăng tải cuối tháng 8/2025 trên trang Carnegie Russia Eurasia Center, đã ghi nhận các nỗ lực bình thường hóa quan hệ Mỹ - Belarus diễn ra vào thời điểm mà các đàm phán giữa Mỹ và Nga nhằm tìm giải pháp chấm dứt xung đột Ukraina « rõ ràng đang bị đình trệ ». Đọc thêm : Hạn định 50 ngày với Nga và rủi ro bế tắc chính trị cho Donald Trump Tổng thống Trump đã tuyên bố chấm dứt chiến tranh 24 giờ sau khi nhậm chức, rồi sau đó triển hạn thêm 6 tháng. Nửa năm đã trôi qua, cuộc xung đột tiếp diễn. Không có gì cho thấy là Nga từ bỏ các tham vọng tối đa về Ukraina, như chiếm lĩnh nhiều vùng lãnh thổ của Ukraina, đòi Ukraina phi quân sự hóa. Theo chuyên gia Artyom Shraibman, trong lúc tổng thống Lukashenko tìm cách thoát thế cô lập, dùng việc trả tự do cho các tù nhân chính trị đổi lại việc dỡ bỏ trừng phạt, và cải thiện quan hệ với Mỹ, ông Trump muốn phá thế bế tắc trong các đàm phán với Nga về chấm dứt chiến tranh Ukraina, thông qua Belarus. Mỹ bình thường hoá quan hệ với Belarus : « Con đường vòng » để Washington bỏ cấm vận Nga ? Việc Mỹ đẩy nhanh việc bình thường hóa quan hệ với Belarus, quốc gia đàn em của Nga, được một số nhà quan sát xem như mang lại nhiều lợi thế cho điện Kremlin. Nhà báo Marie Jégo, của Le Monde, chuyên về Nga, cựu thông tín viên tại Matxcơva, trong bài « Sự nhượng bộ hoàn toàn của Trump đối với Putin », nêu bật : « Về những điều đã xảy ra, cá nhân tôi thấy khá là bất ngờ. Và đây là điều đã không được các chuyên gia và nhà quan sát thực sự chú ý. Đó là vụ xâm nhập bằng drone của Nga vào bầu trời Ba Lan, và chỉ một ngày sau sự kiện này, nước Mỹ đã cử một đặc phái viên đến Minsk. Mỹ đã đạt được thỏa thuận với nhà độc tài Lukashenko, người được Matxcơva coi là một quân cờ, và chính Belarus là nơi khởi nguồn của cuộc tấn công xâm lược Ukraina của Nga. Và từ Belarus, mà tên lửa đã bắn vào Ukraina. Belarus đã can dự rất nhiều vào cuộc chiến này. Vậy là người Mỹ đã đến đó chỉ một ngày sau sự kiện kinh hoàng drone Nga xâm nhập. Họ đã đến đó. Và đã có một cuộc đàm phán. Ông Lukashenko đã thả 52 tù nhân chính trị. Riêng điều này thì chúng tôi rất vui. Đây là điều tốt. Nhưng mặt khác, chính quyền Mỹ cũng cho biết họ đang dỡ bỏ các trừng phạt, đặc biệt là đối với lĩnh vực hàng không dân dụng của Belarus. Điều đó có nghĩa là Belarus giờ đây sẽ có thể nhận được phụ tùng thay thế từ hãng Boeing của Mỹ. Và nếu như Belarus được như vậy, thì Nga cũng sẽ là nước nhận được. Như vậy, có thể nói, đây là một con đường vòng để dỡ bỏ các trừng phạt Nga. » Đọc thêm : Mỹ « bình thường hóa » quan hệ với Nga: Ác mộng với châu Âu và Ukraina? Trang mạng chuyên về chính trị Quốc tế Politico.eu, có bài ghi nhận về « nguy cơ tan vỡ » của mặt trận Mỹ - Âu trừng phạt Nga. Minsk với thế đi dây một thời giữa nước Nga Putin và châu Âu dân chủ Trước cuộc xâm lăng Ukraina của Nga, kể từ khi lên cầm quyền năm 1994, tổng thống Belarus đã xây dựng chiến lược cân bằng giữa hai đối cực, giữa nước Nga của Putin và châu Âu dân chủ. Chế độ Lukashenko đã lợi dụng vị thế địa-chiến lược đặc biệt nằm ở giữa Liên Âu và Nga để thực thi chính sách « đi dây ». Belarus phụ thuộc vào Nga về năng lượng, quân sự và chính trị, nhưng mặt khác chính sách cởi mở có chọn lọc của quốc gia thành viên Liên Xô cũ này với Liên Âu đã giúp cho Minsk được nhiều lợi thế về kinh tế. Chuyên gia về Belarus, Artyom Shraibman, trên Carnegie Endowment for International Peace, trong bài « Not So Quiet on the Eastern Front: Elements of a Risk Management Strategy Toward Belarus » (Mặt trận phía Đông không quá yên tĩnh: Một số đề xuất về chiến lược quản lý rủi ro đối với Belarus) (6/2025) ghi nhận : « Cho đến năm 2020 (tức trước cuộc bầu cử tổng thống bị lên án là gian lận), ông Lukashenko đã tìm cách duy trì thế cân bằng mong manh của Belarus giữa phương Tây và Nga, đòi phần thưởng từ mỗi bên để đổi lấy việc không xích lại gần bên kia. Chìa khóa cho chiến thuật này là khả năng của Minsk trong việc xử lý mối quan hệ với Nga như một con lắc (pendulum). Sự linh hoạt đó đã đột ngột chấm dứt do mối quan hệ gần như hoàn toàn đổ vỡ với phương Tây sau khi chính quyền Lukashenko đàn áp dữ dội các cuộc biểu tình lớn ở Belarus vào mùa hè năm 2020. Kể từ đó, con lắc Belarus bị kẹt hoàn toàn trong vùng kiểm soát của Nga. » Đọc thêm : Càng bị phương Tây cô lập, Belarus càng lệ thuộc vào người "anh cả" Nga Châu Âu cần ứng xử thế nào với « con lắc Lukashenko » ? Kể từ khi Nga xâm lược Ukraina, « con lắc » Belarus hoàn toàn bị kẹt trong vùng kiểm soát của Nga. Câu hỏi đặt ra là sau các động thái bình thường hóa quan hệ mới đây từ phía Mỹ, liệu chế độ Lukashenko có trở lại với hành xử kiểu « con lắc »? Cho đến nay Liên Âu duy trì chính sách rất cứng rắn với chế độ Minsk, không công nhận Lukashenko là tổng thống Belarus, và coi Belarus là quốc gia đồng lõa với Nga trong cuộc xâm lăng Ukraina. Liên Âu ủng hộ đối lập Belarus lưu vong và có chính sách hậu thuẫn xã hội dân sự Belarus trong tiến trình chuyển tiếp sang chế độ dân chủ, đã bị cuộc đàn áp mùa hè 2020 của chế độ Lukashenko chặn đứng. Hiện tại, hơn 1.200 nhà hoạt động Belarus vẫn bị giam giữ. Đối lập Belarus cảnh báo các nước phương Tây, trước hết là châu Âu, không để Minsk lợi dụng thủ đoạn thả tù nhân nhỏ giọt theo mặc cả với Mỹ, để đánh bóng hình ảnh. Đọc thêm : Tổng thống Belarus Lukashenko "khó xử" vì chiến tranh Ukraina Tuy nhiên, 5 năm sau cuộc bầu cử tổng thống Belarus không được phương Tây công nhận, gần 4 năm kể khi Nga xâm lược Ukraina, quan hệ giữa châu Âu và chế độ Putin ở mức căng thẳng chưa từng có. Belarus không những có thể được Nga dùng làm bàn đạp tấn công Ukraina một lần nữa, mà có thể được dùng để tấn công chính các thành viên NATO châu Âu. Chuyên gia về Belarus, Artyom Shraibman, lưu ý châu Âu cần chủ động xây dựng một chiến lược khéo léo với Minsk, để không bị Mỹ đẩy vào thế bị động trong quan hệ với Belarus (bài « Trump serves Lukashenko a welcome aperitif and pressur on Europe / Trump đãi Lukashenko món khai vị và gây áp lực lên châu Âu », ngày 22/09/2025). Để làm được điều đó, theo vị chuyên gia này, không nên đi theo định kiến cho rằng Belarus hoàn toàn là « tay sai », nhất nhất hành xử theo mệnh lệnh của điện Kremlin. Đọc thêm : Belarus lo chiến tranh hạt nhân, nhưng khẳng định sẽ tiếp nhận vũ khí hạt nhân "chiến lược
Ngày 28/08/2025, Anh, Pháp và Đức đã dọa kích hoạt cơ chế tái áp đặt các lệnh trừng phạt của Liên Hiệp Quốc, còn được gọi là « snapback », vào lúc thỏa thuận về hạt nhân Iran ký kết 2015 sắp hết hiệu lực ngày 18/10/2025. Nhưng ít ai biết rằng, trong quá khứ, một số nước phương Tây, đặc biệt là Pháp, đã từng đóng góp tích cực vào việc khai sinh chương trình hạt nhân Iran. Một mảng tối khác trong mối quan hệ căng thẳng giữa Iran và phương Tây. Ngược dòng thời gian, vào năm 1957, vào lúc châu Âu đang vực dậy từ nỗi kinh hoàng của Đệ Nhị Thế Chiến, Iran, dưới sự trị vì của vua Mohammad Reza Pahlavi, đã bắt tay vào việc tìm kiếm năng lượng nguyên tử. Quốc vương Iran lo sợ rằng dầu hỏa mà đất nước phụ thuộc một ngày nào đó sẽ cạn kiệt và do vậy phải tìm kiếm một giải pháp thay thế. Atome For Peace : Đổi hạt nhân lấy dầu lửa Một dự án điện hạt nhân dân sự được hình thành qua sự trợ giúp của chương trình « Atom for Peace – Nguyên tử vì hòa bình », do tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower khởi xướng từ năm 1953. Cũng như nhiều nước thành viên khác của chương trình, Iran cam kết giới hạn sử dụng hạt nhân cho mục đích hòa bình. Đổi lại, Hoa Kỳ đào tạo các nhà khoa học Iran và cung cấp các trang thiết bị cho Teheran, bao gồm lò phản ứng nghiên cứu được thiết kế vào năm 1967 để sản xuất đồng vị phóng xạ dùng trong y tế. Quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa hai nước kéo dài cho đến cuối những năm 1970. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn dành cho Viện Nghe nhìn Quốc gia Pháp (INA), vào tháng 12/2022, nhà nghiên cứu Heloise Fayet, chuyên gia về phổ biến hạt nhân Viện Quan hệ Quốc tế Pháp (IFRI) giải thích « trong những năm 1950, dưới thời quốc vương Iran, mối quan hệ giữa Mỹ và Iran rất bền chặt. Hoa Kỳ đã đưa Iran vào chương trình Atom For Peace (Nguyên tử vì hòa bình), được sử dụng để phát triển chương trình hạt nhân dân sự cho Iran, để đổi lấy dầu lửa và sự bảo đảm rằng quốc gia này sẽ duy trì một chế độ ổn định gần gũi với Hoa Kỳ ». Tuy nhiên, vào lúc diễn ra Chiến Tranh Lạnh, Hoa Kỳ ngày càng lo lắng khi thấy xuất hiện nhiều cường quốc hạt nhân khác. Chương trình « Nguyên tử vì hòa bình » có nguy cơ phản tác dụng. Năm 1968, Iran gia nhập Hiệp ước Không phổ biến Hạt nhân TNP và đặt các cơ sở hạt nhân của mình dưới sự giám sát của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (AIEA). Nhưng quốc vương Iran có tham vọng xây thêm 20 lò phản ứng, đồng thời bày tỏ quan tâm đối với một số công nghệ. Điều này đã khiến Mỹ lo ngại, nhất là đối với kỹ thuật tách rời plutonium hoặc làm giầu uranium. Mặc dù mục tiêu nêu ra vẫn mang tính dân sự, Washington nghi ngờ vua Iran âm thầm thèm khát vũ khí nguyên tử. Clément Therme, giáo viên tại Đại học Paul-Valéry tại Montpellier, trong chương trình Giải Mã (19/05/2025) của kênh truyền hình ARTE nhắc lại, « ngay từ tháng 12/1975, Cơ quan Tình báo Mỹ (CIA) đã đánh giá rằng Iran rất có thể sẽ trang bị hệ thống vũ khí hạt nhân vào năm 1985. Vì vậy, ngay từ những năm 1970, đã có những nghi vấn về mục đích dân sự hay quân sự của chương trình Iran ». Pháp, Đức thay chân Mỹ Trước mối ngờ vực từ Mỹ, quốc vương Iran chuyển hướng tìm kiếm các đối tác châu Âu, được đánh giá là « ít quan tâm » đến những vấn đề được nêu trên, theo như nhận định của François Nicoullaud, cựu đại sứ Pháp ở Téhéran, trong bài viết đề tựa « La France et la négociation avec l’Iran » (Pháp và cuộc đàm phán với Iran). Pháp và Tây Đức thời đó đang chạy theo vàng đen của Iran. Cú sốc dầu hỏa năm 1973 biến Teheran thành một đối tác thiết yếu và ưu tiên cho Paris. Trong một bài giải thích, trang RFI tiếng Pháp nhắc lại, ngay từ năm 1974, bộ trưởng Tài Chính lúc bấy giờ là Jean-Pierre Fourcade đã ký kết rất nhiều hợp đồng với Iran để bảo đảm nguồn cung dầu khí cho đất nước. Teheran là nhà cung cấp nhiên liệu thứ hai cho Paris. « Chuyến thăm của Quốc vương tới Marcoule có ý nghĩa quan trọng hơn sau thông báo đặt xây năm nhà máy điện hạt nhân được xác nhận hôm qua và các thỏa thuận liên quan đến việc cung cấp uranium làm giàu cho Iran. » (France 2 ngày 25/06/1974) Trên đây là lời bình của bản tin lúc 20 giờ kênh truyền hình Pháp France 2 ngày 25/06/1974, nhân chuyến thăm của quốc vương Iran đến Pháp và trung tâm khai thác điện hạt nhân ở Marcoule vùng Gard, đông nam Pháp. Được xây dựng vào năm 1956, cơ sở công nghiệp này từng là mũi nhọn cho ngành năng lượng hạt nhân Pháp, cả về sản xuất điện lẫn sử dụng cho mục đích quân sự. Với hợp đồng trị giá gần 5 tỷ đô la – một khoản tiền « khổng lồ » theo như tuyên bố của bộ trưởng Tài Chính Jean-Pierre Fourcade – Pháp thay thế Mỹ trong lĩnh vực hạt nhân bất chấp những ngờ vực của Washington. Paris cam kết đào tạo nhân sự và cung cấp các nhà máy điện hạt nhân cho Teheran như hai lò phản ứng tại Ahvaz miền nam Iran do tập đoàn Framatome của Pháp xây dựng. Nước Đức cũng không kém cạnh. KraftWerk Union, một chi nhánh của tập đoàn năng lượng Siemens, trúng thầu xây dựng hai lò phản ứng hạt nhân ở Bushehr, miền nam Iran, trị giá 7,8 tỷ mác Đức. Chính quyền Berlin còn ký kết một thỏa thuận về hợp tác hạt nhân với vua Iran, tương tự như « hợp đồng thế kỷ », được ký một năm trước đó với Brazil. Cổ đông Eurodif : Tham vọng hạt nhân của vua Iran ? Tuy nhiên, việc các nước đồng minh mới châu Âu có những hứa hẹn tham gia tích cực vào chương trình phát triển hạt nhân Iran càng củng cố hơn nỗi lo lắng từ Mỹ. Không những vua Iran tự cung cấp phương tiện cho các tham vọng của mình và cùng với những thỏa thuận khác nhau, quốc vương Mohammad Reza còn biến nước ông thành một trong những nhà đầu tư chính cho ngành hạt nhân Pháp. Trong khuôn khổ thỏa thuận hợp tác đầu tư Eurodif - European Gaseous Diffusion Uranium Enrichissement Consortium - quốc vương Iran cho Pháp vay một tỷ đô la để xây dựng nhà máy làm giầu chất uranium Tricastin và sở hữu 10% vốn của Eurodif. Đổi lại, Iran bảo đảm lấy đi 10% chất uranium làm giầu do Eurodif sản xuất. Nhìn lại lịch sử, người ta không khỏi đặt nghi vấn về ý định quân sự của vua Iran. Một công nghệ « lưỡng dụng » uranium làm giàu có thể được sử dụng cả cho các nhà máy điện hạt nhân lẫn các đầu đạn được chế tạo theo mô hình Little Boy, từng được sử dụng để san bằng Hiroshima. Trong cuộc chạy đua vũ trang thời Chiến Tranh Lạnh, liệu quốc vương Iran có muốn trang bị vũ khí hạt nhân cho đất nước mình hay không ? Theo báo Pháp Le Monde, ngày 20/07/2025, trong bài viết dài đề tựa « Khi Pháp hứa hẹn uranium làm giầu cho Iran, nguồn cội của một hiệp ước hạt nhân đáng nguyền rủa », Akbar Etemad, chủ tịch Tổ chức Năng lượng Nguyên tử Iran (1974 – 1978) trước ống kính trong một bộ phim tài liệu của France 2 phát sóng ngày 08/10/2017, kể lại ông đã chất vấn Quốc vương như thế nào: « Liệu chúng ta có thể cân nhắc phương án quân sự hay không ? Ông ấy nói với tôi là 'Tại sao không?' Tôi hiểu rằng nhiệm vụ của tôi là phát triển tất cả các công nghệ cần thiết để sẵn sàng triển khai bom hạt nhân ». Vào thời điểm đó, Mohammad Reza Pahlavi khẳng định ông không cần đến bom nguyên tử. Dù không thể chắc chắn, châu Âu đã tin lời ông. Ngoại trưởng Pháp Jean-François Poncet (1978 – 1981), trong một chương trình phim tài liệu của kênh ARTE, khẳng định rằng, « tất cả các biện pháp phòng ngừa luôn được đặt ra để đảm bảo những gì chúng tôi thực hiện về phát triển hạt nhân với Iran sẽ không được sử dụng cho mục đích quân sự. » Cách mạng Hồi giáo 1979 và các cuộc khủng hoảng Pháp - Iran Nhưng cuộc Cách mạng Hồi giáo 1979 bùng nổ, buộc vua Iran phải sống lưu vong, chương trình hạt nhân của ông cũng tan theo. Đại giáo chủ Khomeini lên cầm quyền và chính quyền mới cho ngưng tất cả các hợp đồng xây dựng nhà máy điện hạt nhân, cũng như mua chất uranium. Hai tập đoàn Framatome của Pháp và KWU của Đức chấm dứt công trình và cho hồi hương các nhân viên. Ngoài ra, Teheran còn đòi Paris phải hoàn trả tiền vay, một đòi hỏi mà Pháp đã từ chối khi cho rằng chế độ Iran mới không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ được đặt ra với tư cách là một cổ đông của dự án. Nhưng cử chỉ này của Pháp đã bị nước Cộng hòa Hồi giáo xem như là một hành động đối đầu. Xung đột Iran – Irak nổ ra còn làm cho căng thẳng giữa Teheran và Paris thêm căng thẳng. Trong nhiều năm sau đó, Iran tiến hành một loạt hoạt động chống Pháp như bắt cóc và giam giữ các nhà báo và nhà ngoại giao Pháp tại Liban trong những điều kiện tệ hại. Iran đòi Pháp phải hoàn trả số nợ vay cũng như ngưng cung cấp vũ khí cho chế độ Saddam Hussein. Pháp trở thành mục tiêu tấn công của Iran. Nhiều vụ tấn công khủng bố đã xảy ra tại Pháp trong thập niên 1980 mà Iran bị cáo buộc là chủ mưu. Năm 1988, sau nhiều năm bị giam cầm ở Liban, các con tin Pháp được thả. Phần lớn khoản nợ vay của Eurodif cuối cùng đã được trả cho Iran như là tiền chuộc. Về mặt chính thức,tranh chấp đã được giải quyết xong ba năm sau đó, vào năm 1991, sau khi Pháp đổ thêm một tỷ đô la cho Cộng hòa Hồi giáo Iran. Chỉ vừa mới được bình thường hóa, quan hệ giữa Iran và phương Tây một lần nữa trở nên căng thẳng. Vào đầu những năm 2000, qua sự tố giác của một nhóm người Iran phản đối chế độ, Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế AIEA phát hiện nhiều cơ sở hạt nhân bí mật của Iran, đặc biệt là các cơ sở ở Natanz và Arak, miền trung đất nước. Một chương căng thẳng mới lại bắt đầu và kéo dài đến tận ngày nay. Các cuộc đàm phán rơi vào bế tắc kể từ khi tổng thống Mỹ Donald Trump trong nhiệm kỳ I rút Hoa Kỳ ra khỏi Thỏa thuận hạt nhân Vienna 2015. RFI Tiếng Việt sẽ tiếp tục trình bày chủ đề này trong một dịp khác. Tóm lại, như thừa nhận của ông Javad Vaeedi, nhà đàm phán Iran giai đoạn 2005-2009, với kênh truyền hình ARTE, « chương trình hạt nhân Iran đã được hình thành nhờ vào sự hợp tác với Mỹ, rồi Pháp cả trong khuôn khổ trao đổi sinh viên và cả trong việc hình thành các cơ sở hạ tầng có liên quan đến chương trình hạt nhân Iran ». (Nguồn INA, ARTE, RFI, Le Monde)
Tám tháng kể từ khi Donald Trump trở lại nắm quyền, cuộc xâm lăng Ukraina của Nga không có dấu hiệu chấm dứt bất chấp các vận động ngoại giao của tổng thống Mỹ, được quảng bá rầm rộ là có thể làm thay đổi lập trường của điện Kremlin. Vào lúc khả năng đạt được ngừng bắn tại Ukraina trở nên xa vời, châu Âu bị Nga lên án làm « thất bại » các nỗ lực hướng đến hòa bình. Phe cầm quyền tại Mỹ đòi hỏi châu Âu đóng góp nhiều hơn nữa trong hồ sơ Ukraina. Mỹ và Nga đổ dồn trách nhiệm lên châu Âu trong vấn đề chiến tranh Ukraina như thế nào ? Lối thoát nào với châu Âu trong tình thế nhiều phần bế tắc hiện nay ? *** Ngày 04/09/2025, hơn 30 quốc gia thuộc « Liên minh tình nguyện » bảo đảm an ninh cho Ukraina họp tại Paris và trực tuyến dưới sự chủ tọa của tổng thống Pháp và thủ tướng Anh. Sau hội nghị này, 26 quốc gia cam kết sẽ triển khai lực lượng tại Ukraina để bảo đảm an ninh một khi xung đột chấm dứt. « Liên minh tình nguyện » đã được gấp rút lập ra theo sáng kiến của Pháp và Anh, trong bối cảnh tân chính quyền Trump đe dọa đàm phán riêng rẽ với Nga về chiến tranh Ukraina, và để ngỏ khả năng không tuân thủ điều 5 của Hiến chương NATO, cam kết bảo vệ các đồng minh. « Lực lượng bảo đảm an ninh » cho Ukraina : « Chiếc vé » giúp châu Âu tham gia đàm phán ? Châu Âu lên tuyến đầu. Việc thành lập « Liên minh tình nguyện » giúp châu Âu khẳng định vị thế. Trả lời phỏng vấn đài France Info, hồi đầu tháng 5/2025, chuyên gia Jean de Gliniasty, cựu đại sứ Pháp tại Nga, giám đốc nghiên cứu Viện Quan hệ Quốc tế Pháp (IFRI), nhận định : Liên minh tình nguyện từng được coi như một « chiếc vé » vào cửa, cho phép Châu Âu có chỗ tại bàn đàm phán về giải pháp chấm dứt chiến tranh. Tuy nhiên, đây là một chiếc vé bấp bênh bởi phụ thuộc hoàn toàn vào thái độ của Mỹ: « Vậy là ở đây chúng ta từng có một thứ như kiểu vé vào cửa. Ông Trump đã từng nói châu Âu ‘‘bất tài’’ và ‘‘không có vé vào cửa’’, không có chỗ ngồi ở bàn đàm phán. Mà cái vé vào cửa mà chúng ta có thể có, đó chính là mang lại ‘‘các bảo đảm an ninh’’. Bởi vì chính Mỹ cũng đã nói họ sẽ không đưa một binh sĩ nào đến để bảo vệ Ukraina, và việc đảm bảo an ninh phải do chính người châu Âu lo liệu. Chính vì thế mà châu Âu đã thực thi một chút nghĩa vụ của mình. Hiện có 30 quốc gia châu Âu sẵn sàng đưa quân đến để đảm bảo an ninh cho Ukraina. Nhưng Nga cho rằng những ‘‘bảo đảm an ninh’’ do Pháp và châu Âu đưa ra thực chất là với tư cách đồng minh của Ukraina, và như vậy là thù địch với Nga. Vì thế, họ không muốn. Thực ra chúng ta đang rơi vào bế tắc, và hiện tại chúng ta đã không còn ‘‘vé vào cửa’’ bàn đàm phán nữa ». Bốn tháng sau, vào thời điểm Liên minh tình nguyện được khẳng định mạnh mẽ hơn với cuộc họp tại Paris hôm 4/9, vẫn chuyên gia Jean de Gliniasty ghi nhận : « chiếc vé » vào bàn đàm phán của châu Âu vẫn « tạm thời bị đình chỉ », để chờ đợi các kết quả thương lượng giữa Mỹ và Nga. Vị thế « chiếu dưới » của châu Âu và cuộc phản công ngoại giao của Nga « hậu thượng đỉnh Alaska » Xin nhắc lại là ít tháng trước khi chiến tranh Ukraina bùng nổ, trong bối cảnh Nga liên tục khẳng định muốn thương thuyết lại với phương Tây về việc khối NATO mở rộng về phía đông, và việc triển khai các hệ thống vũ khí tối tân tại nhiều nước láng giềng với Nga, các nước châu Âu đã gần như không có tiếng nói gì trong hồ sơ này. Chiến tranh bùng nổ, châu Âu bừng tỉnh, nỗ lực ban hành các biện pháp trừng phạt Nga, cùng với Mỹ, hậu thuẫn Ukraina về quân sự và nhiều mặt. Tuy nhiên, về các đàm phán chấm dứt chiến tranh, nhìn chung châu Âu không có tiếng nói. Nói một cách khác, châu Âu vốn phụ thuộc nặng nề vào Mỹ về mặt đảm bảo an ninh cho chính châu Âu, nên luôn ở vị thế chiếu dưới, khó có thể nào có được một vị trí đáng kể trong các thương lượng về viễn cảnh chấm dứt chiến tranh Ukraina kể từ khi chiến tranh bùng nổ. Không những thế, sau cuộc thượng đỉnh Trump – Putin tại Alaska, Mỹ, ngày 15/08/2025, chế độ Putin thoát khỏi thế cô lập tương đối về ngoại giao, đã tranh thủ cơ hội để phản công châu Âu. Nga đổ lỗi cho châu Âu về bất kỳ thất bại nào trong các đàm phán tương lai, cáo buộc châu Âu trở thành « trở ngại chính » do thúc đẩy đối đầu về ý thức hệ, trong lúc Trump và Putin nỗ lực tìm kiếm một thỏa thuận. Nhật báo thân điện Kremlin Izvestia mỉa mai « Bruxelles và Kiev đang thành trở ngại chính cho hòa bình ». Một nguồn tin gần gũi với điện Kremlin tung ra quan điểm « lần đầu tiên, có một cơ hội thực sự để bắt đầu đàm phán với Ukraina và châu Âu về tất cả các vấn đề cần giải quyết để chấm dứt chiến tranh, thế nhưng giờ đây xuất hiện một vấn đề nan giải thực sự đối với châu Âu, đang mắc kẹt trong ngõ cụt về tư tưởng. Đó là họ đang bảo vệ những nguyên tắc trừu tượng trong khi hàng trăm nghìn người đã bỏ mạng trong chiến tranh. Cuộc chiến mà Kiev đã thua trên thực tế cần phải được chấm dứt, chứ không phải cứ tiếp tục cho đến khi Ukraina bị hủy diệt hoàn toàn ». Tổng thống Nga « hy vọng châu Âu sẽ không cố gắng phá hoại tiến trình này bằng những hành động khiêu khích hoặc những âm mưu trong hậu trường ». Người phát ngôn của bộ Ngoại Giao Nga Maria Zakharova mỉa mai : « Tinh thần đồng đội của ‘‘liên minh’’ Starmer-Macron-Merz-Rutte-von der Leyen (tức các lãnh đạo Anh, Pháp, Đức, NATO và Ủy Ban Châu Âu), vẫn tỏ ra hung hăng trong cuộc đối đầu với Nga, Ukraina đã bị họ biến thành một con tin đắt giá ». Trump mềm mỏng với Nga, điện Kremlin không khoan nhượng: Châu Âu kẹt giữa hai làn đạn Chính sách của tổng thống Mỹ thúc đẩy đàm phán ngoại giao với Nga từng được coi là mang lại hy vọng cho việc chấm dứt chiến tranh Ukraina trong thời gian ông Trump mới lên cầm quyền, như ghi nhận của cựu đại sứ Jean de Gliniasty : « Chúng ta đang ở thời điểm giữa chừng của một cuộc vận động ngoại giao kiểu truyền thống, tức là ngoại giao “từng bước nhỏ”, giống như những gì chúng ta đã chứng kiến sau cuộc Chiến tranh Kippur tháng 10/1973 (liên quân Ai Cập và Syria tấn công Israel), khi ngoại trưởng Mỹ Kissinger đã phải đi đi lại lại khoảng 15 lần giữa Tel-Aviv, Jerusalem và Cairo, đi qua đi lại giữa các bên, và mỗi lần như vậy đều mang về những tiến bộ rất nhỏ, nhưng cuối cùng thì đã thành công. Và thực ra, người Mỹ cũng rất giỏi trong việc này, đó là một truyền thống ngoại giao của họ. Vì vậy, chúng ta đang trong một tiến trình ngoại giao “tàu con thoi” và “từng bước nhỏ”, và tôi cho rằng chúng ta có thể hy vọng rằng cuối cùng nỗ lực này sẽ đạt được kết quả. » Cựu đại sứ Pháp Pierre Vimont, nguyên tổng thư ký điều hành của cơ quan đối ngoại Liên Âu (2010-2015), tức nhân vật số hai của ngành ngoại giao Liên Âu, đã sớm cảnh báo về nguy cơ các nước châu Âu bị kẹt giữa hai làn đạn của Mỹ và của Nga, trong bối cảnh tổng thống Donald Trump rất có thể sẽ có nhiều nhân nhượng với Matxcơva : « Điều gây phiền toái hơn cho tất cả chúng ta, những người châu Âu, là liệu Trump có nhượng bộ thêm Putin để đạt được một thỏa thuận ngừng bắn quan trọng hơn hay không. Như quý vị biết, hầu hết những yêu cầu mà Putin đưa ra đều rất khó có thể dung hòa với quan điểm và lợi ích của châu Âu. Ví dụ như Ukraina trung lập và phi quân sự hóa, Ukraina không được gia nhập NATO, hay không có sự hiện diện của quân đội châu Âu tại Ukraina, châu Âu không tiếp tục viện trợ quân sự cho Ukraina, v.v. Vì vậy, chúng ta đang ở trong một tình thế mà nếu ông Trump nhượng bộ cho tổng thống Nga một hoặc một số yêu cầu nào đó, thì chúng ta — những người châu Âu — sẽ lâm vào thế khó. Chúng ta sẽ phải nói rằng chúng ta không đồng ý và không chấp nhận những đề xuất này, và như vậy, chúng ta sẽ bị coi là bên cản trở tiến trình đạt được thỏa thuận ngừng bắn, mở ra viễn cảnh giải quyết xung đột. » Trên đây là trích đoạn bài « L'Europe au défi de la nouvelle administration Trump / Châu Âu trước thách thức của chính quyền Trump », chương trình phỏng vấn chuyên gia của Viện Quan hệ Quốc tế Pháp IFRI, trong mục « Thế giới theo IFRI », tháng 5/2025. Ukraina: Tâm điểm cạnh tranh toàn cầu thời « hậu Chiến tranh Lạnh » Cuộc chiến Nga xâm lược Ukraina không đơn giản là cuộc chiến tranh của một quốc gia này chống lại một quốc gia khác. Cuộc chiến với những cội nguồn phức tạp này là kết tinh của những tranh chấp mang tính toàn cầu của thế giới thời kỳ hậu chiến tranh Lạnh. Vấn đề Ukraina, đế chế Nga, và lục địa Á – Âu (Eurasie) được nêu bật trong tác phẩm « Bàn Cờ Đại Chiến lược toàn cầu : Quyền lực tối thượng của nước Mỹ và những mệnh lệnh địa chiến lược đi kèm » (The Grand Chessboard: American Primacy and Its Geostrategic Imperatives) (xuất bản năm 1997), của chiến lược gia Mỹ Zbigniew Brzezinski (1928–2017), người gốc Ba Lan, cố vấn an ninh quốc gia thời tổng thống Jimmy Carter. Ukraina là một quân cờ căn bản của « Bàn cờ đại chiến lược toàn cầu ». Chiến lược gia người Mỹ được gợi cảm hứng từ nhà địa-chính trị người Anh đầu thế kỉ 20 Halford J. Mackinder, với tư tưởng : Ai kiểm soát được khu vực Đông Âu sẽ thống trị vùng trung tâm (hearthland), ai cai trị vùng trung tâm sẽ thống trị lục địa Á-Âu, ai cai trị lục địa Á-Âu thì sẽ thống trị thế giới. Trong tác phẩm Bàn Cờ Đại Chiến lược toàn cầu, chiến lược gia Mỹ dự đoán : « Việc NATO không thể mở rộng bất chấp những nỗ lực của Mỹ có thể khơi dậy những tham vọng lớn nhất của Nga ». Tổng thống Nga và các cộng sự thường xuyên cáo buộc : Mỹ nỗ lực tách Nga khỏi các quốc gia bao quanh Nga từng tạo nên Liên Xô trước đây (bài « Ce livre qui a inspiré Poutine / Cuốn sách mang lại nhiều tưởng cho Putin » Le Point). Trên thực tế, chế độ Putin cũng đã coi Ukraina là một thành tố không thể thiếu của một nước Nga hùng mạnh. Cuộc tấn công Ukraina diễn ra sau khi Matxcơva hoàn tất lý thuyết về một « thế giới Nga », bao gồm Ukraina. « Thế giới Nga » (Rousski Mir), không bị giới hạn trong biên giới quốc gia của nước Nga, được nhiều nhà quan sát xem như là một nỗ lực khôi phục đế chế Nga của chính quyền Putin. Đọc thêm : Chính Thống Giáo Nga và "Thế giới Nga" Để thoát cái bóng của Mỹ: Châu Âu cần đối thoại với Nga, xây dựng lập trường chung với Ukraina…. Đối mặt với các tham vọng địa chính trị nói trên của Nga trong bối cảnh thế đối đầu giữa phương
Ngày 03/09/2025, tiếp đồng nhiệm Ukraina Volodymyr Zelensky, một ngày trước khi diễn ra hội nghị « Liên minh các nước tình nguyện », tổng thống Pháp Emmanuel Macron tuyên bố, châu Âu « sẵn sàng cung cấp các bảo đảm an ninh cho Ukraina và người dân Ukraina vào ngày mà thỏa thuận hòa bình sẽ được ký kết ». Đây cũng là những gì Kiev muốn đạt được trước khi bước vào một cuộc đàm phán hòa bình (nếu có) với Matxcơva. Chưa có lúc nào nỗi ám ảnh về thất bại Bị Vong Lục Budapest 1994 mạnh mẽ như lúc này đối với Kiev và người dân Ukraina. Ngược dòng thời gian, vào ngày 05/12/1994, ba năm sau khi tuyên bố độc lập và dưới áp lực mạnh ngoại giao, Kiev cùng với Liên bang Nga, Hoa Kỳ và Anh Quốc ký kết Bị Vong Lục tại Budapest, Hungary. Nỗi lo nguy cơ phổ biến hạt nhân hơn là an ninh Ukraina Theo đó, Ukraina chấp nhận chuyển giao toàn bộ kho vũ khí hạt nhân được cất trữ trên lãnh thổ cho Nga, bao gồm khoảng 1.900 đầu đạn chiến lược và 2.500 vũ khí chiến thuật tức chiếm đến gần 10% kho vũ khí Xô Viết. Đổi lại, các bên tham gia cam kết « tôn trọng nền độc lập, quyền chủ quyền và các đường biên giới hiện hữu của Ukraina » và « tránh sử dụng hành động dọa dẫm hay dùng vũ lực xâm hại toàn vẹn lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của Ukraina ». Ngoài ra, theo các hình ảnh và bài báo tư liệu được Viện Nghe Nhìn Quốc Gia Pháp (INA) trích dẫn ngày 09/03/2025, ngoài việc tăng gấp đôi số tiền viện trợ 155 triệu đô la, Hoa Kỳ còn cam kết cung cấp « hỗ trợ đặc biệt để tăng cường an ninh cho các lò phản ứng hạt nhân dân sự, kiểu Tchernobyl », và nhất là « mở rộng cánh cửa "đối tác vì hòa bình" cho Ukraina, nói một cách khác, cho phép Kiev phát triển hợp tác quân sự với NATO ». Nhà nghiên cứu Marie Dumoulin, giám đốc chương trình Wider Europe, thuộc tổ chức tư vấn European Council on Foreign Relations, trong chương trình « Sự ra đời và cái chết của Bị Vong Lục Budapest » do đài phát thanh France Culture thực hiện trong tháng 7/2025, có lưu ý rằng sự kiện diễn ra trong bối cảnh Hoa Kỳ và Anh Quốc lo lắng cho mối họa phổ biến hạt nhân hơn là vấn đề an ninh của Kiev. Bởi vì, ngoài Ukraina, còn có hai nước thành viên Xô Viết khác cất trữ vũ khí hạt nhân là Belarus và Kazakhstan. « Có một cơ chế quốc tế quản lý các quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân : Hiệp ước Không phổ biến Vũ khí Hạt nhân TNP. Nhưng các quốc gia độc lập mới này sinh ra từ đống đổ nát của Liên Xô lại không tham gia vào hiệp ước này, bởi vì, cho đến lúc đó, những nước này chưa tồn tại. Do vậy, thách thức đầu tiên là phải bảo đảm rằng Ukraina, Belarus và Kazakhstan, ba quốc gia cùng với Nga có triển khai vũ khí hạt nhân trên lãnh thổ của mình, tuân thủ Hiệp ước TNP (…) Nhưng điều quan trọng cần hiểu là đối với các nhà đàm phán Mỹ và Anh Quốc, thách thức chính vào thời điểm đó, không hẳn là vấn đề an ninh và chủ quyền lãnh thổ của ba nước này, mà thực sự là vấn đề không phổ biến hạt nhân, đồng thời bảo đảm rằng chỉ có một quốc gia kiểm soát vũ khí hạt nhân được thừa hưởng từ thời kỳ Xô Viết. » Hạt nhân và chủ quyền : Ukraina không có chọn lựa nào khác Chính vì điều này, vào tháng 12/1991, vào thời điểm Liên Xô tan rã, Hoa Kỳ dưới thời chính quyền Bill Clinton đã nhìn nhận Nga như là một quốc gia hạt nhân, đồng thời tuyên bố sẵn sàng cung cấp hỗ trợ cho những nước khác xuất thân từ Liên Xô với điều kiện các nước này chấp nhận quy chế quốc gia không hạt nhân, theo như chuyên gia về Nga, bà Anne de Tinguy, giáo sư danh dự, Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế CERI trường đại học Khoa học Chính trị Sciences Po từng giải thích với báo Libération (11/03/2022). Nhiều nhà quan sát tại Pháp đánh giá rằng với việc ký kết Bị Vong Lục Budapest, chính quyền Ukraina lúc bấy giờ đã chấp nhận từ bỏ vị thế « cường quốc hạt nhân đứng hàng thứ ba » trên thế giới (tính theo số lượng vũ khí hạt nhân). Đối với nhà ngoại giao Pierre Lévy, cựu đại sứ Pháp tại Nga (2020 – 2024), điều này là không hoàn toàn chính xác, do việc hệ thống kiểm soát và chỉ huy đều trú đóng tại Matxcơva. Vũ khí hạt nhân được bố trí tại Ukraina không đồng nghĩa với việc Kiev nắm giữ « nút bấm » hạt nhân. Chuyên gia Marie Dumoulin nhắc lại : « Việc từ bỏ kho vũ khí hạt nhân, trên thực tế, đó còn là một trong số các điều kiện cho quyền chủ quyền của Ukraina. Nếu như số vũ khí này vẫn còn được bố trí trên lãnh thổ Ukraina, điều đó cũng có nghĩa là Matxcơva có lẽ vẫn sẽ tiếp tục có một vai trò chủ đạo trong an ninh của Ukraina và do vậy, quyền tự quyết của Ukraina như chúng ta đã biết từ trước đến nay, có lẽ sẽ không thể được thực thi trong cùng những điều kiện. Đó chính là những gì đang diễn ra với Belarus, quốc gia đã chấp nhận để Nga bố trí vũ khí hạt nhân trên lãnh thổ của mình. Trên thực tế, ngoài ý nghĩa của động thái này đối với an ninh châu Âu, còn có những hậu quả tức thì cho quyền tự quyết của Belarus, hiển nhiên không còn giống như khi họ đã có thể từ chối quyền xem xét lại các quyết định của Matxcơva liên quan đến chủ quyền và an ninh của chính mình ». Bị Vong Lục Budapest : Những cam kết « ảo » ? Bất chấp những cam kết, hai mươi năm sau, năm 214, Matxcơva chiếm đoạt và cho sáp nhập bán đảo Crimée vào Nga, và thổi bùng cuộc xung đột ở Donbass. Không một bên ký kết Bị Vong Lục Budapest nào có những phản ứng thực sự. Đến năm 2022, Nga chính thức phát động « chiến dịch quân sự đặc biệt », xâm chiếm Ukraina. Ngày 04/03/2022, vào ngày thứ chín của cuộc chiến, tổng thống Ukraina Volodymyr Zelensky cay đắng chỉ trích NATO từ chối lập vùng cấm bay : « Tất cả những gì Liên minh Quân sự làm được đến hiện tại, là vận chuyển khoảng 50 tấn dầu diesel cho Ukraina thông qua hệ thống cung cấp của khối. Có lẽ là để chúng ta có thể đốt bỏ và thiêu rụi Bị Vong Lục Budapest. Nhưng đối với chúng ta, văn bản này đã bị đốt cháy, dưới hỏa lực của quân đội Nga ». Về điểm này, nhà nghiên cứu Marie Dumoulin, cũng trong chương trình « Sự ra đời và cái chết của Bị Vong Lục » trên đài France Culture, giải thích thêm như sau : « Bị Vong Lục Budapest bao gồm một danh sách các cam kết của các quốc gia bảo lãnh, tức là Nga, Hoa Kỳ và Vương quốc Anh, liên quan đến Ukraina, nhưng đây là những cam kết thụ động, nghĩa là các quốc gia này cam kết không làm một số điều nhất định liên quan đến Ukraina, không gây rắc rối về chủ quyền, độc lập và biên giới của Ukraina, không đe dọa sử dụng vũ lực, không gây áp lực kinh tế lên Ukraina và trong trường hợp Ukraina bị tấn công hạt nhân, họ cũng cam kết sẽ nhờ đến Hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc. Không có cam kết chủ động nào, nghĩa là không có cam kết hành động nào khác ngoài cam kết tham vấn Hội đồng Bảo an nếu toàn vẹn lãnh thổ của Ukraina bị đe dọa. » Cam kết bị xâm phạm : Lỗi tại ai ? Ngày nay, phương Tây và Nga đổ lỗi cho nhau là không tôn trọng các cam kết đưa ra trong văn bản. Hoa Kỳ và Anh Quốc tuyên bố họ không vi phạm các cam kết, rằng họ không đe dọa tính toàn vẹn lãnh thổ Ukraina. Và quốc gia duy nhất đã vi phạm các cam kết đưa ra chính là Nga. Điều thú vị, theo nhà cựu đại sứ Pháp Pierre Levy khi giải thích với France Culture là những lập luận từ phía Nga. « Câu trả lời mà Vladimir Putin dành cho Reuters vào tháng 3/2024 mà ít ai nói đến, và theo tôi là rất thú vị, trong đó, ông ấy nói rằng "Nhìn xem, quý vị đã vi phạm các cam kết của mình đưa ra trong Bị Vong Lục Budapest. Ông ấy nói rõ là ông ấy không bị ràng buộc bằng những thỏa thuận quốc tế với một quốc gia vừa có một cuộc cách mạng bên trong. Thế nên, trong cách tiếp cận của Nga, đối diện với họ là một quốc gia mới. Tiếp theo, chúng ta thấy rõ sự nhất quán trong lập trường, bởi vì, đối với Nga, có một chính quyền quân sự cầm quyền ở Kiev đã thành công lập một chế độ mới với sự trợ giúp của phương Tây sau một cuộc đảo chính. Do vậy tất cả những điều này đều nằm trong lô-gic của Nga ». Năm 2014, quyết định sáp nhập bán đảo Crimée và cuộc chiến tại Donbass đã làm lộ rõ những điểm yếu của Bị Vong Lục, vốn chỉ là một bản ghi nhớ không phải là một hiệp ước và không mang tính chất ràng buộc. Các thỏa thuận Minks được ký kết, nhằm chấm dứt các cuộc giao tranh nhưng không bao hàm một bảo đảm an ninh nào cho Ukraina, cũng không cho phép giải quyết được vấn đề. Đảm bảo an ninh Ukraina : « Trò chơi chính trị » của phương Tây Ba mươi mốt năm sau ngày ký Bị Vong Lục, và với hai cuộc chiến xâm lược của Nga sau đó, chính quyền Kiev giờ đây muốn tránh bằng mọi giá rằng các cuộc đàm phán về bảo đảm hòa bình một lần nữa sẽ không là những « tờ giấy lộn ». Trước khi ký kết bất kỳ một thỏa thuận nào với Matxcơva, tổng thống Volodymyr Zelensky mong muốn có được những bảo đảm quân sự vững chắc từ phía các đối tác nhằm ngăn ngừa một cuộc chiến xâm lược mới. Tuy nhiên, bà Tatiana Stanovaya, chuyên gia về chính trị Nga và là nhà sáng lập nhóm nghiên cứu R. Politik, trả lời báo Pháp Le Figaro, nhắc lại lập trường của Nga đối với hòa bình cho Ukraina là rất rõ ràng, điện Kremlin, « không chấp nhận rằng các bảo đảm an ninh tập thể cho Ukraina để giải quyết khủng hoảng Ukraina được thông qua mà không có sự tham dự của Nga ». Nói một cách cụ thể : « Ukraina chỉ có thể được hưởng các bảo đảm về tôn trọng đường biên giới với điều kiện thực hiện một danh sách các cam kết do Nga đề ra ». Cũng theo nhà nghiên cứu về Nga, phương Tây khó thể bảo đảm an ninh cho Ukraina do phải đối mặt với hai thực tế : « Nga là một cường quốc hạt nhân và nước này đang chiến thắng trên chiến trường. Từ góc độ này, không nước nào, hoàn toàn không một nước nào, có thể đưa ra bất kỳ đảm bảo nào cho Ukraina. Điều gì sẽ thay đổi nếu cuộc xung đột đang bị đóng băng này lại bị Nga vi phạm trong tương lai ? Phương Tây có thể làm gì hơn hoặc khác đi ? Nga là một cường quốc hạt nhân, chỉ riêng câu trả lời này đã khép lại mọi cuộc tranh luận. Khi Emmanuel Macron nói về một "lực lượng tái bảo đảm" sẽ được triển khai tại Ukraina trong trường hợp hòa bình, thì vài nghìn quân có thể làm được gì để bảo vệ nước này khỏi sức mạnh quân sự của Nga ? Ý tưởng này là không nghiêm túc. » Trong bối cảnh này, các cuộc thảo luận xoay quanh những bảo đảm được nêu ra trong các cuộc đàm phán ngoại giao, đối với nhà khoa học chính trị Tatiana Stan
Cuộc chiến tranh tại dải Gaza giữa quân đội Israel và lực lượng Hamas, bùng lên sau vụ tấn công khủng bố của Hamas trên đất Israel khiến hơn một nghìn người chết, và hơn 250 người bị bắt làm con tin, đã kéo dài gần hai năm. Vùng lãnh thổ rộng hơn 40 km² của người Palestine bị tàn phá tan hoang, khiến hàng chục nghìn người chết, hàng trăm nghìn người bị thương, đa số dân cư phải sống trong cảnh màn trời chiếu đất. Tuy nhiên, việc công nhận Nhà nước Palestine một lần nữa trở thành một vấn đề nóng bỏng của thời sự quốc tế. Nhiều nước châu Âu, tuyên bố công nhận Nhà nước Palestine. Nước Pháp dự kiến sẽ chính thức công nhận Palestine trong dịp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc vào tháng 9/2025. Nhà nước Palestine là một trong những vấn đề chính trị quốc tế đương đại phức tạp bậc nhất. Tạp chí Tiêu điểm thời sự điểm lại một số diễn biến chính trong tiến trình tranh đấu vì một Nhà nước độc lập của người Palestine. Nghị quyết LHQ năm 1947 về hai Nhà nước, thế giới Ả Rập không công nhận Về vấn đề Nhà nước độc lập của người Palestine, ngày 29/11/1947 mà một cái mốc lịch sử. « Nghị quyết của ủy ban lâm thời của Liên Hiệp Quốc về vấn đề Palestine đã được thông qua với 33 phiếu thuận, 13 phiếu chống và 10 phiếu trắng. » Theo Nghị quyết 181 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, vùng lãnh thổ gọi là xứ Palestine, nằm dọc bờ biển đông Địa Trung Hải, phía bắc là Liban và phía nam là Ai Cập hiện nay, sẽ được chia thành hai Nhà nước, một Nhà nước của người Ả Rập và một của người Do Thái, và một khu vực do quốc tế kiểm soát, bao gồm các thánh địa như Jerusalem và thành Bethleem. Theo nghị quyết 181 của Liên Hiệp Quốc, nước Anh, quốc gia được Hội Quốc Liên – tiền thân của Liên Hiệp Quốc - giao trách nhiệm bảo trợ cho vùng đất này từ năm 1922, sau khi đế chế Ottoman giải thể, sẽ phải rút khỏi Palestine vào cuối năm 1948. Nghị quyết về hai Nhà nước liên quan đến vùng đất lịch sử Palestine được coi là một nguyên tắc pháp lý căn bản của Liên Hiệp Quốc về « vấn đề Palestine ». Năm 2000, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc đã thông qua nghị quyết 1397 tái khẳng định « giải pháp hai Nhà nước ». Tuy nhiên, nghị quyết 181 của Liên Hiệp Quốc đã không được thực thi đầy đủ. Ngày 14/05/1948, Nhà nước Israel của người Do Thái chính thức ra đời. Nhưng đã không có một Nhà nước của người Ả Rập. Các đụng độ bùng phát dữ dội giữa các cộng đồng người Ả Rập cư trú lâu đời tại xứ Palestine, với người Do Thái, trong đó có rất nhiều người đến từ châu Âu, đặc biệt sau các cuộc diệt chủng người Do Thái của chế độ Đức Quốc xã. Ước tính từ khoảng 800.000 người đến hơn 1 triệu người Ả Rập tại Palestine đã phải rời bỏ quê hương trong biến cố được gọi là « Nakba », tiếng Ả Rập có nghĩa là đại thảm họa. Năm 2023, lần đầu tiên Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc chính thức tổ chức kỷ niệm thường niên biến cố « Nakba ». Cho đến nay, theo Liên Hiệp Quốc, có hơn 4 triệu người là người Palestine tị nạn sau biến cố Nakba, hoặc hậu duệ của họ. Thế giới Ả Rập không công nhận nhà nước Do Thái. Cuộc chiến tranh Ả Rập – Do Thái đầu tiên bùng nổ vào năm 1949. Sau cuộc chiến tranh này Jordanie kiểm soát vùng Cisjordanie và Đông Jerusalem, dải Gaza thuộc quyền kiểm soát của Ai Cập. Cũng năm này, Liên Hiệp Quốc công nhận Nhà nước Israel. Hai mươi năm « bị xóa sổ khỏi lịch sử » Nếu như trước khi Nhà nước Do Thái ra đời, các cộng đồng người Ả Rập Palestine từng có một vị thế nhất định, thì sau thời điểm này, người Palestine hoàn toàn « bị xóa sổ khỏi lịch sử », như ghi nhận của chuyên gia Jean-Paul Chagnollaud, giáo sư danh dự các trường Đại học, chủ tịch Viện nghiên cứu về vùng Trung Đông Địa Trung Hải (IREMMO) với đài France Culture : « Trong suốt 20 năm đó – từ 1949 đến cuộc chiến 1967 - có thể nói rằng người Palestine đã bị đẩy ra khỏi ‘‘lịch sử’’ hoặc bị xóa sổ khỏi lịch sử như người ta thường nói, và chủ nghĩa dân tộc Palestine – vốn đang hình thành - đã bị suy yếu nghiêm trọng. Những người mang tinh thần dân tộc chủ nghĩa Palestine vào thời điểm đó chính là những người Palestine đã rời khỏi vùng đất nơi Nhà nước Israel được thành lập. Đó là những người tị nạn, những người sẽ đến Liban, đến Jordanie. Có rất nhiều người tị nạn ở Jordanie. Họ cũng đến dải Gaza, nơi đang nằm dưới sự quản lý của Ai Cập của thời điểm đó. Điều này khiến dân số dải Gaza vào những năm 1949 - 1950 gồm đến 90% là người tị nạn, tức là những người có quê hương tại các vùng đất ở Palestine, cách đó chỉ 10, 30, 50, 100 km, tức rất gần, vì Gaza là một vùng lãnh thổ rất nhỏ, chỉ bằng hai, ba tỉnh của nước Pháp. Như vậy là người Palestine biến mất và trên bình diện quốc tế, người ta chỉ còn nói đến ‘‘vấn đề người tị nạn’’. Người ta thậm chí không còn dùng đến từ “Palestine” nữa. Để lấy một ví dụ cụ thể, có thể dễ dàng kiểm chứng về mặt pháp lý : Đó là nghị quyết đầu tiên sau cuộc chiến tranh năm 1967, nghị quyết 242 tháng 11/1967. Đây là một nghị quyết quan trọng, nghị quyết đầu tiên sau cuộc chiến năm 1967. Nghị quyết này nói rằng các lãnh thổ đã chiếm đoạt phải được trả lại cho các quốc gia, và khi nói về người tị nạn, thì chỉ có một dòng về họ. Người ta thậm chí không dùng từ “Palestine”, mà chỉ yêu cầu có ‘‘một giải pháp công bằng’’, chỉ một dòng đó mà thôi (un juste règlement du problème des réfugiés). Nói cách khác, người Palestine đã biến mất. » Tổ chức Giải phóng Palestine ra đời dưới quyền kiểm soát của Ai Cập Tổ chức Giải phóng Palestine PLO được thành lập chính thức vào năm 1964. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu, tổ chức mang tôn chỉ giải phóng Palestine phục vụ trước hết cho quyền lợi của một số thế lực Ả Rập trong khu vực, đặc biệt là nước Ai Cập của Nasser (một cường quốc trong khu vực, đặc biệt sau cuộc chiến thắng lợi trước liên minh Anh, Pháp và Israel nhằm kiểm soát kênh đào Suez năm 1956), và vương quốc Jordanie, kiểm soát vùng Cisjordanie của người Palestine. Chuyên gia Jean-Paul Chagnollaud nhận định : « Lãnh đạo Palestine Arafat, với việc thành lập tổ chức Fatah (phong trào giải phóng dân tộc Palestine) năm 1959, đã xuất hiện trong bối cảnh đó, một bối cảnh bị chi phối bởi lãnh đạo Ai Cập Nasser. Còn người dân vùng Cisjordanie bị chi phối bởi quan điểm chính thống về dân tộc Jordan, với những gia tộc lớn gần gũi với hoàng gia Jordanie, các thế lực kiểm soát các thành phố Cisjordanie. Trong toàn bộ giai đoạn này, việc khẳng định tinh thần dân tộc Palestine là điều gần như bất khả thi. Làm sao có thể làm cho người Palestine cảm thấy mình là một dân tộc đang hình thành sau tất cả những sự kiện đã làm cho họ bị phân mảnh, tan tác, bị đập nát theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Tổ chức Giải phóng Palestine PLO được thành lập năm 1964. PLO được thành lập bởi ai ? Trong tổ chức này có người Palestine, nhưng PLO là do lãnh đạo Ai Cập Nasser lập ra, với sự ủng hộ của vua Jordanie Hussein. Tại sao họ lại thành lập PLO vào thời điểm đó ? Bởi vì họ biết rằng thực sự có một phong trào dân tộc đang manh nha, đang được xây dựng, đang định hình, đó là phong trào dân tộc chủ nghĩa Fatah, do Arafat lãnh đạo, từ đầu những năm 1960. Nasser không thể để mình bị vượt mặt. Và vì vậy, cần phải kiểm soát. Vậy làm sao để kiểm soát ? Bằng cách thành lập một tổ chức, Tổ chức Giải phóng Palestine, với sứ mệnh lúc đó là xác lập sự thống nhất của các nước Ả Rập, trước khi lo chuyện Palestine. Khối Ả Rập thống nhất sẽ cho phép giải phóng Palestine, đó là cách người ta nói vào thời điểm đó. Trong kịch bản đó, PLO không phải là của người Palestine, mặc dù người đứng đầu PLO là Ahmad Shukeiri. Ông ấy là một người Palestine, nhưng là một người Palestine làm bình phong cho Nasser. Nhân vật này từng làm việc tại Liên đoàn Ả Rập với Nasser. Lập ra PLO thực sự là một việc chủ yếu do Ai Cập chủ trương để cố gắng kiểm soát tình hình, và họ đã thành công. » Cuộc chiến « Sáu ngày » 1967 : Thất bại của khối Ả Rập và sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc Palestine Năm 1967, cuộc chiến tranh thứ ba giữa các nước Ả Rập và Israel bùng nổ. Cuộc chiến chỉ kéo dài 6 ngày nhưng để lại các hệ quả lớn. Israel giành lại dải Gaza và vùng Cisjordanie, nhưng thất bại của khối Ả Rập, cũng để ngỏ cơ hội cho sự trỗi dậy của phong trào dân tộc Palestine với vai trò hàng đầu của nhà lãnh đạo Arafat. Giáo sư Jean-Paul Chagnollaud nhận định : « Đối với chủ nghĩa dân tộc Palestine, vốn bị kìm hãm bởi chủ nghĩa dân tộc Ả Rập, điều này đã mở ra những triển vọng mới. Chủ nghĩa dân tộc Palestine có thể nói đã nhanh chóng lấp đầy khoảng trống, đột ngột mở ra do thất bại hoàn toàn của các nước Ả Rập, do thảm họa năm 1967. Việc thay đổi lãnh thổ như vậy đã mang lại thay đổi địa-chính trị to lớn, và tiếp đó là sự suy yếu của chủ nghĩa dân tộc Ả Rập, đã mở rộng đường cho chủ nghĩa dân tộc Palestine và cho Arafat. Tôi có thể nói thêm một điều này : Nếu như năm 1964 PLO đã bị Ai Cập, Nasser và Ahmad Shukeiri thao túng, thì ngay sau cuộc chiến, tức là vào những năm 1968-1969, người Palestine đã giành quyền kiểm soát PLO. Kể từ tháng 2/1969, PLO đã thực sự trở thành tổ chức của người Palestine kể từ năm 1968. » Phong trào Intifada đầu tiên, PLO tuyên bố thành lập Nhà nước Palestine Phong trào PLO dưới sự lãnh đạo của Arafat, để hướng tới khẳng định quyền tự quyết dân tộc, quyền của một Nhà nước độc lập của người Palestine, đã tiến hành cùng lúc hai cuộc chiến, cuộc tranh đấu vũ trang và cuộc tranh đấu về chính trị và ngoại giao. Năm 1974, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc chính thức công nhận « quyền tự quyết » và « nền độc lập » của người Palestine, và công nhận vai trò quan sát viên của PLO tại Liên Hiệp Quốc. Trong tiến trình tranh đấu của người Palestine, phong trào tranh đấu ôn hòa Intifada lần thứ nhất, bùng lên từ cuối năm 1987 trước hết tại Gaza, rồi lan rộng sang vùng Cisjordanie, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nhà nghiên cứu François Ceccaldi, đảm nhiệm môn lịch sử thế giới Ả Rập đương đại của Collège de France nhận định : « Phong trào Intifada là một giai đoạn lịch sử trong đó đã có rất nhiều biến chuyển, ít nhất là đã cho phép Arafat thay đổi phần nào chính sách của mình, thúc đẩy bởi những thành quả của phong trào Intifada và uy tín ngày càng tăng của tổ chức PLO. Ông đã quyết
Ngày 27/07/2025, Mỹ và Liên Hiệp Châu Âu đã ký kết một thỏa thuận thương mại, dự trù áp thuế 15% với hàng nhập khẩu của Liên Âu vào Mỹ . Chính sách kinh tế quyết liệt này của chính quyền Trump gợi nhắc đến chính sách của Richard Nixon, tổng thống Mỹ từ năm 1969 đến năm 1974. Giống như người tiền nhiệm, Donald Trump sử dụng kinh tế như một công cụ đàm phán để áp đặt các lựa chọn ngoại giao và thương mại. Sự việc bắt đầu vào một ngày Chủ Nhật 15/08/1971, vào lúc các sàn chứng khoán đóng cửa, tổng thống Richard Nixon bất ngờ thông báo « tạm thời » chấm dứt thỏa thuận Bretton Woods ký kết năm 1944, và tuyên bố áp thuế 10% đối với tất cả các loại hàng hóa nhập khẩu vào Mỹ, chủ yếu nhắm vào Đức và Nhật Bản, đang trên đà trỗi dậy. Quyết định này đã gây ra điều mà người ta gọi là « cú sốc Nixon ». 1944 : Thỏa thuận Bretton Woods Để hiểu được hành động của Richard Nixon, cần phải xem xét lại bối cảnh tiền tệ vào thời điểm trước và trong những năm 1940. Tháng 7/1944, Hoa Kỳ cùng với 44 nước đồng minh kinh tế họp tại khách sạn Mount Washington, thành phố Bretton Woods, bang New Hampshire, để chuẩn bị những nền tảng cơ bản cho hệ thống kinh tế toàn cầu. Theo như giải thích của giáo sư kinh tế Sébastien Jean, trường Conservatoire National des Arts et Metiers, trong một chương trình của tuần báo Pháp L’Express, « Tại hội nghị này, những nền tảng sắp xếp, tổ chức các mối quan hệ kinh tế quốc tế thời hậu chiến đã được đặt ra với ba trụ cột : thứ nhất là tài chính – hệ thống tiền tệ, thứ hai là viện trợ cho phát triển với việc thành lập Ngân hàng Thế giới và thứ ba là thương mại, phức tạp hơn một chút, nhưng sau đó, vào năm 1947, được thể hiện qua GATT (General Agreement on Tariffs and Trade - Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch), một hiệp định sau này cho ra đời WTO – Tổ chức Thương mại Thế giới. » Cũng theo giáo sư Sebastien Jean, trong thỏa thuận này, điều đáng chú ý nhất là các nước tham gia hội nghị quyết định áp dụng một chế độ tỷ giá hối đoái cố định mới dựa vào đồng đô la thay cho cơ chế bản vị vàng, vốn dĩ xác định giá trị các loại tiền tệ dựa theo vàng. « Đồng đô la vẫn sẽ giữ được khả năng chuyển đổi tự do sang vàng. Điều này là khả thi bởi vì trong thời kỳ chiến tranh, do Hoa Kỳ cung ứng cho các nước và bắt họ thanh toán bằng vàng, vì vậy vào thời điểm đó, Mỹ nắm giữ hơn hai phần ba dự trữ vàng của thế giới. Do đó, họ có rất nhiều vàng và có đủ sức thuyết phục để tuyên bố "Chúng tôi muốn đồng tiền của chúng tôi và giá trị của chúng được xác định bằng vàng", bởi vì vào thời điểm đó, vàng được coi là sự đảm bảo tối thượng. Nhưng đô la là đồng tiền duy nhất trong tình huống này. » Bretton Woods và những hạn chế Nhưng hệ thống tiền tệ mới này bắt đầu cho thấy có những hạn chế. Mỹ và đồng đô la phải đối mặt với những « mệnh lệnh đầy mâu thuẫn ». Thứ nhất, khi biến đô la thành đồng tiền dự trữ và được neo theo vàng, Hoa Kỳ trở thành nguồn cung cấp đô la chính cho toàn thế giới : Đô la vừa là tài sản dự trữ quốc tế, vừa là tài sản giao dịch. Hệ quả, theo giáo sư Sebastien Jean, là Mỹ « phải cho lưu hành rất nhiều đô la bởi vì phải có thanh khoản trong hệ thống tiền tệ quốc tế. Và để có thanh khoản, Mỹ phải đi vay : Một đô la lưu hành tương đương với một chứng khoán nợ do Ngân hàng Trung ương Mỹ phát hành, giống như bất kỳ loại tiền tệ nào. » Cùng lúc, Hoa Kỳ phải đối mặt với mệnh lệnh mâu thuẫn thứ hai : Cơ chế neo đồng đô la với vàng. « Để việc neo giá này trở nên đáng tin cậy, để cho giá trị đồng đô la có uy tín trên thế giới, Mỹ không được vay nợ quá mức. Bởi vì mỗi khi mắc nợ, Hoa Kỳ lại phát hành đồng đô la mà họ cho là có một giá trị cố định bằng vàng. Nhưng càng phát hành nhiều, độ tin cậy của đô la càng giảm. » Chỉ có điều, vào cuối những năm 1960, những khoản chi cho cuộc chiến ở Việt Nam khiến tình trạng thâm hụt ngân sách Mỹ ngày càng nặng. Điều này làm dấy lên mối ngờ vực từ nhiều nước về độ tin cậy của khả năng tự do quy đổi đô la thành vàng, trong khi Hoa Kỳ cảm thấy bị bó buộc, bởi vì họ muốn vay nợ nhiều hơn để tài trợ cho cuộc chiến, nhưng lại không thể thực hiện mà không gây nguy hiểm cho sự ổn định của hệ thống tiền tệ, theo như nhận định của giáo sư Sebastien Jean. Trả lời tuần báo Pháp L’Express, ông giải thích : « Như thông lệ trên thị trường tài chính, có thể có những dự báo được thực hiện (tự chứng dự báo), nghĩa là nếu một số tác nhân bắt đầu nghi ngờ giá trị đồng đô la, về khả năng chuyển đổi tự do thành vàng, thì vào lúc đó, tất cả những ai giữ đô la đều sẽ muốn đổi đô la ra vàng và như vậy, họ phá hủy độ tín nhiệm của đồng đô la và điều đó có nguy cơ dẫn đến phản ứng dây chuyền, kết thúc nhanh chóng một cách thảm khốc ». Đây chính là điều Pháp đã thực hiện. Tháng 8/1971, Paris đã cho quy đổi một lượng lớn đô la dự trữ thành vàng, đưa lượng lớn vàng dự trữ từ Mỹ về nước. Hệ quả là lượng vàng dự trữ của Hoa Kỳ sụt giảm mạnh : từ mức 2/3 dự trữ thế giới vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến, đến năm 1970 rớt xuống còn 1/6. Mỹ không còn vị thế như xưa để có thể tác động đến cơ cấu hệ thống tiền tệ thế giới. Chính trong bối cảnh bất định này, Hoa Kỳ còn phải đối mặt với một sự cạnh tranh kinh tế khốc liệt với châu Á và châu Âu, những điều kiện tạo nên chiến thắng lợi của ông Richard Nixon, ứng viên đảng Cộng Hòa, trong bầu cử năm 1969. Giáo sư kinh tế Sebastien Jean cho biết : « Vào thời kỳ đó, Hoa Kỳ đương nhiên vẫn là một đại cường về kinh tế, đi đầu về công nghệ. Nhưng đó cũng là thời điểm các nước châu Âu cũng như Nhật Bản, không những đã kết thúc giai đoạn tái thiết đất nước mà còn bắt kịp về cơ bản sự chậm trễ về công nghệ đối với Mỹ. Những nước này có sức tăng trưởng rất nhanh, được giữ vững từ năm 1945. Họ chưa bắt kịp nhưng đã lấp được phần lớn cách biệt với Mỹ đến mức trở thành những cường quốc kinh tế, thương mại, công nghệ, những đối thủ cạnh tranh với Mỹ, điều chưa từng có trong quá khứ ». Cùng một phương pháp Chủ Nhật, ngày 15/08/1971, tổng thống Mỹ Nixon thông báo tạm dừng khả năng quy đổi tự do đô la thành vàng với hiệu lực tức thì. Như vậy, Hoa Kỳ đã có thể in tiền và bơm chúng vào nền kinh tế mà không cần tăng lượng vàng dự trữ. Thông báo này gây chấn động thị trường thế giới. Ngày hôm sau, 16/08/1971, ngay khi thị trường mở cửa, cam kết chuyển đổi đô la sang vàng ở mức 32 đô la/ounce đã bị Hoa Kỳ đình chỉ « tạm thời ». Nhưng trên thực tế, cam kết này sẽ không bao giờ được khôi phục. Richard Nixon : « Tôi chỉ thị cho bộ trưởng Tài Chính tạm dừng cơ chế chuyển đổi đô la sang vàng hay bất kỳ tài sản dự trữ nào khác, ngoại trừ các điều kiện được ấn định vì lợi ích của việc ổn định tiền tệ và vì lợi ích tốt nhất cho nước Mỹ. » Cùng một lúc, tổng thống Nixon tuyên bố áp thuế 10% đối với tất cả các loại hàng hóa nhập khẩu vào Mỹ. Đây là một cách để ông hạ giá đồng đô la một cách giả tạo và tạo ra ngoại hối, cho phép « vực dậy nền kinh tế Mỹ và đồng đô la, để trả lại cho Mỹ vị thế nền kinh tế hàng đầu thế giới ». Quyết định đơn phương này của chính quyền Nixon, đương nhiên đã bị nhiều nước phản đối và đưa ra các biện pháp trả đũa, nhưng lại khá rời rạc và có phần hạn chế. Sự việc cũng đã mở ra một thời kỳ bất ổn kinh tế và những căng thẳng cho các mối quan hệ quốc tế. Giới truyền thông lúc bấy giờ gọi chính sách này của Mỹ là « Nixon Round ». Các hình ảnh tư liệu của Viện Nghe nhìn Quốc gia Pháp (INA) cho thấy rõ lập trường và ý định của Mỹ muốn buộc các cường quốc kinh tế mới nổi (Nhật Bản, Cộng Hòa Liên Bang Đức và Cộng đồng Kinh tế Châu Âu), phải trả giá. Đó là những nước, khu vực đã tự vực dậy nhờ vào viện trợ tài chính của Mỹ và giờ đây đang đe dọa cạnh tranh kinh tế với Mỹ. Hai bối cảnh Hơn nửa thế kỷ sau, Donald Trump, tổng thống thứ 47, cũng thực hiện một cách thức tương tự như người tiền nhiệm áp dụng chính sách bảo hộ khi đơn phương đưa ra các mức thuế quan « chóng mặt » nhắm vào các đối tác, bất kể là đồng minh. Tuy nhiên, trang mạng INA lưu ý thêm rằng, nếu như các phương pháp thực hiện có vẻ giống nhau, thì bối cảnh và các mục tiêu là hoàn toàn khác biệt. Đối với Richard Nixon, tổng thống thứ 37 của Hoa Kỳ, biện pháp này trước hết là nhằm thống trị thị trường thế giới bằng cách tái cân bằng dòng chảy thương mại và buộc các đối tác hung hăng nhất của Mỹ phải tái điều chỉnh giá trị đồng nội tệ của họ so với đô la qua đó, hạn chế lợi thế cạnh tranh của những nước đó. Vào năm 2025, với khẩu hiệu « America First », mục tiêu của tổng thống Donald Trump mang tính ý thức hệ nhiều hơn. Như đã nêu rõ vào ngày 02/04/2025, Donald Trump hy vọng đưa nhà xưởng trở lại Mỹ để tạo ra việc làm, giảm lạm phát và giảm thâm hụt thương mại. Một chính sách mang hơi hướng chủ nghĩa biệt lập. Các quyết định kinh tế của Donald Trump, không hẳn nhằm khôi phục sức mạnh của Mỹ ở bên ngoài, mà là tập trung trở lại vào thị trường nội địa. Ngoài ra, Trump hoạt động trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu hóa và các chuỗi cung ứng quốc tế đã được thiết lập vững chắc. Ngược lại, chính quyền Nixon ban hành các biện pháp thuế quan trong tình trạng mất cân bằng thương mại ngày càng lớn, thế ưu việt của Mỹ đang bị suy giảm dần. Việc sử dụng thuế quan như là một công cụ đàm phán là một khía cạnh chung khác trong cả hai chính sách, nhưng đối với Donald Trump đó là nhằm đạt được các nhượng bộ về những vấn đề không hoàn toàn mang tính kinh tế như việc giám sát biên giới và chống di dân bất hợp pháp. Vào năm 1971, đối với Nixon, đó là nhằm bảo vệ nền kinh tế Mỹ bằng cách tự giải thoát khỏi sự kìm kẹp tiền tệ mà ông cho là quá cứng nhắc ! Những hệ quả Ngoài mục đích chính trị nội bộ, thu hút lá phiếu cử tri, cả hai chính sách này có những tác động đáng kể trong cơ cấu kinh tế thế giới. Những quyết định của chính quyền Nixon năm xưa đã thúc đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa, củng cố các liên minh đối thủ cạnh tranh kinh tế, chẳng hạn như sự ra đời của Liên Hiệp Châu Âu, hay Tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa OPEC… Vào năm 2025, hệ quả toàn cầu từ « học thuyết Mar-a-Lago » do Trump đề xướng là sự bùng phát các đòn trả đũa từ nhiều tác nhân kinh tế. Năm 1971, Hoa Kỳ vẫn chiếm thế độc tôn về kinh tế và nhiều lĩnh vực khác. Nhưng tron
Năm 2025, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO/OMC) kỷ niệm 30 năm ra đời trong bối cảnh tổng thống Mỹ Donald Trump hủy hoại hàng loạt luật chơi của định chế này. Định chế quốc tế, từng do Hoa Kỳ thúc đẩy để đóng vai trò « trọng tài » hay « cảnh sát thương mại quốc tế », giờ đây dường như bất lực đứng nhìn các thiệt hại do cuộc chiến thuế quan mà Trump phát động. Vì sao Trump chống lại định chế vốn tạo điều kiện cho sự thịnh vượng của Mỹ ? Trước hết xin trở lại cội nguồn lịch sử của định chế thương mại lớn nhất hành tinh. Ngày 15/04/1994, tại Marrakech, Maroc, đại diện của 128 quốc gia đã nhất trí lập một tổ chức quốc tế về tham vấn và trọng tài nhằm đảm bảo tự do lưu thông hàng hóa trên toàn thế giới, cũng như thương mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ. Tổ chức Thương mại Thế giới chính thức được thành lập ngày 01/01/1995 tại Geneva, Thụy Sĩ, tại chính trụ sở của Ban thư ký GATT (tức Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại), một cơ quan không chính thức có sứ mạng cắt giảm thuế hải quan trên toàn thế giới, hoạt động từ năm 1947. WTO, định chế quốc tế duy nhất Mỹ chấp nhận thẩm quyền « siêu quốc gia » Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại GATT ra đời sau Đệ nhị Thế chiến, theo thỏa thuận giữa các nước đồng minh, nhằm điều hòa chính sách thuế quan giữa các nước, không để thương mại trở thành công cụ thống trị về kinh tế, có thể dẫn đến xung đột. Hiệp định được sửa đổi nhiều lần qua nhiều vòng đàm phán, trước khi có được một cơ quan có tư cách pháp nhân chính thức, với thỏa thuận Marrakesh năm 1994, dẫn đến sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới. Từ chỗ chỉ có hơn 20 thành viên tham gia Hiệp định GATT, cho đến nay WTO đã thu hút hơn 160 thành viên, chiếm 98% tổng trọng lượng thương mại toàn cầu. Một thành tích rõ rệt nhất thường được nêu là mức thuế hải quan đối với hàng hóa đã giảm trung bình từ 40%, thời sau Thế chiến Hai, xuống còn 6% hiện nay. Liên Hiệp Châu Âu ra đời năm 1993, và đồng tiền chung châu Âu được xác lập năm 2000, sự phát triển đột biến của kinh tế Trung Quốc, Bắc Kinh gia nhập WTO từ 2000… Giai đoạn tự do mậu dịch chưa từng có đi kèm với thịnh vượng chưa từng có với nhân loại cũng là thời kỳ nước Mỹ là siêu cường duy nhất. WTO mang lại nhiều điều cho thế giới, nhưng định chế này đặc biệt có lợi cho Mỹ. Ông Pascal Lamy, cựu tổng giám đốc WTO (2005 - 2013), cựu ủy viên Môi trường Ủy Ban Châu Âu, nhấn mạnh đến vai trò đặc biệt của WTO với Mỹ : « Họ đã xây dựng một hệ thống mà họ nghĩ là tốt cho họ, bởi vì chủ nghĩa tư bản cần đến các quy tắc và sự minh bạch để hoạt động. Đó là lý do tại sao vào năm 1994, với sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), họ đã chấp nhận thành lập một cơ chế phán xử quốc tế có khả năng áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với thành viên nào vi phạm các quy tắc thương mại chung. Đây là tổ chức quốc tế duy nhất mà Hoa Kỳ chấp nhận một liều lượng siêu quốc gia, nghĩa là một hệ thống pháp lý không phải của Mỹ, nhưng có thẩm quyền cưỡng chế với nước Mỹ » (bài « Pascal Lamy : ‘‘Les Etats-Unis tentent de démolir un monde qu’ils ont conçu’’ » [Nước Mỹ đang cố gắng phá hủy một thế giới mà họ đã thiết kế], tuần báo Le Nouvel Obs, ngày 12/05/2025). « Đóng góp đặc biệt cho sự ổn định kinh tế toàn cầu » Tự do mậu dịch có nghĩa là mở cửa các thị trường, và điều này diễn ra trong bối cảnh kinh tế Mỹ ở thế thượng phong. Trong thập niên 1990, đầu những năm 2000, WTO được coi là một công cụ chiến lược với Mỹ để mở cửa các thị trường nước ngoài ở các lĩnh vực mà nền kinh tế Mỹ thống trị, hay có tính cạnh tranh cao như công nghệ tiên tiến, dịch vụ tài chính, sở hữu trí tuệ… và tiếp tục duy trì các biện pháp bảo hộ đối với một số lĩnh vực nhạy cảm trong nước, như thép, dệt may, nông nghiệp cơ bản (theo báo cáo năm 2007 về Hệ thống Giải quyết Tranh chấp của WTO có lợi cho nước Mỹ [WTO Trade Rules Benefit the United States, Says New Council Report], của giáo sư Robert Z. Lawrence - Đại học Harvard, Viện tư vấn chính sách đối ngoại Mỹ Council on Foreign Relations / CFR đăng tải). Báo cáo của nguyên thành viên Hội đồng cố vấn kinh tế của tổng thống Mỹ nhấn mạnh đến một vấn đề đã trở nên nhạy cảm với nước Mỹ ngay từ thời điểm đó, khi nhiều nhà hoạch định chính sách và nhà lập pháp Mỹ bắt đầu chỉ trích mạnh mẽ Cơ chế Giải quyết Tranh chấp (Dispute Settlement Body - DSB) của WTO, thay vì bảo vệ. Cho dù hệ thống này đã và có thể giúp « giảm nhu cầu Mỹ phải sử dụng các biện pháp trả đũa đơn phương, hạn chế một nguồn căng thẳng quan trọng giữa Mỹ và các đối tác ». « Giải quyết tranh chấp là nền tảng của hệ thống thương mại đa phương và là đóng góp chưa từng có của WTO vào sự ổn định của nền kinh tế toàn cầu » (theo WTO). Hệ thống Giải quyết Tranh chấp của WTO, từ khi ra đời định chế này đã giải quyết hơn 600 vụ kiện tụng về thương mại, thông qua cơ chế xem xét tranh chấp ở cấp sơ thẩm (tại Ban hội thẩm) và cấp phúc thẩm (tức Appellate Body). Phán quyết của Cơ quan Phúc thẩm, theo phương thức trọng tài, có tính chung thẩm. Cơ quan Phúc thẩm AB gồm bảy thành viên do Cơ quan Giải quyết Tranh chấp DSB, bổ nhiệm với nhiệm kỳ bốn năm và có thể được bầu lại một lần, gồm những chuyên gia có uy tín và chuyên môn cao trong lĩnh vực pháp luật thương mại quốc tế. Định chế WTO : Từ nguồn lợi của Mỹ trở thành tội đồ Tuy nhiên, hơn 20 năm sau khi WTO ra đời, nước Mỹ thời Donald Trump khẳng định thái độ mất tin tưởng hoàn toàn đối với Tổ chức Thương mại Thế giới. Washington coi WTO hoạt động chậm chạp, can thiệp thô bạo về mặt pháp lý và không đủ năng lực để xử lý các vấn đề địa - chính trị hiện đại, đặc biệt là liên quan đến Trung Quốc, bị Mỹ và nhiều đồng minh cáo buộc là cạnh tranh bất chính trong các lĩnh vực chiến lược, với các trợ cấp ồ ạt cho doanh nghiệp nhà nước, ép buộc doanh nghiệp nước ngoài chuyển giao công nghệ… Năm 2018, chính quyền Trump nhiệm kỳ thứ nhất khởi động cuộc chiến thuế quan, đơn phương đánh thuế hàng trăm tỉ đô hàng nhập từ Trung Quốc. Bắc Kinh khởi kiện. Tháng 9/2020, cơ quan phân xử tranh chấp của WTO ra phán quyết về việc Mỹ áp đặt thuế « mang tính kỳ thị và thái quá », vi phạm các quy định thương mại quốc tế. Đại diện Thương mại Mỹ lúc đó, Robert Lighthizer, đón nhận lạnh nhạt với tuyên bố : « Điều này khẳng định những gì chính quyền Trump đã nói từ bốn năm nay. Đó là WTO hoàn toàn không đủ khả năng ngăn chặn các hoạt động có hại của Trung Quốc trong lĩnh vực công nghệ. » Rời bỏ các quy tắc quốc tế của WTO để « trở về » với « logic của kẻ mạnh » Vào thời điểm cuộc chiến thuế quan chống Trung Quốc lần thứ nhất bùng lên, nhiều chuyên gia như cựu tổng giám đốc WTO Pascal Lamy chưa hiểu rõ phe cầm quyền tại Mỹ muốn gì. Cựu tổng giám đốc WTO băn khoăn : « Hoa Kỳ vẫn chưa nói rõ vấn đề mà họ muốn là gì. Liệu có phải vì các trọng tài viên chưa đưa ra quyết định đúng đắn theo quan điểm của họ, hay vì họ phản đối cơ chế trọng tài siêu quốc gia này ? ». « Liệu việc Washington ngăn chặn bổ nhiệm thẩm phán của cơ quan trọng tài giải quyết tranh chấp của WTO, khiến hệ thống bị tê liệt, có phải là một chiến thuật nhằm thiết lập lại các quy tắc thương mại toàn cầu và buộc Trung Quốc phải nhượng bộ, hay đánh dấu sự kết thúc của chủ nghĩa đa phương (multilateralism), điều mà người Mỹ không còn đồng cảm nữa ? » (trích Le Monde, ngày 10/12/2019). Đọc thêm - Pascal Lamy : ''WTO cần tiếp tục tồn tại, cho dù không có Donald Trump'' Năm nay, khi Trump trở lại nắm quyền, tình hình đã hoàn toàn rõ. Phe cầm quyền của Donald Trump tại Mỹ không chỉ coi Trung Quốc là đích ngắm, trong ngày 02/04/2025, « Ngày Giải phóng nước Mỹ », Donald Trump tuyên bố đơn phương đánh « thuế đối ứng » đối với tuyệt đại đa số các nước, bất chấp luật pháp thương mại quốc tế hiện hành. Điều đó có nghĩa là phe tổng thống Trump không dừng ở việc tấn công vào một số quy tắc của WTO, mà là vào thẩm quyền « siêu quốc gia », vai trò cầm cân nẩy mực của định chế thương mại lớn nhất hành tinh này. Triết lý hành động của tổng thống Donald Trump được thể hiện công khai: Thế giới là một đấu trường, kẻ mạnh áp đặt luật chơi, luật pháp quốc tế hoàn toàn không còn chỗ đứng. Cuộc chiến thuế quan toàn cầu chỉ là phần nổi… Hủy hoại các luật chơi của WTO, nước Mỹ của Donald Trump thực sự tìm kiếm gì ? Nguyên tổng giám đốc Tổ chức Thương mại Thế giới Pascal Lamy, trả lời đài Pháp France 24 hồi tháng 5/2025, đã cảnh báo là cuộc chiến thuế quan nghiêm trọng, làm rung chuyển hệ thống thương mại toàn cầu đang diễn ra chỉ là phần nổi. Điều hệ trọng hơn nhiều là tham vọng thâu tóm quyền lực để độc quyền hành xử bất chấp luật lệ của lãnh đạo Mỹ: « Chúng ta đã có phần bị đánh lạc hướng bởi phong cách hành xử quá đỗi hiếu động của ông Trump, những màn trình diễn liên tục và hàng ngày của ông Trump về vấn đề thuế quan. Chắc chắn tôi không phải là người coi nhẹ vấn đề thương mại quốc tế. Nhưng tôi nghĩ hệ quả của không khí này là chúng ta sẽ không thấy rõ những gì ông ấy thực sự đang làm trong hậu trường, trên bình diện chính trị tại Mỹ, và đối với hệ thống quốc tế. Và điều này có lẽ nghiêm trọng hơn, sâu sắc hơn, mang tính hệ thống hơn nhiều. Đây là điều mà theo tôi, chúng ta chưa chú ý đủ mức và đó là điều nghiêm trọng nhất. Tôi nghĩ rằng một lần nữa, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch của Trump rõ ràng là một vấn đề thực sự, nhưng vấn đề này có thể che khuất điều nghiêm trọng hơn, sâu xa hơn. Đó là việc hành pháp lấn át. Chúng ta không còn nghe tiếng nói của Quốc Hội Mỹ nữa. Tại Mỹ, tòa án không còn là cơ quan kiểm soát các hành động của tổng thống trong các vấn đề thương mại quốc tế. Và ông Trump đang đưa ra những quyết định hoàn toàn vi phạm các thỏa thuận quốc tế mà Hoa Kỳ đã ký kết trong 150 năm qua. Điều này rất nghiêm trọng, đặc biệt là trong lĩnh vực môi trường. Dường như đã có quyết định không phải để cho phép thăm dò mà là khai thác một số đáy biển sâu, trong khi mọi người đều đồng ý là việc này phải tuân theo các thủ tục quốc tế. Như vậy là đã có một nỗ lực phá hủy một cách có hệ thống những cơ chế nào hạn chế việc thực thi quyền lực. Đây là điều mà theo tôi là rất nghiêm trọng. » Ngăn cản WTO cải tổ vì khí hậu – môi trường, bảo vệ « năng lượng
Năm nay, 2025, hai nước Vatican và Cộng hòa Hồi giáo Iran kỷ niệm 70 thiết lập quan hệ bang giao. Trong một bài phỏng vấn đăng trên nhật báo Công giáo Ý Avvenire ngày 05/02/2025, đại sứ Iran bên cạnh Toà Thánh, Mohammad Hossein Mokhtari, cho biết « sẽ là vinh dự lớn lao khi được chào đón Đức giáo hoàng đến Teheran. » Điều này, cũng được hồng y người Bỉ, Dominique Mathieu, tổng giám mục Téhéran-Ispahan từ 2021, nêu lên trong một bài phỏng vấn đăng trên tuần san Dimanche của Bỉ, 09/02/2025, « Đức thánh cha chắc chắn mong muốn được đến Iran ». Liệu điều này có khả năng diễn ra hay không ? Thực hư mối quan hệ giữa Vatican và Iran là gì ? Mối quan hệ bền vững lâu dài Nếu điều này xảy ra thì sẽ không bất ngờ do mối quan hệ ngoại giao lâu dài giữa một nước Cộng hòa Hồi giáo và một quốc gia ki-tô giáo toàn tòng. Thực sự, Toà Thánh đã có quan hệ ngoại giao đầy đủ với Iran từ năm 1954, mặc dù các mối liên hệ đã có từ thời vua Abbas Đại Đế ở thế kỷ XVI. Mối quan hệ chính thức được thiết lập giữa Đức giáo hoàng Piô XII và Shah (vua) Mohammad Reza Pahlavi, người đã thành lập chế độ quân chủ chuyên chế ở Iran. Chính ông đã lãnh đạo đất nước gọi là Nhà nước Đế Quốc Iran. Mối quan hệ ngoại giao này luôn được duy trì mà không hề bị cắt đứt hay ngưng trệ dù Iran có trải qua cuộc cách mạng Hồi giáo thay đổi cả chế độ vào năm 1979. Cuộc cách mạng này đã chuyển đổi thể chế quân chủ của Iran thành một nhà nước Cộng hòa Hồi giáo, mà lãnh tụ tôn giáo mới là người thực sự nắm quyền. Sau cuộc Cách mạng Hồi giáo 1979, một số người theo chủ nghĩa chính thống (fondamentalisme) muốn cắt đứt quan hệ với Tòa Thánh vốn đã có từ lâu. Tuy nhiên, lãnh tụ tối cao Khomeini đã phản đối. Theo như đại sứ đầu tiên của Cộng Hòa Hồi giáo tại Vatican, Sayyid Hadi Khosrowshahi, chính giáo chủ Khomeini đã gởi cho ông những thông điệp để chuyển đến Đức Gioan Phaolô II, người vừa được bầu lên vào thời điểm đó. Thông điệp mang nội dung hòa bình và lời mời chung sống với các ki-tô hữu. Iran đã luôn đầu tư mạnh mẽ vào mối quan hệ với Toà Thánh. Sự đầu tư này không chỉ mang màu sắc chính trị mà Iran còn tìm thấy nơi Toà Thánh sự tương đồng về chiều kích tâm linh tôn giáo. Mới đây, bộ trưởng Văn Hóa Iran đã hiện diện tại lễ an táng của Đức Phanxicô và lễ nhậm chức của Đức Lêô XIV. Ông đã chuyển tới đức tân giáo hoàng thông điệp của tổng thống Iran nhấn mạnh đến niềm tin lâu đời của Iran vào các nguyên tắc thống nhất của các tôn giáo lớn trên thế giới : Các tôn giáo đều bắt nguồn từ một chân lý duy nhất – chân lý kêu gọi nhân loại hướng đến phẩm giá, lòng trắc ẩn và hòa bình. Đức Lêô XIV đã ca ngợi chiều sâu lịch sử và văn hóa của người dân Iran, lưu ý rằng khi đức tin được thể hiện thông qua sự tôn trọng và đối thoại, « nó có sức mạnh biến đổi thế giới ». Sự chung sống của các tôn giáo Người dân Iran đã quen với sự chung sống giữa các tôn giáo. Người ki-tô hữu là một trong ba nhóm thiểu số được Hiến pháp Iran công nhận, cùng với người Do Thái giáo và người theo đạo Zoroaster (Bái hỏa giáo). Những đại diện của ba tôn giáo này tại Quốc hội Iran có quyền tham gia vào các phiên họp và có ý kiến ngay cả với những vấn đề nhạy cảm về an ninh quốc gia. Những thánh đường Công giáo cổ là những di sản văn hóa quốc gia. Kinh thánh Ki-tô giáo được dịch sang tiếng Ba Tư và các bản văn ki-tô giáo được giảng dạy và nghiên cứu. Tuy nhiên, việc truyền giáo giữa các tín đồ của các tôn giáo lại là vấn đề khác, hay vấn đề ép buộc cải sang Hồi giáo hay Công giáo cũng là một vấn đề hoàn toàn không liên quan với nhau. Người Hồi giáo Iran đa số thuộc hệ phái Shia và một thiểu số Sunni. Thế nên, ngay trong nội bộ, lãnh tụ tối cao đã thành lập các trường đại học để khuyến khích đối thoại. Hiến pháp Iran ghi nhận mọi quyền con người liên quan đến luật Kinh Coran, tức là luật pháp có nguồn gốc tôn giáo. Tuân thủ luật pháp như một hình thức thi hành tôn giáo. Điều này có thể giải thích cho việc : - Bài Hồi giáo là kết quả của những quan điểm sai lầm. Hồi giáo bị thu hẹp lại thành những nhóm bạo lực nhỏ. Họ giải thích kinh Coran theo cảm tính. Hồi giáo là một tôn giáo có chiều kích từ bi mạnh mẽ. Chính những nhóm này đang bị những người Hồi giáo chân chính xua đuổi. Và niềm tin đích thực phải được truyền đạt cho thế hệ trẻ. - Những người trẻ đang dần xa rời đức tin tôn giáo. Đó là vấn nạn chung, không chỉ nơi Hồi giáo mà cả nơi các tôn giáo khác. Mà vấn nạn này lãnh tụ Hồi giáo Iran mong muốn chia sẻ với người đứng đầu giáo hội Công giáo. Đối thoại Iran và Vatican được hình thành từ bao giờ ? Việc thiết lập sự đối thoại này đã được thực hiện từ lâu. Năm 1985, trong khi cuộc chiến Iran-Irak tàn khốc đang diễn ra, Iran đã mời nhà thần học phương Tây đầu tiên, linh mục Công giáo người Thụy Sỹ, Hans Küng, đến để trao đổi quan điểm với những người đồng cấp Hồi giáo. Küng đã rất ấn tượng khi thấy các giáo sĩ, quan chức Nhà nước và thậm chí cả các thành viên của gia đình giáo chủ tối cao lúc bấy giờ là Ayatolla Ruhollah Khomeini tham dự. Ông đã viết vào thời điểm đó: « Thay vì tranh chấp, hãy đối thoại. Đây là cụm từ đáng kinh ngạc mà tôi nghe thấy ở Teheran. Tôi tin rằng đối thoại chủ yếu có động cơ tôn giáo và sẽ đơm hoa kết trái. » Cuộc đối thoại này vẫn tiếp tục. Từ năm 1995, Tổ chức Văn hóa và Quan hệ Hồi giáo của Iran và Hội đồng Giáo hoàng về Đối thoại liên tôn của Vatican vẫn đều đặn gặp gỡ hội thảo mỗi 2 năm. Không chỉ với Giáo hội Công giáo, với khoảng 300.000 tín đồ tập trung ở Ispahan, nguyên là thủ đô của Iran, Hồi giáo Iran còn đối thoại với cả thiểu số Chính thống giáo Hy Lạp. Từ 1992, các giáo sĩ dòng Shia đã tổ chức cuộc họp liên tôn đầu tiên tại Athens với Giáo hội Chính thống giáo Hy Lạp. Các nhà tư tưởng Iran ngưỡng mộ giáo hội Chính thống giáo đã duy trì các giá trị và bản sắc truyền thống trước sự toàn cầu hóa của phương Tây. Hợp tác tôn giáo này còn được thể hiện qua sự can thiệp vào năm 2011 của giám mục Anh giáo John Bryson Chane và Hồng y Theodore McCarrick trong cuộc đàm phán thả hai người đi bộ đường dài người Mỹ bị Iran bắt giữ từ 2009 với cáo buộc làm gián điệp. Trung gian chính trị Có 3 lý do cơ bản để mối quan hệ giữa Teheran và Vatican trở nên gần gũi và có thể trở thành cầu nối cho những mối tương quan khác. Trước tiên, tầng lớp lãnh đạo của Iran không chỉ được thúc đẩy bởi Realpolitik, tức là thực thi những đường lối chính trị thực dụng trước mắt, như thắng cử mà không có đường lối hay ý thức hệ chính trị của một đảng. Những nhà lãnh đạo Iran hoạt động trong sự pha trộn tâm lý và văn hóa mà trong đó niềm tin tôn giáo đóng vai trò quan trọng. Đó là điều mà các nhà lãnh đạo phương Tây không thể hiểu được vì khái niệm tách biệt giữa Nhà nước và Giáo hội. Tuy nhiên, giáo hoàng và những người cộng tác của ngài có thể gặp gỡ với những nhà lãnh đạo Iran ngay trên chính lãnh địa này, nơi mà họ tìm thấy một vũ trụ chung về các niềm tin thiêng liêng và thần học. Thứ hai, đó là sự chia rẽ giữa các phái Hồi giáo, mà lớn nhất là hệ phái Shia và Sunni, có thể được xem tương đương với sự chia sẽ giữa Công giáo và các hệ phái Tin Lành hay Chính thống giáo. Và việc đi tìm sự hợp nhất cho sự chia rẽ của các tin đồ cùng tin thờ một Thượng đế là vấn đề mà những người trong cuộc mới hiểu rõ và chia sẻ với nhau. Thứ ba, xét về mặt chính sách, Iran và Vatican dưới thời Đức Phanxicô có nhiều khía cạnh tương đồng. Đó là cả hai đều mong muốn một trật tự thế giới đa phương hơn, không còn bị các cường quốc phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ, thống trị. Đức Phanxicô là người ủng hộ chính cho liên minh BRICS, trong đó Iran là một trong sáu thành viên mới thành lập, và giáo hoàng có thể được tin tưởng sẽ tiếp tục khuyến khích BRICS trở thành một đối trọng kinh tế và chiến lược thực sự trong các vấn đề toàn cầu. Vấn đề hạt nhân và Syria Đối với Vatican, Syria là nơi có cộng đoàn Công giáo lớn nhất ở vùng Cận Đông. Đó là lý do tại sao từ năm 2013, Đức Phanxicô đã can thiệp vào Syria khi tổng thống Assad có thể đã sử dụng vũ khí hóa học chống lại chính người dân của mình. Vào tháng Chín năm đó, Đức Phanxicô đã kêu gọi một ngày cầu nguyện toàn cầu cho Syria khi tình hình nước này ngày càng hỗn loạn. Bên cạnh việc cầu nguyện, Vatican đã trình bày tóm tắt lập trường cho khoảng 70 vị đại sứ bên cạnh Tòa Thánh rằng một sự can thiệp sẽ chỉ làm trầm trọng thêm xung đột và cần phải tìm kiếm một giải pháp hòa bình. Đức Phanxicô cũng đã viết thư cho các thành viên của G20, khi đó đang nhóm họp ở Nga, lập luận rằng một sự can thiệp quân sự là vô ích. Khi đó Hoa Kỳ đã chọn không can thiệp và thay vào đó, chuyển kho vũ khí hóa học của Assad cho một tổ chức quốc tế. Hành động này cũng kéo Vladimir Putin vào cuộc nhằm bảo vệ những người ki-tô giáo và trong các nỗ lực cung cấp viện trợ nhân đạo. Iran đã bày tỏ sự ngưỡng mộ trước các nỗ lực của Tòa Thánh trong việc ngăn chặn các cuộc không kích vào Syria. Còn đối với Vatican, Iran là một bên không thể thiếu trong việc chấm dứt xung đột ở Syria. Vatican là thành viên sáng lập của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế và từ lâu cũng đã ủng hộ thỏa thuận hạt nhân của Iran, coi đây là con đường hướng tới việc sử dụng công nghệ hạt nhân vì mục đích hòa bình. Khi Hoa Kỳ từ bỏ thỏa thuận dưới thời chính quyền Trump vào năm 2018, nhóm ngoại giao của Tòa Thánh đã thể hiện rõ sự phản đối. Những mối quan hệ lịch sử dựa trên tôn giáo và quan điểm chung về Syria đã dẫn đến một liên minh chính trị hoàn toàn về thỏa thuận hạt nhân. Trong quá khứ, vào tháng 4/2014, đã từng có một phái đoàn từ Hội đồng giám mục Hoa Kỳ gặp Hội đồng tối cao của các giáo chủ Chủng viện Qom của Iran. Hai bên đã đạt được lập trường chung chống vũ khí hạt nhân và vũ khí giết người hàng loạt. Trong quá trình gặp gỡ này, các giám mục Hoa Kỳ luôn tham khảo ý kiến từ Vatican. Thế nên, trong các vấn đề của vùng Trung Cận Đông, Vatican muốn giúp tạo động lực cho một tiến trình hòa bình tôn trọng vai trò của Iran và họ coi Téhéran là một bên tham gia không thể thiếu, sẵn sàng bảo vệ các nhóm tín ngưỡng mà cho đến nay các chính phủ phương Tây phần lớn không bảo vệ được. Tương đồng trước những vấn đề tôn giáo chung T
Khu vực châu Á – Thái Bình Dương đang âm thầm trỗi dậy trở thành một trung tâm lớn về thương mại, kinh tế và công nghệ. Đi kèm với sự trỗi dậy lặng lẽ này là xu hướng ngày càng phi phương Tây hóa của khu vực, vào lúc mà trong bối cảnh quốc tế nhiều bất ổn, tầm ảnh hưởng của Châu Âu và Mỹ không có còn như xưa. Châu Á – Thái Bình Dương : Đầu tầu kinh tế, thương mại, công nghệ mới Với một vùng duyên hải bao la, châu Á – Thái Bình Dương, trải dài từ Đông Á (gồm năm nước Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc, Mông Cổ, Nhật Bản, Trung Quốc và đảo Đài Loan) đến Đông Nam Á (Brunei, Cam Bốt, Đông Timor, Indonesia, Lào, Malaysia, Miến Điện, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam) trong khoảng từ 3-4 thập niên trở lại đây chiếm một vị trí quan trọng trong nền thương mại toàn cầu. Theo số liệu do Ngân hàng Thế giới (World Bank) công bố, châu Á – Thái Bình Dương chiếm đến 60% GDP của toàn cầu và 66% tăng trưởng kinh tế thế giới, biến khu vực này thành một trung tâm công nghiệp và chuỗi dây chuyền sản xuất mới của thế giới, theo ghi nhận của tiến sĩ địa lý Emmanuel Véron, chuyên gia về Trung Quốc đương đại, thành viên Viện Nghiên cứu Pháp về Đông Á (IFRAE) trên làn sóng RFI Pháp ngữ (23/07/2025): « Trong vòng 3-4 thập niên gần đây, toàn thế giới phần lớn phụ thuộc vào khu vực đi từ Đông Á mở rộng đến Đông Nam Á. Ngược lại, các thị trường lớn thống nhất, hợp nhất, như thị trường châu Âu, thị trường Bắc Mỹ rõ ràng là hoàn toàn bị gắn kết, với vùng duyên hải rộng lớn châu Á – Thái Bình Dương này. Về cơ bản, khu vực này là một trong những trung tâm công nghệ, thương mại và kinh tế lớn nhất thế giới ». Châu Á – Thái Bình Dương cũng là khu vực tập trung đến một nửa trong số khoảng từ 30-40 các khu đô thị giầu có nhất của thế giới. Sự hình thành các mạng lưới thương mại và tài chính trong nội khối là những nguồn tăng trưởng thiết yếu cho các nước châu Á. Điều đó dẫn đến một hiện tượng mà chuyên gia địa chính trị Sophie Boisseau du Rocher*, Viện Quan Hệ Quốc Tế Pháp (IFRI), gọi là « tái tập trung và khu vực hóa » châu Á, một trong số các xu hướng địa chính trị quan trọng nhất của vùng. Những thước đo thành công Cùng chia sẻ « đặc điểm văn hóa chung » - nghĩa là tùy theo mức độ ảnh hưởng cũng như là cách diễn giải theo từng khu vực mà những nước này được kết nối với điều được gọi là « khối văn minh Hán hóa » -, và nhất là có một nền dân số trẻ (800 triệu người được sinh ra tính từ đầu thế kỷ XXI so với 66 triệu tại Mỹ và 60 triệu tại châu Âu), là những điều kiện chính tạo nên sự năng động cho khu vực. Cũng theo nhà nghiên cứu Sophie Boisseau du Rocher, trả lời nhật báo Pháp Le Figaro ngày 09/07/2025, thành công của khu vực còn nhờ vào hai yếu tố : Thứ nhất là vai trò « hoạch định » của nhà nước, xác định các mục tiêu ưu tiên và vạch ra phạm vi hoạt động, từ việc nâng cấp chuỗi dây chuyền sản xuất, cải thiện chất lượng cơ sở hạ tầng hay chọn « thành phố thông minh » để thí điểm những chính sách công cụ thể xung quanh các dự án lớn. Tóm lại, Nhà nước chủ động can thiệp để phát huy vai trò của thị trường trong việc phân bổ nguồn lực và thúc đẩy phát triển, đặc biệt là về công nghiệp. Yếu tố thứ hai là Giáo dục. Theo bà Du Rocher, mối liên hệ nhân – quả giữa sự phát triển kinh tế và trình độ giáo dục là rất rõ ràng. Đầu tư cho đào tạo (kể cả nguồn lực do nhà nước phân bổ), sức chi cho giáo dục của từng hộ gia đình là cao nhất trong toàn bộ Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OCDE). Điều này giải thích vì sao các nước châu Á – Thái Bình Dương luôn đứng đầu trong bảng xếp hạng quốc tế. Nhà địa lý học Emmanuel Véron lưu ý thêm rằng một trong động cơ chính cho sự trỗi dậy mạnh mẽ của châu Á – Thái Bình Dương « hiển nhiên là quyết định của đảng Cộng sản Trung Quốc cách nay bốn mươi năm tiến theo toàn cầu hóa, với các cuộc cải cách lớn về kinh tế và chắc chắn không phải là về chính trị của ông Đặng Tiểu Bình. Ông ấy nói rằng "chúng ta sẽ phải thực tiễn mở cửa dần lãnh thổ Trung Quốc cho toàn cầu hóa". Theo xu hướng đó, Trung Quốc đã thay đổi bộ mặt vùng duyên hải đất nước theo mô hình công nghiệp hóa và ven biển hóa lãnh thổ mà các nền công nghiệp tiên tiến châu Á như Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore hay Hồng Kông đã từng trải qua. Bước tiến công nghiệp này của Trung Quốc, đà đi lên thành cường quốc thương mại không những đã tạo nên một sức hút cho toàn bộ khu vực châu Á, trong đó Đông Nam Á giữ một vai trò đặc biệt, mà còn hình thành những mối liên kết phụ thuộc lẫn nhau rất mạnh mẽ với phần còn lại của thế giới. » Những rủi ro bất ổn tiềm tàng Cũng trên làn sóng RFI, chuyên gia Valerie Niquet thuộc Quỹ Nghiên cứu Chiến lược (FRS) nhìn nhận trọng lượng kinh tế của châu Á dẫn đến những hệ quả địa chính trị đáng kể. Một mặt, an ninh của châu Á – Thái Bình Dương « phụ thuộc vào sự ổn định của các nền kinh tế châu Âu ». Mặt khác, châu Á – Thái Bình Dương, tuy cực kỳ năng động, lại là một khu vực ẩn chứa nhiều bất ổn tiềm tàng. Các tranh chấp lãnh hải ở Biển Đông giữa Trung Quốc với Việt Nam, Philippines ; căng thẳng ở Biển Hoa Đông giữa Nhật Bản và Trung Quốc, hay gần đây nhất là giữa Cam Bốt và Thái Lan, hay những căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên, nguy cơ xung đột tại eo biển Đài Loan… vẫn tồn tại. Sự trỗi dậy mạnh mẽ về quân sự của Trung Quốc, được cho là để phản đối thái độ hung hăng của phương Tây, còn là cách để Bắc Kinh áp đặt quyền chủ quyền trong các tranh chấp lãnh thổ, khẳng định tầm ảnh hưởng của mình đối với toàn vùng châu Á, khiến các nước trong khu vực lo lắng. Để đối phó, các nước trong vùng chạy đua tái vũ trang từ Nhật Bản, Hàn Quốc cho đến Việt Nam, Philippines…, nhằm phát triển các năng lực quân sự của riêng mình. Châu Á có thể thay thế phương Tây ? Dù vậy, câu hỏi đặt ra, với một thế mạnh kinh tế, thương mại và công nghệ như hiện nay, liệu rằng châu Á – Thái Bình Dương trong tương lai có thể đóng một vai trò địa chính trị tương đương như với Hoa Kỳ và Liên Hiệp Châu Âu trong nhiều cuộc đàm phán ngoại giao hay không ? Về điểm này, nhà nghiên cứu Valérie Niquet, Quỹ Nghiên cứu Chiến lược, tác giả tập sách về « Ấn Độ - Thái Bình Dương, trung tâm mới của thế giới », trên làn sóng RFI nêu lên những hạn chế của vùng : « Trước hết, đây không phải là một khối như khi nói về khối Phương Nam Toàn Cầu hay BRICS. Đây là tổng thể rất phụ thuộc lẫn nhau theo góc độ kinh tế. Ví dụ, Đông Nam Á đã được hưởng lợi rất nhiều từ sự tăng trưởng của Trung Quốc và tiếp tục được hưởng lợi từ điều đó. Các nước Châu Á – Thái Bình Dương cũng đang phát triển theo hướng tự chủ hơn, ở những mức độ khác nhau tùy theo từng quốc gia. Nhưng đó không phải là khối châu Á chia sẻ cùng những giá trị, cùng những tham vọng, cùng mong muốn đóng một vai trò trên trường quốc tế. Và trong mọi trường hợp, hiện tại, ngay cả những quốc gia có ảnh hưởng nhất, tôi đang nghĩ đến Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, mà còn cả Nhật Bản hay thậm chí Hàn Quốc, cũng không đóng một vai trò quan trọng trên trường quốc tế trước những cuộc khủng hoảng lớn mà thế giới đang phải đối mặt ngày nay. » Ngoài ra, tuy có mức độ phát triển kinh tế mạnh mẽ, khả năng một ngày nào đó các nước châu Á có thể hợp lực lại với nhau để cạnh tranh với phương Tây, đặc biệt là trong các vấn đề phát triển, hay tại các định chế quốc tế, vẫn là điều bất khả. Chuyên gia về châu Á Valérie Niquet nhận định điều đó không có thể xảy ra, trừ khi có những diễn biến chính trị lớn tại Trung Quốc. Bà giải thích : « Ngày nay, chế độ Trung Quốc cần đến những căng thẳng này với các nước láng giềng để cố gắng hợp pháp hóa chính mình, kể cả với chính người dân trong nước. Tất cả những điều này là nhằm ngăn cản bất kỳ sự "hợp nhất" thực sự nào (…) Trong mọi trường hợp, hiện tại, đây là một điểm cản trở và còn quá nhiều bất ổn đè nặng lên tương lai Trung Quốc, và do vậy lên tương lai của toàn vùng châu Á. Thế nên, tôi tin rằng giả thuyết này còn xa mới đạt được ». Nhưng châu Á có khả năng « qua mặt » Phương Tây ! Dù vậy, trong tập sách mới « Châu Á – Thái Bình Dương, trung tâm mới của thế giới », chuyên gia Sophie Boisseau du Rocher viết cùng với cựu đại sứ Pháp tại Miến Điện Christian Lechervy, đưa ra một giả thuyết khá thú vị, theo đó, Châu Á đang trên đà « phi phương Tây hóa ». Trên đài RFI Pháp ngữ ngày 09/02/2025, nữ chuyên gia Pháp giải thích : « Điều đó có nghĩa là ngày càng ít cần đến các kênh phương Tây để phát triển. Trên thực tế, chúng tôi bắt đầu từ một sự quan sát. Christian Lechervy và tôi bắt đầu nghiên cứu khu vực này cách đây 35-40 năm. Điều thực sự đã thay đổi là các đối tác phương Tây từng là tâm điểm cuộc chơi, là trung tâm của những ảnh hưởng của 35 năm về trước, thì ngày nay họ chỉ còn là bên lề. Châu Á đang ngày càng tự kết nối và ngày càng bị thúc đẩy bởi động lực riêng của mình. Và do vậy có một rủi ro thực sự ở đây bởi vì điều này thách thức các lập trường truyền thống của chúng ta, hiển nhiên là các lập trường kinh tế, mà còn cả các quan điểm ngoại giao hoặc chính trị. Ngày nay, Châu Á Thái Bình Dương có tiềm năng trở thành một giải pháp thay thế đáng tin cậy cho mô hình phương Tây. Điều này rõ ràng không hề đúng cách đây ba mươi năm. » Những động lực này của châu Á càng được thúc đẩy nhanh hơn kể từ khi Donald Trump trở lại Nhà Trắng. Cuộc chiến thuế quan toàn cầu còn khẳng định hơn nữa sự mất niềm tin của các nước trong vùng đối với Mỹ, bất kể là đồng minh hay đối tác. Sophie Boisseau du Rocher nhận định tiếp : « Chúng ta có thể thấy sự chuyển đổi âm thầm này của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đang khiến tổng thống Mỹ phải suy nghĩ. Các nước châu Á cũng nghĩ rằng hiện tượng Trump không phải là hiện tượng mới. Về cơ bản, hiện tượng này là hiện thân của Donald Trump và ông thúc đẩy xu hướng đã diễn ra ở Đông Á kể từ Chiến tranh Việt Nam. Kể từ cuộc chiến đó, Hoa Kỳ đã hành động đơn phương. Thậm chí khi có những vị tổng thống khá ủng hộ việc hợp tác với khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, và tôi đặc biệt nghĩ đến Obama và sự thay đổi chính sách nổi tiếng của ông, thì nói một cách cụ thể, ông không làm gì cho khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Hoa Kỳ đã đưa ra bài phát biểu hoành tráng mà không đ
Giữa tháng 7/2025, xuất hiện một thông tin gây nhiều chú ý về cuộc đối đầu thương mại Mỹ - Trung: chip H20 của tập đoàn Nvidia, chuyên được sử dụng trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, đã được Mỹ cho phép xuất khẩu trở lại sang thị trường Trung Quốc, sau lệnh đình chỉ được ban hành giữa tháng 4/2025. Thông tin được đưa ra khoảng một tháng sau khi Washington và Bắc Kinh thông báo đạt được một thỏa thuận sơ bộ đổi chip bán dẫn tân tiến lấy đất hiếm, nhưng không nêu chi tiết. Trong lúc gần như không có thông tin gì về việc xuất khẩu các loại đất hiếm, tức các kim loại chiến lược, mà Trung Quốc nới lỏng trở lại với Mỹ, tin tức về chip H20 được quảng bá rầm rộ trên truyền thông Hoa Kỳ. Vì sao chip H20 trở thành trung tâm của cuộc đọ sức công nghệ, địa - chiến lược Mỹ - Trung ? RFI đặt câu hỏi với nhà báo Lê Ngọc, từ Washington DC. Chip H20, tâm điểm truyền thông của thoả thuận sơ bộ Mỹ - Trung Về thỏa thuận sơ bộ Mỹ - Trung liên quan đến chip H20, nhà báo Lê Ngọc trước hết cho biết một số nét : « Trong một thông báo chí cách đây hơn một tuần, hôm 15/7, Nvidia hãng sản xuất chip cho trí tuệ nhân tạo lớn nhất thế giới thông báo chính quyền Mỹ cấp phép cho họ nối lại việc cung cấp chip H20 cho Trung Quốc và họ hy vọng sẽ sớm giao những lô hàng đầu tiên trở lại. Chip H20 đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển các ứng dụng trí tuệ nhân tạo và hiện tại chỉ có Nvdia mới có khả năng sản xuất loại chip tân tiến này. Động thái này diễn ra trong lúc Bắc Kinh và Washington đang cạnh tranh quyết liệt để giành ưu thế về trí tuệ nhân tạo. Hồi cuối tháng trước, sau một cái thời gian đàm phán căng thẳng ở Luân Đôn và Geneva, Washington và Bắc Kinh đã đồng ý một khuôn khổ thương mại sơ bộ mà theo đó Trung Quốc sẽ nối lỏng việc hạn chế xuất khẩu đất hiếm sang Mỹ và đổi lại, Mỹ dỡ bỏ hạn chế xuất khẩu các sản phẩm công nghệ sang Trung Quốc. Dù đây chỉ là một thỏa thuận sơ bộ, nhưng các nhà quan sát cho rằng đó là dấu hiệu cho thấy hai siêu cường này đang muốn giảm căng thẳng thương mại, hướng tới một đại thỏa thuận để cuối cùng giải quyết rốt ráo những tranh chấp giữa hai nước. Trong đó quan trọng nhất là các lệnh kiểm soát xuất khẩu các mặt hàng nhạy cảm của Mỹ sang Trung Quốc và Trung Quốc cuối cùng sẽ mở rộng quyền tiếp cận thị trường cho hàng hóa Mỹ. Theo lời trần tình của ông bộ trưởng Thương Mại Mỹ ông Howard Lutnick với Reuters hôm 15/07, quyết định này đã kích hoạt một làn sóng các công ty Trung Quốc tranh nhau mua chip H20 của Nvdia. » Chip H20 là một loại GPU, hay bộ vi xử lý đồ họa, là trụ cột của công nghệ trí tuệ nhân tạo. Tập đoàn Nvidia hiện độc quyền thị trường này : GPU do Nvidia sản xuất chiếm 90% thị phần toàn cầu. Kể từ năm 2022, dưới thời tổng thống Joe Biden, với chính sách « giảm thiểu nguy cơ » (derisking), chính quyền Mỹ đã đưa ra nhiều biện pháp ngăn chặn việc bán các bộ vi xử lý GPU tiên tiến nhất cho Trung Quốc, nhằm làm giảm tốc độ phát triển công nghệ của Trung Quốc. Chip H20 vốn là loại GPU được thiết kế riêng để xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc từ năm ngoái, với các tính năng được coi là nằm dưới mức nguy hiểm cho an ninh của nước Mỹ, khiến Trung Quốc không thể tiếp cận các công nghệ trọng yếu. Tuy nhiên, chính quyền Donald Trump hồi giữa tháng 4/2025 vừa qua đã áp đặt đòi hỏi cấp phép riêng đối với chip H20, trong bối cảnh cuộc chiến thuế quan vừa mở màn, với đối thủ số một là Trung Quốc. Cấp phép cho chip H20 đe dọa an ninh quốc gia của Mỹ Việc ngăn chặn xuất khẩu chip H20 sang Trung Quốc khiến Nvidia thiệt hại khoảng 5,5 tỉ đô trong ba tháng vừa qua, theo tập đoàn Mỹ. Việc chính quyền Trump bật đèn xanh cho việc xuất khẩu trở lại chip H20 gây nhiều phản ứng trái ngược tại Mỹ. Nhà báo Lê Ngọc cho biết trước hết về các phản ứng chỉ trích: « Hiện tại thì có hai luồng quan điểm đối lập nhau. Chúng ta đã biết hạn chế xuất khẩu để đảm bảo an ninh quốc gia của Mỹ là một vấn đề hết sức quan trọng đối với các nhà lập pháp tại đồi Capitol. Việc cả chính quyền Trump và chính quyền Biden trước đây đều ban hành những lệnh hạn chế xuất khẩu những công nghệ trọng yếu với Trung Quốc được sự ủng hộ của lưỡng đảng trong Quốc hội. Bây giờ thì ông Trump rút lại một phần lệnh cấm đó, đương nhiên sẽ gây ra phản ứng rất mạnh mẽ từ phía cả hai đảng. Dân biểu John Moolenaar, chủ tịch ủy ban đặc trách về Trung Quốc tại Hạ Viện, thuộc Đảng Cộng hòa, trong tuyên cáo báo chí, cho rằng chip H20 rất là lợi hại, theo cuộc điều tra lưỡng đảng và có vai trò quan trọng trong sự vươn mình của các công ty AI Trung Quốc, ví dụ như DeepSeek, một tên tuổi rất đình đám hồi đầu năm nay. Ông cũng cho rằng điều quan trọng là Mỹ phải duy trì thế dẫn đầu và không thể để cho Đảng Cộng sản Trung Quốc nắm được các công nghệ AI tân tiến. Dân biểu này cũng cho biết sẽ yêu cầu bộ Thương Mại giải thích rõ. Về phía đối lập, Đảng Dân chủ cũng đã có phản ứng rất mạnh mẽ về quyết định của chính quyền Trump. Dân biểu Raja Krishnamoorthi, thành viên cấp cao của Ủy ban đặc trách về Trung Quốc, mà tôi vừa đề cập, cũng ra tuyên bố nói rằng quyết định này của chính quyền Trump đã đặt vào tay đối thủ các công nghệ tân tiến nhất của chúng ta. Điều này còn nguy hiểm ở chỗ nó bất nhất với lập trường mà chính quyền từng tuyên bố trước đây về việc kiểm soát xuất khẩu đối với Trung Quốc. Nếu các công ty Trung Quốc mua được số lượng lớn chip H20 này, với số lượng 1 triệu, Bắc Kinh có thể sẽ thu hẹp đáng kể ưu thế dẫn đầu của Mỹ trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo. Đây là nhận định của ông Divyansh Kaushik, một chuyên gia về AI thuộc hãng tư vấn Beacon Global Strategies có trụ sở ở Washington D.C. » Cấp phép cho chip H20: « Lá bài đàm phán » của chính quyền Trump ? Việc cấp phép cho chip H20 tuy nhiên được nhiều người ủng hộ, coi đây là một « lá bài đàm phán » của chính quyền Trump. Nhà báo Lê Ngọc giải thích : « Đương nhiên chính quyền Mỹ sẽ biện hộ về quyết định này. Họ cho rằng điều này là cần thiết để mở cửa cánh cửa đối với đất hiếm của Trung Quốc và là một cái thủ thuật đàm phán mà thôi. Giáo sư Khương Hữu Lộc, giảng dạy về Quản trị Kinh doanh tại trường Cao học Keller về Quản trị thuộc Đại học Devry, cũng đồng ý với nhận định này của chính quyền Trump. Theo ông, tổng thống Trump biết đất hiếm là điểm yếu của Mỹ, nên tất nhiên Mỹ phải có cái gì đó để nhượng bộ Trung Quốc, nên việc dùng đến chip của Nvdia chỉ là một lá bài thương lượng. Và ông cho rằng đây là một điều bất khả kháng trong lúc Mỹ phụ thuộc từ 70 đến 75% đất hiếm từ Trung Quốc. Nếu mà không có đất hiếm, Mỹ sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc sản xuất chip và Trí tuệ nhân tạo. Giáo sư Khương Hữu Lộc cũng cho rằng việc cấm đoán chip này theo yêu cầu của Quốc hội cũng không có tác dụng gì hết, tại vì cuối cùng cũng chỉ làm cho Trung Quốc phải tự lực cánh sinh mà thôi. Việc cấm đoán này chỉ làm cho kỹ nghệ AI của Trung Quốc bị chậm lại chừng 1, 2 năm thôi. Nếu Mỹ tiếp tục giữ lệnh cấm này thì sẽ đem lại lợi thế cho các tập đoàn công nghệ của Trung Quốc, như Huawei, hay tập đoàn Hàn Quốc Samsung. Tôi dẫn lời của ông Lộc nói với tôi là chính xác như thế này : Thay vì như thế thì nên để Trung Quốc lệ thuộc vào chip của Nvidia để Nvidia dẫn đầu thế giới về chip trí tuệ nhân tạo. Ông cũng lưu ý rằng : chip H20 chỉ có năng lực bằng khoảng 40% năng lực của một con chip tân tiến hơn của Nvdia là H100, mà chip này không được bán cho Trung Quốc. Và do đó, nếu như Trung Quốc có sử dụng con chip H20 này trong quốc phòng thì cũng không gây nguy hại gì cho lắm đối với an ninh của Mỹ. Bộ trưởng Thương Mại Howard Lutnick khi biện hộ cho quyết định này, giải thích Nvdia sẽ có thể áp đặt một cái ưu thế gọi là ‘‘không thể đảo ngược’’, khi mà các hãng Trung Quốc chưa chế tạo được chip mà Nvdia làm ra, họ sẽ buộc ngày càng phải gắn bó, như lời ông nói là ‘‘nghiện công nghệ của Nvdia’’. » Chiến thắng của Nvidia Sự kiện chip H20 được cấp phép trở lại đi liền với việc chủ nhân tập đoàn Nvidia Jensen Huang (Hoàng Nhân Huân), công dân Mỹ gốc Đài Loan, trở thành nhân vật trung tâm của cuộc chơi. Nhà báo Lê Ngọc giải thích : « Trước khi Mỹ đưa ra cái quyết định này, chúng ta thấy vai trò cá nhân của ông Hoàng rất là lớn. Quyết định này được ra chỉ sau có vài ngày sau cuộc gặp của ông Hoàng với tổng thống Trump tại Nhà Trắng. Trong những tháng trước, ông Hoàng cũng tăng cường vận động hành lang rất quyết liệt để chính quyền Mỹ dỡ bỏ hạn chế này. Cho nên sau khi quy định này được tung ra đó thì nhiều nhà quan sát cho rằng đây là một thắng lợi của Nvdia và thắng lợi của cá nhân ông Hoàng. Tại vì như chúng ta đã biết, nếu tập đoàn Nvdia mà bị áp lệnh cấm này thì họ sẽ chịu thiệt hại rất, rất là lớn. Thị trường Trung Quốc, theo cái báo cáo tài chính thường niên mới nhất của công ty này, được Reuters dẫn lại, chiếm đến 17 tỷ đô la doanh thu cho Nvdia trong năm tài chính kết thúc vào ngày 26/1/2025, chiếm 13% tổng doanh số. Cái lệnh cấm bán chip H20 cho Trung Quốc đã khiến thị phần của Nvdia ở Trung Quốc bị giảm đi một nửa, và quan trọng hơn nó ngăn trở ưu thế dẫn đầu toàn cầu về công nghệ của Nvdia. Đó là lập luận của ông Hoàng Nhân Huân nói với CNBC. Rõ ràng quyết định này của chính quyền Trump mặc dù được xem là cái một công cụ để mà giúp Mỹ kiểm soát lại đất hiếm từ Trung Quốc, nhưng cái người thắng lợi lớn nhất sau hậu trường chính là Nnvida và ông Hoàng Nhân Huân. » Trang mạng thân Bắc Kinh Asia Times dẫn lời một chuyên gia ở Quảng Đông, nhận định : « Sức mạnh tính toán FP16 của H20 chỉ bằng 15% so với H100, trong khi băng thông NVLink bị giảm từ 900GB/giây xuống còn 400GB/giây. Bộ chuyển đổi (TE) của chip đã bị loại bỏ hoàn toàn », « thiết kế như vậy đảm bảo giảm khả năng suy luận (inference ability) của AI và khả năng đào tạo AI giảm, thực hiện hoàn hảo chiến lược của Hoa Kỳ là ngăn chặn các chip cao cấp, nhưng không chặn các chip tầm trung, đối với Trung Quốc » và « bằng cách hạn chế hiệu năng cốt lõi của H20, Mỹ có thể duy trì sức mạnh phong tỏa chip tân tiến khi trao cho các công ty Trung Quốc một ly ‘‘rượu độc’’ ». Ngược lại, theo trang mạng Pháp ngữ Le MagIT, của công ty thông tin về công nghệ số Informa TechTarge
Trong lĩnh vực an ninh quốc phòng của châu Âu, ngày 10/07/2025, đã có một diễn biến quan trọng. Tổng thống Pháp Emmanuel Macron, trong chuyến công du Anh, đã cùng thủ tướng Keir Starmer thông qua một thỏa thuận về việc tiến tới thiết lập cơ chế hợp tác về hệ thống vũ khí hạt nhân răn đe, trong bối cảnh đe dọa từ Nga gia tăng. Việc phối hợp vũ khí hạt nhân răn đe không chỉ nhằm để hai nước tự vệ trước Nga, mà đặc biệt hướng tới nâng cao năng lực tự vệ của châu Âu trong bối cảnh Mỹ có nguy cơ rút một phần đáng kể các cam kết bảo vệ châu Âu. Tuyên bố của hai lãnh đạo Pháp, Anh có mang lại một thay đổi chiến lược đối với kiến trúc an ninh châu Âu hay không ? Đọc thêm : Đài truyền hình Rossiya 1 - Tên lửa hạt nhân Nga có thể tấn công Berlin, Luân Đôn, Paris trong vòng 200 giây Đe dọa Nga và thay đổi lớn trong « học thuyết vũ khí hạt nhân » của Pháp và Anh Về phối hợp vũ khí hạt nhân răn đe Pháp – Anh, tổng thống Emmanuel Macron tuyên bố: « Về vũ khí hạt nhân, chúng tôi đã đưa ra ba quyết định quan trọng. Vấn đề trước hết liên quan đến học thuyết của hai nước chúng ta. Chúng tôi thừa nhận hai nước Pháp và Anh chúng ta không thể tưởng tượng ra một tình huống đe dọa cực kỳ nguy hiểm nào đối với châu Âu nào mà không khiến chúng tôi phải phản ứng nhanh chóng, bất kể bản chất của phản ứng đó là gì. Quyết định thứ hai là chúng tôi không loại trừ việc phối hợp các lực lượng răn đe hạt nhân của nhau. Đây là một thông điệp mà các đối tác và đối thủ của chúng ta cần lắng nghe. Thứ ba là tăng cường hơn nữa hợp tác của chúng ta trong lĩnh vực răn đe hạt nhân, về mặt chính sách, về mặt lực lượng hay về mặt hoạt động. » Đọc thêm: Anh - Pháp công bố chiến lược răn đe hạt nhân chung nhằm đối phó với Nga Tuyên bố chung của hai lãnh đạo Anh, Pháp nêu rõ « đây là lần đầu tiên các lực lượng răn đe hạt nhân độc lập của hai nước có thể được phối hợp với nhau ». Theo tổng thống Pháp, đây là một quyết định « chưa có tiền lệ ». Đài Pháp France Info dẫn lại đô đốc Jean-Louis Lozier, cố vấn của Trung tâm Nghiên cứu An ninh thuộc Viện Quan hệ Quốc tế Pháp (Ifri), xem đây là « bước tiến lớn » trong học thuyết hạt nhân, « đặc biệt về phía Pháp ». Vị cố vấn của Ifri nhấn mạnh « trước tuyên bố này, chúng ta chưa bao giờ cân nhắc đến việc phối hợp lực lượng răn đe hạt nhân với các đồng minh, mặc dù chúng tôi có cùng chung lợi ích ». Paris và Luân Đôn từng ký một tuyên bố chung năm 1995, nêu rõ, « không có tình huống nào mà lợi ích sống còn của một bên bị đe dọa mà lợi ích sống còn của bên kia không bị đe dọa », nhưng văn bản này không đề cập đến khả năng răn đe hạt nhân. Chuyên gia Jean-Louis Lozier tin tưởng chủ trương phối hợp răn đe hạt nhân « có thể cho phép hai cường quốc hạt nhân châu Âu đáp trả trong trường hợp Hoa Kỳ phản ứng hơi chậm » trước một cuộc tấn công nhằm vào các đồng minh châu Âu. Chính quyền Trump, một đối tượng chính của thông điệp hợp tác Pháp-Anh Trong một cuộc tọa đàm của France Info về chủ đề này, được tổ chức sau tuyên bố của hai lãnh đạo Anh, Pháp, nhà phân tích địa chiến lược Michel Fayard nhận định: « Ở đây cũng có một thông điệp được gửi đi, vượt ra ngoài lãnh đạo Nga Vladimir Putin, mà đặc biệt là tới Donald Trump bởi, vì tình thế mà chúng ta đang sống hiện nay thực sự rất giống với thời điểm khủng hoảng kênh đào Suez năm 1956. Khi Pháp và Anh, những đồng minh của Israel vào thời điểm đó, đã có phần bị người Mỹ phản bội. Hiện nay, nước Mỹ cũng muốn rút lui, ít nhất là một phần, khỏi các cam kết của họ với châu Âu. Họ vẫn còn ở trong NATO, nhưng muốn các đối tác của mình phải trả nhiều tiền hơn. Họ cũng muốn bán vũ khí của mình và không viện trợ vũ khí cho nước này hay nước khác. Vì vậy, hiện nay, điều rất quan trọng đối với Pháp và Anh là xác lập một Thỏa thuận Liên kết mới (Entente Cordiale), thực sự củng cố sức mạnh của hai nước, không chỉ của Pháp và Anh, mà còn của toàn bộ châu Âu. Điều rất quan trọng là cả hai đều phải làm như vậy, vì họ là hai quốc gia duy nhất ở châu Âu có vũ khí hạt nhân hiện nay. Ngay cả khi Đức muốn luân chuyển vũ khí hạt nhân ở châu Âu, điều này là không thể chấp nhận được đối với Pháp, cũng như với Anh. » Pháp và Anh sẽ phối hợp ra sao trong chiến lược răn đe hạt nhân ? Theo thỏa thuận giữa lãnh đạo hai nước, « một nhóm giám sát hạt nhân » (groupe de supervision nucléaire) sẽ được Paris và Luân Đôn thành lập, và do phủ tổng thống Pháp và văn phòng chính phủ Anh đồng chủ trì, theo nhà nghiên cứu Héloïse Fayet, viện Ifri. Nhóm giám sát hạt nhân này sẽ chịu trách nhiệm « điều phối sự hợp tác ngày càng tăng trong các lĩnh vực chính sách, năng lực và hoạt động ». Theo chuyên gia Héloïse Fayet, việc phối hợp có thể liên quan đến việc tổ chức các cuộc tập trận. Về mặt nguyên tắc, việc phối hợp hệ thống hạt nhân sẽ giúp cho sức mạnh răn đe của Pháp, với 290 đầu đạn và của Anh, với 225 đầu đạn, có trọng lượng hơn trước Nga. Hai kho vũ khí hạt nhân của Pháp và Anh cộng lại nhỏ hơn nhiều so với hệ thống vũ khí của Nga, với hơn 6.000 đầu đạn, nhưng « điều quan trọng là hệ thống răn đe phải đáng tin cậy trong mắt các đồng minh và đối thủ của chúng ta », bà Héloïse Fayet nhấn mạnh. Chặng mới trong hợp tác quân sự mật thiết, lâu đời Anh Pháp Quyết định có ý nghĩa lịch sử về việc phối hợp lực lượng răn đe hạt nhân Pháp, Anh, được đưa ra ngày 10/07/2025, trên thực tế nằm trong quan hệ hợp tác quân sự lâu đời giữa Paris và Luân Đôn, được xác lập từ đầu thế kỉ 20. Hợp tác về răn đe hạt nhân nói riêng và quốc phòng nói chung giữa Anh và Pháp có thể trở thành một trụ cột của an ninh châu Âu. Ông Emmanuel Dupuy, chủ tịch viện nghiên cứu Chiến lược và An ninh tại châu Âu (Institut Prospective et Sécurité en Europe - IPSE), nhận định : « Ý tưởng mở rộng hợp tác này không chỉ liên quan đến Pháp và Anh, hai nước chiếm đến 40% phương tiện và lực lượng có thể triển khai tại châu Âu. Điều này không có nghĩa là các nước khác kém hơn, nhưng rõ ràng có một quyết tâm chính trị đã được tái khẳng định trong hội nghị thượng đỉnh vừa qua tại Northwood, một căn cứ của NATO, ở Anh. Ý tưởng vốn đã được Jacques Chirac đưa ra tại thượng đỉnh năm 1998 tại Saint-Malo, thường được gọi là Thỏa thuận Liên kết Pháp – Anh lần thứ hai kể từ năm 1904, là năm mà Pháp và Anh xác lập « Entente Cordiale ». Vì vậy, chúng ta đang từng bước tiến tới ý tưởng rằng Anh và Pháp, gắn bó mật thiết, tạo ra thành phần cốt lõi của châu Âu về quốc phòng, không chỉ của Liên Hiệp Châu Âu, mà của châu Âu, vì Anh không nằm trong EU. Hiện tại còn rất nhiều điều không rõ ràng về những diễn biến tiếp theo ». Phối hợp, nhưng độc lập trong quyết định sử dụng… : Những giới hạn của hợp tác Theo giới chuyên gia, tuyên bố ngày 10/07 về phối hợp răn đe hạt nhân Pháp – Anh trước hết mang ý nghĩa chính trị là chủ yếu. Để việc hợp tác thực sự có thể diễn ra cần những điều chỉnh cụ thể về học thuyết hạt nhân của hai nước cũng như các chiến lược, phương tiện, cho phép phối hợp. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn đài Pháp Cnews, tướng Jean-Paul Paloméros, cựu tư lệnh khối NATO, cựu tư lệnh Không quân Pháp, nhấn mạnh đến mối quan hệ phụ thuộc của Anh vào Mỹ về chiến lược hạt nhân, như một trở ngại lớn cho các hợp tác Anh – Pháp : « Ở đây có một vấn đề lớn, đó là sự phụ thuộc của nước Anh vào nước Mỹ. Điều quan trọng cần biết là cho đến nay, Anh chỉ có một lực lượng hạt nhân, đó là bốn tàu ngầm được trang bị tên lửa đạn đạo chạy bằng năng lượng hạt nhân, nhưng trong trường hợp này, những tên lửa này là tên lửa Trident, tức của Mỹ. Vì vậy, chúng ta thấy sự phụ thuộc của Vương quốc Anh vào Mỹ bất chấp mọi thứ. Vương quốc Anh, và đây là một yếu tố quan trọng của hồ sơ, cũng vừa quyết định hành động như một nước châu Âu, nghĩa là nhận lấy một trách nhiệm liên quan đến khả năng răn đe hạt nhân của NATO. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng những máy bay F-35, mà Anh mua từ Hoa Kỳ, sẽ mang theo bom hạt nhân, bản thân chúng là của Mỹ, do đó việc sử dụng nằm trong phạm vi cho phép của Donald Trump. Vì vậy, chúng ta cảm thấy cùng lúc có sự tăng cường, có những giới hạn của nó. Đây là điều cần hiểu rõ ! » Cảnh giác trước lập trường "bắt cá hai tay" của Anh Về nguy cơ Anh phụ thuộc vào Mỹ cản trở các phối hợp với Pháp, thượng nghị sĩ Christian Cambon, đặc phái viên của chủ tịch Thượng Viện Pháp về quan hệ quốc tế, giải thích : « Tôi nghĩ rằng sự phối hợp đang được đề cập ngược lại cũng có thể sẽ cho phép người Mỹ trở lại cuộc chơi, đáng buồn thay, khi Anh Quốc gần đây đã mua máy bay F-35 có thể mang tên lửa của Mỹ. Vì vậy, tôi muốn nhắc nhở các vị rằng có sự khác biệt lớn giữa hai lực lượng của chúng ta, giữa hai thành phần răn đe hạt nhân của Pháp và Anh. Về phía Pháp, chúng ta có toàn quyền quyết định, một quyền quyết định từ trên xuống, từ tổng thống. Ở Anh thì không phải như vậy. Người Mỹ vào một thời điểm nào đó có thể can thiệp. Vậy nên điều này sẽ gây ra vấn đề, vì lần này không phải là một ‘‘cuộc hôn nhân của hai người’ mà là của ba người, đặt ra một vấn đề thực sự. Tướng de Gaulle trước đây đã từng cảm nhận được điều này. Đó là lý do tại sao ông đã rút Pháp khỏi Ủy ban Kế hoạch phòng thủ của khối NATO, ủy ban Kế hoạch hạt nhân của khối NATO. » Nước Anh cách đây không lâu đã đứng về phía Mỹ trong vụ tước đoạt hợp đồng tàu ngầm 50 tỉ đô la với Úc. « Chủ nghĩa thực dụng kiểu Anh », và sự phụ thuộc của Anh vào Mỹ cũng là điều mà nhà phân tích địa chiến lược Michel Fayard nhấn mạnh : « Trong mọi trường hợp, thách thức thực sự đối với Vương quốc Anh là thoát khỏi sự phụ thuộc vào Mỹ về hạt nhân. Có lẽ việc hợp tác với Pháp có thể giúp điều này trở thành hiện thực. Nhưng vấn đề nan giải ở đây là người Anh thường chơi trò hai mặt, nghĩa là cùng lúc chơi cả quân bài châu Âu và quân bài Mỹ. Họ gọi đó là ‘‘chủ nghĩa thực dụng’’. Vâng, có thể nói đó là chủ nghĩa thực dụng kiểu Anh. » Hướng đến hệ thống răn đe hạt nhân riêng của châu Âu ? Trên thực tế, việc Pháp chính thức thiết lập với Anh chủ trương phối hợp các lực lượng răn đe hạt nhân nằm trong đường hướng chung của tổng thống Pháp Emmanuel Macron, được xác định đặc biệt rõ ràng kể từ khi Nga xâm lược Ukraina : Xây dựng một sự
Ngày 12/06/2025, Mỹ thả 14 quả bom GBU phá hầm, mỗi quả nặng hơn 13 tấn, nhắm vào ba cơ sở hạt nhân của Iran. Vụ việc đã được Bắc Triều Tiên, quốc gia sở hữu vũ khí nguyên tử và hiện dưới lệnh trừng phạt quốc tế, theo dõi chặt chẽ. Liệu Washington có sẽ thực hiện điều tương tự với Bình Nhưỡng hay không vào lúc các cuộc đàm phán hạt nhân Mỹ - Triều cũng đang bế tắc ? Iran – Bắc Triều Tiên : Một liên minh hạt nhân lâu năm Không giống như Bắc Triều Tiên, chế độ thần quyền Teheran vẫn chưa có vũ khí nguyên tử. Nhưng mối quan hệ hợp tác về hạt nhân giữa Iran và Bắc Triều Tiên đã tồn tại gần ba thập kỷ, kể từ sau chuyến thăm Bình Nhưỡng năm 1989 của đại giáo chủ Ali Khamenei, khi ấy giữ chức tổng thống Iran. Chuyến thăm này đã đặt nền tảng cho một liên minh lâu dài do cả đôi bên cùng phản đối Hoa Kỳ. Chính Bình Nhưỡng đã cung cấp cho Teheran chương trình tin học có khả năng mô phỏng dòng neutron, một công cụ chủ chốt để thiết kế đầu đạn hạt nhân. Tuy nhiên, Bắc Triều Tiên không chắc có được những thông tin cụ thể chẳng hạn như độ sâu chính xác các cơ sở hạt nhân ngầm của Iran hay vị trí kho dự trữ uranium được làm giầu đến 60%. Do vậy, theo nhận định của nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, chuyên gia về Đông Nam Á, Đông Bắc Á, giảng viên trường đại học Sư phạm Lyon, với RFI Tiếng Việt, đòn tấn công của Mỹ đã cung cấp cho Bắc Triều Tiên nhiều bài học quý giá. Laurent Gedeon : « Chúng cung cấp cho Bình Nhưỡng nhiều yếu tố để chuẩn bị trước một hành động tương tự. Điều này càng đúng hơn khi Hoa Kỳ khó có thể quay lưng lại với châu Á trong thời gian dài, vì khu vực này vẫn là trung tâm trong các mối quan ngại về kinh tế và chiến lược của Washington. Hành động của Mỹ ở Trung Đông dường như khá mang tính chiến thuật để hạn chế tác động của cuộc khủng hoảng ngày càng lớn. Điều đáng chú ý là Donald Trump đã dùng hết sức của mình để đạt được lệnh ngừng bắn mặc dù Israel vẫn chưa hoàn thành các mục tiêu đã tuyên bố là hủy diệt hoàn toàn chương trình hạt nhân của Iran và thay đổi chế độ ở Teheran. Do đó, chúng ta có thể đưa ra giả thuyết là Mỹ coi sự gia tăng căng thẳng trong khu vực này không nằm trong lợi ích của họ và việc giải quyết, dù chỉ là tạm thời, những vấn đề này sẽ cho phép họ tập trung trở lại vào châu Á. » Iran và Bắc Triều Tiên : Chính sách « bên trọng, bên khinh » của Mỹ Nếu như với Iran, chính quyền Donald Trump có một thái độ cứng rắn và đã đưa ra một quyết định khá triệt để, thậm chí đầy vũ lực, thì ngược lại người ta ghi nhận có một sự thận trọng trong cách thức Nhà Trắng hiện nay xử lý hồ sơ hạt nhân Bắc Triều Tiên. Cho đến nay, Donald Trump chưa có một lời đe dọa chiến tranh nào nhằm vào Bình Nhưỡng. Giới quan sát cũng ghi nhận chế độ Kim Jong Un có một phản ứng « khá thận trọng » sau cuộc không kích của Mỹ tại Iran, so với những lời lẽ gay gắt thường có với Washington. Chuyên gia địa chính trị Laurent Gédéon cho rằng có bốn lý do để giải thích cho cách hành xử « bên trọng, bên khinh » của Mỹ trong hồ sơ hạt nhân đối với hai nước. Thứ nhất, là thế cô lập của Iran. Chế độ thần quyền đã không thể tìm được một đồng minh nào có khả năng hỗ trợ họ trong cuộc đối đầu với các đối thủ. Ngược lại, Bắc Triều Tiên đã ký một thỏa thuận đối tác chiến lược toàn diện với Nga ngày 18/06/2024 nhân chuyến thăm Bình Nhưỡng của tổng thống Vladimir Putin. Laurent Gédéon : « Trong số 23 điều khoản cấu thành hiệp định, điều 4 đặc biệt thú vị bởi vì nó quy định rằng nếu một trong hai quốc gia bị xâm lược vũ trang, quốc gia kia sẽ cung cấp hỗ trợ quân sự ngay lập tức bằng mọi phương tiện mà mình có. Thỏa thuận này đã được thực hiện trong bối cảnh cuộc chiến ở Ukraina, khi Bắc Triều Tiên cung cấp hàng triệu quả đạn pháo cho quân đội Nga và đưa binh lính Bắc Triều Tiên ra tiền tuyến. Hoa Kỳ phải tính đến yếu tố này khi lập bất kỳ kế hoạch tấn công trực tiếp vào Bắc Triều Tiên. » Thứ hai, dù đã rút khỏi Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT) năm 2003, Bắc Triều Tiên có một học thuyết hạt nhân rõ ràng chi phối việc sử dụng vũ khí nguyên tử. Laurent Gédéon : « Đặc trưng của học thuyết này là nguyên tắc “quyền ưu tiên”. Điều này được áp dụng trong điều kiện sắp xảy ra một cuộc tấn công sắp từ một quốc gia thù địch và khi chiến tranh vẫn chưa bắt đầu. Điều này ngụ ý rằng Bình Nhưỡng sẽ bắt đầu cuộc chiến bằng vũ khí hạt nhân ngay từ đầu. Học thuyết này của Bắc Triều Tiên phải được phân biệt với học thuyết của Nga dựa trên nguyên tắc "giải pháp đầu tiên". Chúng bao gồm việc sử dụng vũ khí hạt nhân trước tiên nhưng trong trường hợp leo thang bạo lực liên tục kể cả bằng các loại vũ khí phi hạt nhân. Học thuyết của Bắc Triều Tiên, ngay lập tức đặt con trỏ ở mức cao nhất, còn ngụ ý rằng sẽ có những rủi ro lớn cho kẻ tấn công tiềm năng và giải thích cho sự thận trọng của Hoa Kỳ. » Thứ ba là yếu tố gần gũi về địa lý. Khác với Iran vốn cách xa Nga và Trung Quốc, Bắc Triều Tiên có đường biên giới chung với Trung Quốc và trong chừng mực nào đó là cả với Nga. Sự gần gũi về địa lý này khiến bất kỳ hành động nào của Mỹ chống lại Bắc Triều Tiên đều có nguy cơ dẫn đến việc Trung Quốc xem đấy như là một mối đe dọa và sẽ có hành động trả đũa. Cuối cùng là về năng lực tình báo. Không như tại Iran, tình báo và gián điệp Israel dễ dàng thâm nhập sâu, gây khó khăn cho việc ra quyết định và khả năng phản ứng của Teheran, việc các cơ quan tình báo phương Tây xâm nhập Bắc Triều Tiên có vẻ khó khăn hơn nhiều. Laurent Gédéon : « Ngay cả khi có thể có những điệp viên nằm vùng, người ta vẫn có thể đặt câu hỏi về khả năng thực hiện một hoạt động trên thực địa tương tự như cuộc tấn công bằng drone do các điệp viên Mossad tổ chức từ lãnh thổ Iran nhằm vào các mục tiêu quân sự. Nhìn chung, rất khó để có được thông tin quân sự của Bắc Triều Tiên, mà bằng chứng hiển nhiên là chúng ta không thể biết rõ về số lượng ICBM (Tên lửa đạn đạo liên lục địa) hiện được triển khai trên lãnh thổ Bắc Triều Tiên (và do đó đang hoạt động). Con số này thay đổi, tùy theo từng nguồn, từ mười đến ba mươi. Do đó, chúng ta có thể thấy rằng chi phí tiềm tàng cho một cuộc tấn công của Mỹ nhằm vào Bắc Triều Tiên là khó có thể chịu được, do những rủi ro cao về chiến lược. Điều này có lẽ giải thích chính sách thận trọng của chính quyền Trump trong hồ sơ này. » Phô trương sức mạnh hạt nhân : Thất bại ngoại giao Mỹ Thời gian gần đây, chế độ Bình Nhưỡng công bố nhiều hình ảnh cho thấy ông Kim Jong Un thị sát các vụ thử tên lửa, hay đến thăm các cơ sở sản xuất thanh nhiên liệu nguyên tử. Mục tiêu là nhằm chứng tỏ với thế giới rằng chương trình phát triển hạt nhân của Bắc Triều Tiên đang tiến triển mỗi ngày. Nhìn lại chính sách của Mỹ đối với Bắc Triều Tiên trong quãng thời gian 15 năm gần đây, rõ ràng chiến lược « gây sức ép/đàm phán » của Mỹ đã chạm giới hạn : Washington đã cho thấy họ không có khả năng buộc Bình Nhưỡng phải lùi bước. Trả lời RFI Tiếng Việt, nhà địa chính trị người Pháp đánh giá đây là một thất bại trong chính sách của Mỹ đối với hạt nhân Bắc Triều Tiên. Laurent Gédéon : « Ngược lại, Bắc Triều Tiên còn gia tăng sức mạnh nếu xét về tầm bắn của tên lửa đạn đạo. Vì vậy, chúng ta có thể nói đến một thất bại tương đối. Do đó, cần phải xem xét lại mô hình chiến lược ngoại giao của Washington. Để làm được điều này, chúng ta chắc chắn phải đặt câu hỏi : Một mặt là về mối đe dọa thực sự mà Bắc Triều Tiên gây ra cho Hoa Kỳ và mặt khác là đối với lợi ích của Hoa Kỳ trong khu vực, đặc biệt là đối với các đồng minh của Washington. Nhận thức về mối đe dọa này không giống nhau trong hai trường hợp và chính sách của Mỹ đối với Bình Nhưỡng phải xuất phát từ sự cân bằng giữa hai trường hợp. » Những cuộc tập trận gần đây giữa Mỹ và Hàn Quốc bao gồm cả kịch bản tác động vũ khí hạt nhân. Điều này chứng tỏ là mối đe dọa nguyên tử Bắc Triều Tiên là hiện thực. Trong bối cảnh này, đến một lúc nào, cộng đồng quốc tế có nên công nhận Bắc Triều Tiên như là một cường quốc hạt nhân nhằm tìm kiếm một giải pháp ngoại giao hay không ? Và trong giả định này, đâu là những tác động địa chính trị cho vùng Đông Bắc Á ? Laurent Gédéon : « Nguyên tắc công nhận chính thức Bắc Triều Tiên là một cường quốc hạt nhân không phải là điều mới mẻ, vì đây cũng là trường hợp của Ấn Độ và Pakistan (…) Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là phản ứng của các nước trong khu vực, đặc biệt là Nhật Bản và Hàn Quốc, vì cả hai đều là những quốc gia có khả năng nhanh chóng sở hữu vũ khí hạt nhân. Khi đó, có lẽ cần phải có áp lực và sự đảm bảo đáng kể từ phía Washington để ngăn cản Tokyo và Seoul tiếp tục trang bị vũ khí cho mình. Điều quan trọng là phải biết rằng các thành viên của câu lạc bộ rất nhỏ các cường quốc hạt nhân trên thế giới được hưởng một địa vị đặc biệt trong cộng đồng quốc tế (..) Và trong một thời gian dài, sự cân bằng này có lợi cho phương Tây, vì ba trong số năm thành viên thường trực của câu lạc bộ ban đầu này (Hoa Kỳ, Pháp và Anh) là thuộc phe phương Tây. Tuy nhiên, những diễn biến hiện tại cho thấy sự trỗi dậy của nhiều cường quốc hạt nhân ít gần gũi với phương Tây hơn, ngoại trừ Israel. Trong khi Ấn Độ duy trì thái độ trung lập thì Pakistan và Bắc Triều Tiên lại gần gũi với Matxcơva và Bắc Kinh. Trường hợp này cũng sẽ xảy ra tương tự với Iran, nếu nước này có được vũ khí nguyên tử. Và nếu điều này xảy ra, sự cân bằng có lợi cho phương Tây sẽ bị phá vỡ và đây là một trong những lý do giải thích cho sự miễn cưỡng mạnh mẽ của Hoa Kỳ và các đồng minh, cũng như những nỗ lực của họ nhằm chống lại hành động trên. » RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, trường đại học Sư phạm Lyon.
Tại thượng đỉnh của khối NATO ngày 25/06/2025, ở La Haye, Hà Lan, các quốc gia thành viên Liên minh phòng thủ Bắc Đại Tây Dương đã quyết định sẽ tăng ngân sách dành cho quốc phòng lên đến 5% GDP/năm trong 10 năm tới. Đe dọa ngày càng lớn từ Nga, nhưng đặc biệt là các áp lực chưa từng có từ chính nước Mỹ « đồng minh » buộc nhiều nước châu Âu phải chấp nhận đưa ra cam kết tài chính đặc biệt nói trên, vốn được coi là vượt xa khả năng thực hiện. Nếu như cam kết 5% được một số nhà quan sát nhìn nhận như là một chuyển biến chiến lược của NATO nói chung, của châu Âu nói riêng, thì không ít người hoài nghi cao độ, coi đây chỉ như một biện pháp mang tính tình thế để đối phó với « đồng minh » Hoa Kỳ ngày càng trở nên khó chơi. Theo một số thẩm định, cam kết 5% tương đương với việc các nước châu Âu sẽ phải chi thêm khoảng 500 tỉ đô la/năm cho quốc phòng trong bối cảnh một số nước châu Âu đang trong khó khăn chồng chất về tài chính. Nhiều nước châu Âu không chấp nhận hy sinh mô hình xã hội hiện có để tăng mạnh chi phí cho quân sự. Các nước châu Âu sẽ xoay sở ra sao với cam kết 5% ? Sườn đông châu Âu sẵn sàng, nhiều nước Tây Âu dè dặt Con đường để đạt được mục tiêu 5% còn rất dài và đầy bất trắc. Trong hiện tại, 32 quốc gia thành viên cam kết chi 2% GDP/năm cho quốc phòng, mục tiêu được đề ra từ năm 2006, và chính thức khẳng định từ năm 2014. Tuy nhiên, theo số liệu của NATO, trong năm 2024, chỉ có 23 trên 32 nước đạt chỉ tiêu 2%. Theo một dữ liệu mới nhất từ Ngân hàng Thế giới năm 2023, chỉ có 10 trên tổng số 32 nước có khả năng thực thi được mục tiêu chung nói trên của NATO đặt ra cho năm 2035. Đọc thêm : Không có Hoa Kỳ liệu châu Âu có thể đối đầu quân sự với Nga ? Khác biệt là rất rõ giữa các nước phía đông châu Âu, giáp với Nga, và nhiều nước ở phía tây. Ba Lan, quốc gia coi Nga như đe dọa nhãn tiền, là nước có khả năng sớm đạt được mục tiêu 5%. Vacxava đã chi 4,1% GDP cho quốc phòng hồi năm ngoái. Các nước Baltic, đơn cử như Estonia với 3,4% GDP, cũng đang nỗ lực hướng đến mục tiêu này. Ngược lại, trong số các nước chi phí dưới 2% cho quốc phòng, có nhiều nước Tây Âu, như Tây Ban Nha, Bỉ, hay Luxembourg. Pháp đứng thứ 19 trong danh sách, với mức cam kết 2% chỉ mới được thực thi vào năm 2025. « Đỉnh Himalaya » khó vượt : Để đạt 5% phải hy sinh nhiều chi phí căn bản khác Mục tiêu 5% cho quốc phòng hiện « chưa gây ra bất kỳ cuộc tranh luận thực sự nào trong giới chính trị Pháp ». Bộ trưởng Quân Lực Pháp, Sébastien Lecornu, trong cuộc trả lời phỏng vấn tờ Le Parisien, Chủ Nhật, 22/06, « hy vọng rằng đây sẽ là trọng tâm của chiến dịch tranh cử tổng thống trong tương lai, bởi vì giai đoạn địa chính trị mà chúng ta đang trải qua sẽ còn kéo dài ». Ưu tiên trước mắt của chính quyền Pháp là thực thi hai đạo luật về ngân sách quốc phòng (LPM - loi de programmation militaire), vốn đã giúp tăng ngân sách của lực lượng vũ trang thêm 56%, từ 2017 đến 2025. Tuy nhiên, việc đạt được mục tiêu 5%, tương đương khoảng 170 tỉ euro, gấp khoảng ba lần so với hiện nay, đòi hỏi phải có một thay đổi lớn hơn nhiều. Trả lời La Croix, người phụ trách Cơ quan Chiến lược và Kế hoạch của chính phủ Pháp, Clément Beaune cho biết, « để thực thi mục tiêu tăng ngân sách quân sự thêm 3,5% vào năm 2030, sẽ phải tăng thêm 10% thuế TVA ». Nhật báo Công giáo Pháp La Croix gọi đây là « đỉnh Himalaya » khó vượt. Ông Clément Beaune cũng muốn dùng sắc thuế Zucman 2%, nhắm vào các tài sản của những người giàu nhất, từ 100 triệu euro trở lên, để cho thấy tầm mức hết sức lớn của khoản tiền cần huy động. Việc đánh thuế Zucman, nếu được tiến hành hàng năm, cũng chỉ mang lại từ 15 đến 25 tỉ euro, và như vậy là hoàn toàn không đủ. Nếu chỉ dựa trên chiếc bánh ngân sách, việc gia tăng ngân sách quân sự sẽ không tránh khỏi « ảnh hưởng đến số tiền phân bổ cho phúc lợi xã hội » và « lương của các công chức ». Mà động chạm đến « mô hình xã hội » cho đến nay vẫn là một chủ đề húy kị. Theo truyền thông Pháp, rất ít lãnh đạo đảng phái sẵn sàng đưa vấn đề này ra thảo luận, do lo ngại tác động đến sự ủng hộ của cử tri. Để huy động được nguồn tài chính khổng lồ nói trên, cần đến các phương thức khác. Cam kết 5% để đối phó với Mỹ hay vì nhu cầu an ninh thực sự ? Cam kết chi 5% GDP cho quốc phòng có phải là nhu cầu thực sự của châu Âu, hay chủ yếu là một phản ứng mang tính tình thế của các nước châu Âu trước áp lực chưa từng có của Mỹ dưới thời Donald Trump, đe dọa cắt bỏ ô bảo trợ an ninh đối với các nước không gia tăng chi phí cho quân sự. Sau thượng đỉnh NATO, truyền thông Bỉ chú ý đến phát biểu của thủ tướng Bart De Wever về trao đổi giữa ông với tổng thống Mỹ : « Ông ấy (Trump) nói rằng ''2% là rất tốt, nhưng tôi cho rằng very low’’, tức là rất thấp. Về phần mình, tôi đáp lại ‘‘Đúng, ông cho rằng mức đó là rất thấp, nhưng đó là tiêu chuẩn chi tiêu của khối NATO cho đến nay. Vì vậy, hãy cho phép chúng tôi tăng các chi tiêu theo tốc độ của riêng mình, theo các quyết định độc lập mà mỗi quốc gia thành viên có thể đưa ra’’. Như vậy đấy, ông ấy không nói thêm gì về điều đó nữa, nên tôi hy vọng ông ấy hài lòng. Nhưng tôi không chắc lắm ! » Tăng ngân sách quân sự lên 5% không đồng nghĩa với việc toàn bộ số tiền này để dành cho quân đội, để mua vũ khí và trang thiết bị quân sự. Theo thỏa thuận của NATO vừa qua, trong số tiền 5% này, 3,5% sẽ được dành cho chi tiêu thuần túy quân sự, và 1,5% còn lại được dành cho các chi phí liên quan đến an ninh quốc phòng, như an ninh mạng, xây dựng các tuyến đường giao thông, có thể được sử dụng cho mục tiêu quân sự. Xác định đầu tư nào thuộc lĩnh vực 1,5% này tùy thuộc khá nhiều vào mỗi quốc gia. Trang mạng truyền thông Pháp ngữ RTBF, trong bài « 5% du PIB pour l’OTAN, un chiffre, beaucoup d’hypocrisie » (5% GDP của NATO, một con số nhiều phần đạo đức giả), nhận định : « nước Bỉ cũng như nhiều nước khác nói rằng sẽ tôn trọng quy định 5% này, nhưng sẽ không thực hiện. Chắc chắn là sẽ có một thứ đạo đức giả ở đây, nhưng trên thực tế chi phí cho quốc phòng cũng sẽ phải tăng ồ ạt trong những năm tới, như điều Donal Trump muốn ». Báo chí châu Âu, trong đó có nhật báo thiên hữu Le Figaro, nhấn mạnh đến thái độ « quỵ lụy » của « các đồng minh » châu Âu trước « hoàng đế » Donald Trump khi chấp nhận mục tiêu 5% tại thượng đỉnh NATO. Nhiều nhà quan sát dự báo châu Âu sẽ gia tăng mua vũ khí Mỹ. Cơ hội phát triển nền công nghiệp quốc phòng tự chủ của châu Âu Trên thực tế, mục tiêu tăng cường chi phí cho an ninh quốc phòng cũng nằm trong chính nhu cầu của châu Âu. Đặc biệt kể từ khi Nga xâm lược Ukraina, việc tăng cường xây dựng năng lực phòng thủ của châu lục, trong bối cảnh vai trò của nước Mỹ ngày càng thu hẹp, và bất trắc gấp bội phần với chính quyền Donald Trump, khối 27 nước đang ngày càng quyết tâm hơn trong việc tăng cường sức mạnh quân sự của châu Âu, bên trong NATO. Đọc thêm : Tổng thống Pháp kêu gọi châu Âu từ chối « làm chư hầu » « lệ thuộc » vào Mỹ Đầu năm nay, Ủy Ban Châu Âu đã xác lập kế hoạch huy động 150 tỉ euro trên thị trường tài chính, để cung cấp đòn bẩy tài chính cho các quốc gia thành viên, tăng đầu tư vào các lĩnh vực quốc phòng quan trọng, chẳng hạn như phòng thủ tên lửa, drone, hay các trang thiết bị chiến lược khác. Kế hoạch được gọi là « ReArm Europe » (Tái vũ trang châu Âu), mới được đổi tên lại là Chuẩn bị cho chân trời 2030. Việc xây dựng một quân đội chung của châu Âu là chuyện viễn tưởng, nhưng huy động vốn đầu tư mạnh mẽ cho quốc phòng châu Âu, kể cả từ các nguồn đầu tư bên ngoài, là điều nằm trong tầm tay. Trong một cuộc tọa đàm của đài Arte (OTAN : l’UE doit-elle devenir une machine de guerre ? / NATO : Liên Âu phải chăng đang trở thành một cỗ máy chiến tranh ?), nhân dịp thượng đỉnh NATO, nhà kinh tế học Anne-Sophie Alsif, phụ trách văn phòng thẩm định tài chính BDO France, nhận định : « Tôi không thực sự tin tưởng vào một hệ thống phòng thủ châu Âu thống nhất, phản ứng nhanh chóng này, với một quân đội châu Âu, vì chúng ta có những bất đồng chính trị rất đáng kể, với nguyên tắc đồng thuận 100%. Vì vậy, mọi việc sẽ rất phức tạp. Các quốc gia không phải nước nào cũng có cùng ngân sách, lợi ích, và cùng chung một hệ tư tưởng. Vì vậy, mọi việc sẽ rất phức tạp. Mặt khác, trên thực tế, theo tôi, cơ chế hợp tác tùy theo lợi ích này sẽ là phù hợp tương tự, như với các lĩnh vực, như trí tuệ nhân tạo, dân số lão hóa : đó sẽ là sự hợp tác dựa trên lợi ích. Nghĩa là, trên thực tế, các quốc gia, ngay cả khi không thuộc Liên Hiệp Châu Âu, vẫn có thể gia nhập, đầu tư tiền, được hưởng nguồn tài chính ưu đãi và ngược lại, sẽ phải mua các sản phẩm của châu Âu. Thực sự đó là kiểu hợp đồng, một dạng deal, như mọi người nói hiện nay. Khi tham gia, bạn phải thực hiện những gì đã cam kết, và bạn sẽ được hưởng lợi từ sự bảo vệ và cơ chế này trong trường hợp bị tấn công. Để tham gia cần phải có một tầm nhìn chiến lược chung, đúng vậy, nhưng không có nghĩa là tất cả 27 quốc gia đều có nghĩa vụ phải tham gia. Mỗi quốc gia tự quyết định. Chúng ta đã thấy điều đó khi có sự rút lui phần nào của Mỹ, khi Emmanuel Macron bắt đầu tổ chức một cuộc họp và ông nói rằng : ‘‘Quý vị hãy xem, ai yêu quý chúng tôi sẽ đồng hành với chúng tôi’’. Ta thấy rằng, trong bối cảnh này, người Canada có lẽ đã là nước đầu tiên quan tâm, cũng như Vương quốc Anh, cho dù không còn nằm trong Liên Hiệp Châu Âu. Vì vậy, điều này sẽ cho phép chúng ta có được sự hợp tác ở phạm vi rộng hơn, linh hoạt hơn và hiệu quả hơn nhiều. » Tiền tiết kiệm, nguồn tài chính dồi dào Kinh tế gia Anne-Sophie Alsif cũng nhấn mạnh đến một nguồn tài chính khác : « Và có một nguồn tài trợ thứ hai, cũng là yếu tố vô cùng cơ bản, chính là tiền tiết kiệm. Tiết kiệm của người Pháp gởi trong ngân hàng rất lớn. Chưa bao giờ số tiền tiết kiệm lại lớn đến như vậy. Trước khi xảy ra Covid, tỷ lệ này vào khoảng 14%, còn hiện tại là đến gần 19%. Cơ quan thống kê quốc gia Pháp INSEE đặt tiêu đề cho một báo cáo về tình hình kinh tế hiện nay là ‘‘Hãy cẩn thận với việc tiết kiệm quá nhiều’’, ‘‘chúng ta đã vượt qua Nhật Bản với 19%’’. Chúng ta có 3.600 tỷ euro tiền tiết kiệm trong lúc nợ là 3.200. Như vậy chúng
Liên Hiệp Quốc tổ chức sinh nhật 80 tuổi bên bờ vực thẳm. Mùa hè năm 2025, cuộc chiến xâm lăng của Nga chống Ukraina, chiến tranh tàn phá dải Gaza tiếp diễn, cuộc chiến 4 ngày giữa hai cường quốc hạt nhân Ấn Độ - Pakistan, và gần đây nhất là cuộc can thiệp quân sự Mỹ-Israel chống Iran với mục tiêu ngăn chặn Teheran sở hữu vũ khí hạt nhân, trong lúc châu Âu đang tìm cách đàm phán với Iran… Chiến tranh, xung đột vũ trang khắp nơi trước sự bất lực của Liên Hiệp Quốc. Cách nay tròn 80 năm, ngày 26/06/1945, bản Hiến chương Liên Hiệp Quốc (LHQ) đã được 50 quốc gia thông qua, với một trong các tôn chỉ hàng đầu là duy trì hoà bình trên hành tinh của chúng ta. Định chế quốc tế ra đời từ Đệ nhị Thế chiến giờ đây có còn hữu ích với nhân loại trong mục tiêu bảo vệ nền hoà bình thế giới ? Định chế quốc tế ra đời ngay trong Đệ nhị Thế chiến Trong một cuộc toạ đàm với chương trình Địa chính trị của RFI, nhà sử học Chloé Maurel, chuyên gia về LHQ, ghi nhận không khí đầy hy vọng vào thời điểm LHQ ra đời. “Liên Hiệp Quốc đã được hình dung, được nhen nhóm ngay trong thời gian Thế chiến II, bởi các quốc gia chủ chốt của phe Đồng Minh và chính thức ra mắt tại San Francisco năm 1945 trong không khí phấn chấn, lạc quan cao độ, với niềm khao khát và thậm chí niềm tin vào một thế giới đoạn tuyệt với chiến tranh, bởi Thế chiến Hai là cuộc xung đột khủng khiếp, chưa từng có với nhân loại, khiến tổng cộng 60 triệu người chết… Trong Hiến chương LHQ có những nguyên tắc rất tiến bộ, như bình đẳng nam - nữ, tiến bộ xã hội, quyết tâm giải quyết xung đột bằng thương lượng, cũng như mục tiêu mọi người đều có việc làm, tức liên quan nhiều đến các vấn đề xã hội”. Trái với quan niệm của không ít người, xem Liên Hiệp Quốc như một định chế ra đời sau Thế chiến II. Trên thực tế, như vị sử gia nói trên nhấn mạnh, dự án xây dựng định chế quốc tế - tập hợp hầu hết các quốc gia trên địa cầu trong tương lai - đã bắt đầu hình thành ngay trong thời gian Thế chiến II. Hiến chương Liên Hiệp Quốc được chuẩn bị từ năm 1941 đến năm 1945. Tuyên bố Saint James, tại Luân Đôn, năm 1941, chuẩn bị cho một nền công lý quốc tế tương lai, trừng phạt các thủ phạm gây tội ác chiến tranh, Tuyên bố Liên Hiệp Quốc (Declaration by United Nations) năm 1942, với 25 quốc gia của Mặt trận chống phát xít (đứng đầu là Mỹ, Anh, Liên Xô và Trung Hoa Dân Quốc), và các hội nghị Matxcơva, Teheran, Yalta, là những cái mốc đặt nền móng cho tổ chức Liên Hiệp Quốc ra đời sau đó, trước khi bản Hiến chương Liên Hiệp Quốc được công bố. Trong cuộc toạ đàm của chương trình Địa chính trị của RFI, nhà nghiên cứu Romuald Sciora - Viện Institut de relations internationales et stratégiques (Iris), tác giả cuốn ‘‘Ai muốn LHQ phải chết ?’’ nhận định: “Khi LHQ được thành lập năm 1945 trên đổ nát hoang tàn của Thế chiến II, định chế này đã lấy cảm hướng từ Hội Quốc Liên. Dĩ nhiên, là có những sai lầm đã bị lắp lại, nhưng tuy nhiên, LHQ với Hội đồng Bảo an (hiện nay đã trở nên thực sự ít ý nghĩa và với nhiều người chúng ta là một cơ chế lệch pha trong việc quản lý các vấn đề quốc tế) vào thời điểm đó đã là một thay đổi cách mạng. Sự hình thành cơ chế này (với sự tham gia của Mỹ, khác hẳn với việc Mỹ đã không tham gia Hội Quốc Liên) có mục tiêu không để tổ chức này bị rơi vào thảm kịch như Hội Quốc Liên… LHQ đã là một sáng tạo của phương Tây, dựa trên các giá trị triết học phương Tây…, lấy cảm hứng từ các giá trị nhân văn chủ nghĩa lớn, ra đời vào thời Phục hưng tại châu Âu, được xác lập thành các lý thuyết sau đó trong thế kỷ Ánh Sáng ở châu Âu, được cụ thể hoá với sự trỗi dậy của các nền dân chủ phương Tây thế kỷ 19. Sự ra đời của LHQ năm 1945 và sau đó là Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền (1948), là sự hoàn tất của hệ thống này với việc hình thành chủ nghĩa đa phương.” Hành động của LHQ vì hoà bình trong thế giới lưỡng cực Mỹ - Xô: Những đóng góp và hạn chế Nói đến Liên Hiệp Quốc và hoà bình, nhiều người thường nghĩ ngay đến các lực lượng gìn giữ hoà bình của Liên Hiệp Quốc. Các lực lượng gìn giữ hoà bình của LHQ, thường được gọi là lực lượng “mũ nồi xanh” hiện bao gồm khoảng 70.000 binh sĩ, đến từ nhiều quốc gia, với 11 sứ mạng duy trì hòa bình đang được triển khai tại các khu vực tranh chấp, như giữa Ấn Độ - Pakistan, giữa Israel và Liban… theo đề nghị của các nước sở tại. Nhìn chung lực lượng gìn giữ hoà bình của LHQ thường chỉ có hiệu quả trong trường hợp xung đột giữa các lực lượng vũ trang có tổ chức chấp nhận ngừng bắn, thường là giữa hai quốc gia. Lý tưởng của Liên Hiệp Quốc về một “nền an ninh tập thể” - với việc thành lập một bộ tổng tham mưu, phụ trách trợ giúp Hội đồng Bảo an thực thi các nhiệm vụ quân sự, chiếu theo điều 47 của Liên Hiệp Quốc - rút cục đã không thể trở thành hiện thực, ngay sau khi LHQ ra đời, do thế đối đầu gia tăng giữa Mỹ và Liên Xô vào cuối thập niên 1940. Thế đối đầu Mỹ - Xô, và lá phiếu phủ quyết, khiến Hội đồng Bảo an không thể đưa ra các quyết định chung ngăn chặn chiến tranh. Trong giai đoạn này, Liên Hiệp Quốc “trở thành sân khấu cho cuộc đấu tranh quyền lực toàn cầu giữa Mỹ và Liên Xô”. Cạnh tranh này đã gây ra những cuộc xung đột thảm khốc mang tính khu vực, với các cuộc chiến tranh uỷ nhiệm (“proxy wars”), như ở Việt Nam và Afghanistan. Cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân giữa Mỹ và Liên Xô từng đặt thế giới mấp mé bờ vực đại chiến, trước khi Liên Xô và Mỹ bắt đầu thương lượng về kiểm soát vũ khí chiến lược. Tuy nhiên, theo nhiều nhà quan sát, dù không giúp nhân loại tránh được một Thế chiến thứ ba, nhưng LHQ đã có phần đóng góp. Vào thời điểm căng thẳng cao độ của Chiến tranh Lạnh, LHQ là một diễn đàn để các nước nhỏ ngồi chung bàn với các nước lớn, các nước đối địch có thể chỉ trích nhau. Nhà sử học Chloé Maurel nhận xét : “Có thể nói LHQ là tổ chức dân chủ nhất trong các tổ chức quốc tế. Tổ chức này mang tính phổ quát nhất, nhân loại nhất, bởi vì tại Đại hội đồng, tất cả các nước, dù giàu hay nghèo, đều có một phiếu bầu như nhau. Đặc biệt, từ năm 1960, với việc phi thực dân hoá, nhiều nước mới độc lập gia nhập LHQ. Vào năm đó, có 17 nước châu Phi vừa giành được độc lập đã gia nhập LHQ. Trọng tâm của LHQ giờ đã thay đổi. Kể từ đó, LHQ bao gồm đa số là các nước ngoài phương Tây, ngoài châu Âu. Giờ đây, các thành viên thường trực Hội đồng Bảo an không còn tính chất đại diện khi đa số các thành viên LHQ giờ đây là ngoài phương Tây, là các nước châu Phi, châu Á, Mỹ Latinh.” Bức tường Berlin sụp đổ : Cơ hội vàng bị bỏ lỡ Sự sụp đổ của bức tường Berlin, và sự tan rã của khối Liên Xô được nhiều người ghi nhận như một thời điểm thuận lợi cho việc LHQ trỗi dậy, để đảm đương trách nhiệm thực thi các tôn chỉ của Hiến chương LHQ, gần nửa thế kỷ trước. Nhiều điều kiện đã hội tụ, nhưng bất hạnh thay, LHQ đã không tranh thủ được cơ hội vàng này, theo nhà nghiên cứu Romuald Sciora (Iris) : “Chúng ta vào thời điểm đó đã có được một tổng thống Mỹ George Bush cha, ngược hẳn với tổng thống Bush con, là một người nhiệt thành cổ vũ cho chủ nghĩa đa phương. Không phải chủ yếu vì người khác, mà bởi ông ấy hiểu rằng nếu nước Mỹ siêu cường muốn tiếp tục đóng vai trò kiến thiết trật tự quốc tế trong những thập niên tiếp theo và trong thế kỷ 21, thì chắc chắn Mỹ phải dẫn dắt được chủ nghĩa đa phương. Tổng thống Bush cha vốn là đại sứ Mỹ tại LHQ. Vào thời điểm đó, chúng ta đã có một tổng thư ký mới Boutros-Ghali (1992-1996), mà theo tôi là một người thực sự có tầm nhìn xa trông rộng nhất trong số các tổng thư ký LHQ, cùng với tổng thư ký thứ hai Dag Hammarskjold. Ông đã có nhiều kế hoạch hành động vì hoà bình, an ninh và dân chủ, phát triển… Và chúng ta đã có một Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc đầu tiên ở cấp nguyên thủ quốc gia. Hiện tại có thể điều này được cho là bình thường, nhưng vào thời điểm đó, một tổng thống Mỹ ngồi chung một bàn bên lãnh đạo Nga thì thực sự là điều mới. Tóm lại, rất nhiều yếu tố thuận lợi đã có mặt vào thời điểm đó. Tuy nhiên, bất hạnh thay với LHQ, và có một chút mỉa mai ở đây, là tổng thống đảng Dân Chủ đắc cử, ông Bill Clinton, là người không hề có viễn kiến này, không hề ủng hộ chủ nghĩa đa phương chút nào. Chính quyền Clinton hoàn toàn ngoảnh mặt với các vấn đề quốc tế, mặt khác tổng thư ký Boutros-Ghali cũng không được ngoại giao lắm với tổng thống Mỹ. Rút cuộc một xung đột khiến ông Boutros-Ghali phải ra đi vào năm 1996. Vào thời điểm đó, lẽ ra LHQ phải có được một ảnh hưởng chính trị, nhưng rốt cuộc ảnh hưởng chính trị của LHQ lại suy yếu.” Thế giới “Đơn cực” chuyển sang “Hậu đơn cực”, nguy cơ cáo chung của LHQ Ba thập niên sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, “Trật tự thế giới mới”, với nước Mỹ là siêu cường duy nhất (tức Thế giới đơn cực), mà nhiều người tin tưởng là sẽ được khẳng định vĩnh viễn, với sự toàn thắng của nền dân chủ tự do phương Tây, được coi là mẫu mực đối với toàn nhân loại, giờ đây đang đứng trên bờ vực tan vỡ. Cựu thủ tướng Anh Gordon Brown (2007 – 2010), cũng như không ít người khác, nói thẳng là “trật tự thế giới mới” của 35 năm vừa qua “đang sụp đổ trước mắt chúng ta”. Brian Brivati, giáo sư thỉnh giảng về lịch sử đương đại và nhân quyền tại Đại học Kingston, Anh, thì nói đến tình trạng “một trụ cột của trật tự hậu chiến đang tấn công một trụ cột khác”, khi “người sáng lập hàng đầu của Liên Hiệp Quốc (Mỹ) đang làm suy yếu thể chế này từ bên trong, sử dụng quyền phủ quyết của Hội đồng Bảo an để ngăn chặn hành động (phi pháp, như cuộc chiến của Israel tại Gaza, bị Toà án Hình sự quốc tế kết án, và Đại hội đồng Liên Hợp Quốc lên án), trong khi đồng thời làm cạn kiệt nguồn lực của tổ chức này”. “Sự kết hợp giữa một quốc gia hùng mạnh hành động vô trách nhiệm (Israel) và một siêu cường (Mỹ) vô hiệu hóa các cơ chế giải trình đánh dấu một bước ngoặt toàn cầu… và các cường quốc toàn cầu khác, bao gồm Nga và Trung Quốc, đang tận dụng cơ hội này để vượt ra khỏi hệ thống dựa trên luật lệ của phương Tây” (Xung đột Israel-Iran ‘‘đóng chiếc đinh cuối cùng vào chiếc quan tài của Trật tự thế giới'', France 24, ngày 19/06/2025). Chuyên gia Ian Bremmer, chủ tịch công ty tư vấn về rủi ro toàn cầu Eurasia Group, trong một bài viết trên trang mạng Carneg
Mục tiêu thực sự của chiến dịch « Rising Lion » do Israel tiến hành từ ngày 13/06/2025 không chỉ nhằm mục đích vô hiệu hóa các cơ sở hạt nhân của Iran. Nhà nước Do Thái chủ yếu muốn đẩy nhanh sự sụp đổ của chế độ Teheran. Tuy nhiên, giới chuyên gia cảnh báo một sự thay đổi chế độ chỉ có thể dẫn đến việc trao quyền lực cho lực lượng Vệ binh Cách mạng. Cho đến hiện tại, các điểm tấn công của Israel tại Iran cho thấy, trong ngắn hạn, mục tiêu của thủ tướng Benjamin Netanyahu là bắn phá các cơ sở hạt nhân Iran nhằm giảm đáng kể chương trình vũ khí của nước này. Nhưng thủ tướng Israel đã nói rõ là cuộc chiến với Iran « chắc chắn » có thể dẫn đến một sự thay đổi chế độ tại nước Cộng hòa Hồi giáo. Đây chẳng phải là điều bí mật. Từ lâu chính phủ Israel cũng như nhiều quan chức các đời tổng thống Mỹ đều mong muốn sự sụp đổ của chính phủ Iran hiện nay. Tình hình tại Iran sẽ biến đổi ra sao trong trường hợp chính quyền Teheran hiện nay sụp đổ ? Cơ cấu quyền lực ở Iran Nước Cộng hòa Hồi giáo được giáo chủ Ruhollah Khomeini thành lập năm 1979 và có một cơ cấu chính phủ mang các yếu tố dân chủ, thần quyền và độc tài. Nhà nước được điều hành bởi các giáo sĩ và các nhà lập pháp Hồi giáo nhằm bảo đảm rằng mọi chính sách đều tuân thủ luật Hồi giáo. Vì Iran từng là quốc gia quân chủ lập hiến trước cách mạng, nên các yếu tố thần quyền đã được ghép vào các yếu tố cộng hòa hiện có chẳng hạn như Nghị Viện, Hành pháp và Tư pháp. Tuy nhiên, hệ thống lập pháp của Iran là đơn viện (nghĩa là một viện Quốc hội duy nhất), còn được gọi là Majles và nước này cũng có tổng thống (hiện nay là ông Masoud Pezeshkian). Hai định chế này được bầu chọn qua các cuộc bầu cử thường kỳ. Dù vậy, theo giải thích trên trang The Conversation từ nhà nghiên cứu Andrew Thomas, chuyên gia về Trung Đông, đại học Deakin, tuy được bao phủ các yếu tố dân chủ, trên thực tế đây là một « mạch khép kín », giúp giới giáo sĩ duy trì quyền lực và ngăn chặn mọi thách thức đối với lãnh đạo tinh thần tối cao, vị trí cao nhất trong một hệ thống quyền lực được phân cấp rất rõ ràng, mà người đứng đầu hiện nay là giáo chủ Ali Khamenei. Năm nay 86 tuổi, và từng là cựu tổng thống, Ali Khamenei đã được Hội đồng chuyên gia (gần giống với Thượng Viện) – một cơ quan bao gồm 88 nhà luật học Hồi giáo – chọn trở thành lãnh đạo tối cao vào năm 1989 sau khi giáo chủ Khomeini qua đời. Nếu như các thành viên của Quốc Hội, Hội đồng chuyên gia cũng như tổng thống được bầu chọn qua lá phiếu phổ thông trực tiếp, thì tư cách các ứng viên tranh cử thành viên Quốc Hội, Hội đồng, cũng như tổng thống trước hết phải được Hội đồng Giám hộ (Hội đồng Bảo hiến) quyền lực thông qua. Định chế này có 12 thành viên, nhưng một nửa trong số này là do lãnh đạo tối cao bổ nhiệm, một nửa còn lại là do Quốc Hội chỉ định. Cuối cùng, đích thân giáo chủ, lãnh đạo tinh thần tối cao là người bổ nhiệm người đứng đầu các cơ quan quan trọng của chính phủ, như cơ quan tư pháp, lực lượng vũ trang và lực lượng Vệ binh Cách mạng Hồi giáo (IRGC). IRGC đầy quyền lực Nhìn vào cơ cấu này, đối với các nhà quan sát phương Tây, Iran còn xa mới là một nền dân chủ. Nhưng họ cũng nhìn nhận rằng một sự thay đổi chế độ có thể dẫn đến một nền dân chủ hoàn toàn đi theo Mỹ và Israel cũng là điều không thể, do nền chính trị Iran cực kỳ chia rẽ phe phái. Các phe phái tư tưởng như phe cải cách, phe ôn hòa và phe bảo thủ, luôn có những bất đồng sâu sắc về những chính sách quan trọng. Họ tranh giành ảnh hưởng với lãnh đạo tối cao, cũng như trong giới tinh hoa giáo sĩ. Nhưng không một phe phái nào trong số này đặc biệt ủng hộ Mỹ, càng không ủng hộ Israel. Rồi còn có các phe phái trong các định chế. Trong số này, quyền lực nhất nước là hàng giáo sĩ do lãnh đạo tối cao điều hành. Tiếp đến là Vệ binh Cách mạng. Ban đầu được lập ra như một lực lượng cảnh vệ riêng cho giáo chủ, IRGC ngày nay có một sức mạnh quân sự sánh ngang với cả quân đội chính quy. Mang tư tưởng chính trị cực đoan, IRGC có tầm ảnh hưởng ở cấp quốc gia đôi khi vượt xa tổng thống, gây áp lực đáng kể lên các chính sách của tổng thống, và chỉ công khai ủng hộ những tổng thống nào theo đuổi học thuyết cách mạng Hồi giáo nghiêm ngặt. Không chỉ kiểm soát thiết bị quân sự và ảnh hưởng chính trị, IRGC còn có mối liên hệ chặt chẽ với nền kinh tế Iran. Bị đánh giá như là một « tổ chức tham nhũng », quả thực, giới chức lực lượng Vệ binh Cách mạng đã làm giầu đáng kể nhờ vào các hợp đồng được chính phủ trao, cũng như là việc tham gia điều hành « nền kinh tế ngầm » nhằm lách lệnh trừng phạt của Mỹ và phương Tây. Nguy cơ đi từ chế độ « thần quyền – quân sự » sang « quân sự » Nhìn từ những góc độ này, và trong bối cảnh cuộc không chiến giữa Israel và Iran diễn ra dữ dội từ hôm 13/06, nhà nghiên cứu người Úc Andrew Thomas đánh giá khả năng IRGC sẽ là tổ chức chính trị nắm quyền kiểm soát Iran là rất cao nếu hàng giáo sĩ bị gạt khỏi quyền lực. Đây cũng là quan điểm và nỗi lo của một bộ phận giới nghiên cứu tại Pháp gốc Trung Đông khi e rằng cái chết của ông Ali Khamenei « có lẽ sẽ không giúp thay đổi chế độ » hay cho phép « chấm dứt xung đột ». Trên đài RFI Pháp ngữ, nhà xã hội Azadeh Kian, giáo sư tại đại học Paris Cité giải thích : « Một mặt, người ta không biết lãnh đạo tối cao đang ở đâu và liệu rằng Israel có thực hiện kế hoạch ám sát ông ấy hay không. Mặt khác, tôi nghĩ rằng quyền lực có lẽ đã nằm trong tay Vệ binh Cách mạng, thậm chí cả trước khi diễn ra các cuộc không kích của Israel. Vì vậy, ông ấy không còn ở đó nữa và người cũng sẽ không thể lật đổ chế độ nhưng quyền lực đã được trao không phải cho hàng giáo sĩ mà là hoàn toàn cho Vệ binh Cách mạng. Hơn nữa tôi cũng được nghe nhiều thông tin mà hiện tôi chưa thể thẩm định theo đó lãnh tụ tối cao dường như đã chấp thuận trao cho Vệ binh Cách mạng quyền quyết định. Nếu như vậy, thì chúng ta đang chuyển từ chế độ "thần quyền – quân sự" sang chế độ "quân sự". » Vẫn theo nhà xã hội người Pháp gốc Iran này, trong thời chiến, Vệ binh Cách mạng sẽ thâu tóm nhiều quyền lực hơn. Đây là lực lượng nắm quyền kiểm soát tên lửa đạn đạo và các hoạt động đáp trả. Nếu như các cuộc không kích của Israel đã giết chết một số tướng lĩnh Vệ binh, khiến nhiều người hả dạ và làm suy yếu phần nào chế độ, thì tất cả những điều này chưa đủ để cho chế độ Iran hiện hành có thể bị lật đổ. Trên làn sóng France Culture, nhà xã hội Azadeh Kian giải thích tiếp : « Ngay cả khi chế độ bị suy yếu, hay bị sụp đổ vì các cuộc oanh kích của Israel, liệu chúng ta đã có một giải pháp chính trị, dân chủ nào để có thể thay thế chế độ hiện nay hay là toàn khu vực Trung Đông có nguy cơ sẽ phải đối mặt với sự tan rã của đất nước, sự hỗn loạn … ? Đây thực sự là những câu hỏi quan trọng cần đặt ra và chúng cũng được nêu ra cho các nước trong vùng. Đương nhiên, việc các lãnh đạo, chỉ huy Vệ binh bị giết chết khiến người dân Iran hài lòng bởi đó là những người có trách nhiệm trong việc trấn áp phe đối lập. Nhưng điều đó không có nghĩa là chế độ sụp đổ bởi vì những người đó đã được thay thế nhanh chóng. Iran đã phóng hàng loạt tên lửa nhắm vào Israel. Điều này có nghĩa là lực lượng Vệ Binh vẫn chưa bị tan rã. » Lật đổ chế độ : Bài học Irak Đây cũng chính là quan điểm của nhà chính trị học Myriam Benraad, chuyên gia về Trung Đông, giảng viên trường đại học Khoa học Chính trị Sciences Po, khi trả lời phỏng vấn trang The Conversation. Việc Israel và Mỹ tìm cách tiêu diệt lãnh tụ tối cao Ali Khamenei gợi nhắc lại chính sách sai lầm của Mỹ tại Irak sau khi lật đổ chế độ Saddam Hussein năm 2003, vốn đã không mang lại một nền dân chủ,, mà đúng hơn là một sự hỗn loạn, và sự xuất hiện chế độ tài phiệt độc tài. « Chúng ta đang quay trở lại với giới hạn của học thuyết nổi tiếng về dân chủ hóa Trung Đông mà Mỹ mong muốn vào đầu những năm 2000, sau sự kiện ngày 11 tháng 9. Chính ngày 11 tháng 9 này mà vụ giết người hôm 07/10/2023 thường được đem ra so sánh. Khi đề cập đến việc thay đổi chế độ ở Iran, Netanyahu có ý định sao chép cách tiếp cận rất mang tính kiểu Bush về một cuộc chuyển đổi dân chủ và tự do lớn trong khu vực, một chuỗi sự kiện bắt đầu vào ngày 11 tháng 9. Nhưng có lẽ ông đang tự lừa dối mình nếu nghĩ rằng mọi việc sẽ diễn ra đơn giản như vậy. » Trong bối cảnh này, ngày 17/06/2025, vào lúc đối đầu quân sự giữa Israel và Iran bước vào ngày thứ năm, tổng thống Pháp Emmanuel Macron, bên lề thượng đỉnh G7 tại Canada, cảnh báo một sự thay đổi chế độ tại Iran sẽ đồng nghĩa với sự « hỗn loạn ». (Nguồn The Conversation, France Culture và RFI)
Lần thứ ba Liên Hiệp Quốc tổ chức Hội nghị Đại dương. Tại hội nghị diễn ra giữa tháng 06/2025 ở Nice, Pháp, vấn đề dữ liệu về biển đang nổi lên như một chủ đề trọng tâm. Vì sao dữ liệu về biển lại trở thành đấu trường địa-chính trị mới ? Vai trò của Pháp, của Liên Hiệp Châu Âu ra sao trong lĩnh vực then chốt này ? Trong lúc con người hiểu ngày càng rõ hơn về các hành tinh cách xa Trái đất hàng triệu cây số, đại dương vẫn là nơi nhiều phần bí hiểm. Thông tin về phần đại dương dưới mặt nước biển là một lĩnh vực mà hiểu biết con người còn rất hạn chế, do độ sâu, áp suất, môi trường mờ đục…, khiến việc khám phá phức tạp hơn nhiều so với bề mặt các thiên thể không có khí quyển. Tuy nhiên, tình hình đang thay đổi rất nhanh chóng với cuộc cách mạng kỹ thuật số và trí tuệ nhân tạo diễn ra. Dữ liệu được thu thập ngày càng nhanh chóng, phong phú và chính xác hơn. Việc lập bản đồ đáy biển, giám sát các luồng nước, mô hình hóa các hệ sinh thái, truy vết các nguồn ô nhiễm, dự báo thảm họa… là các hoạt động ngày càng có ý nghĩa quan trọng. Đằng sau việc thu thập, xử lý và khai thác dữ liệu về biển, là một cuộc chơi về quyền lực dưới hình thức mới. Trong vấn đề thu thập dữ liệu biển do vệ tinh hay với các cảm biến trong lòng biển, từ « bản sao số » về đại dương (digital twin of the ocean/jumeaux numériques), hay việc « số hóa đại dương ») đến các nền tảng dữ liệu chia sẻ, nhiều câu hỏi được đặt ra : Ai là người kiểm soát các công cụ đó ? Với mục đích gì ? Hợp tác hay thống trị ? Khám phá hay khai thác ? Bảo vệ hay theo dõi ?... Đọc thêm : Đại dương trước các thách thức về kinh tế và bảo tồn Dữ liệu về biển đang trở thành một đấu trường mới, cả về mặt công nghệ lẫn chính trị. Trong bối cảnh các xung đột mang tính hỗn hợp, nghĩa là pha lẫn mặt quân sự với mặt dân sự, ngày càng gia tăng, vấn đề chủ quyền trên biển không thể tách rời khỏi chủ quyền về kỹ thuật số. Đầu tháng 6/2025, chương trình « Địa-chính trị » của RFI tổ chức một cuộc tọa đàm với một số chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực này trong bối cảnh, Liên Hiệp Quốc tổ chức hội nghị về đại dương tại Pháp, với mục tiêu hàng đầu là xây dựng các nền tảng cho một mô hình quản trị biển mới. Biển cả : Cuộc chạy đua tìm kiếm, kiểm soát và tranh đoạt dữ liệu Trả lời câu hỏi vì sao các dữ liệu về biển lại là vấn đề địa-chính trị, bà Julia Tassie, tác giả cuốn « Géopolitique de la mer » (Địa-chính trị về biển), phụ trách chương trình về Đại dương của IRIS, Viện nghiên cứu quốc tế và chiến lược Pháp, và điều phối viên số tạp chí đặc biệt về dữ liệu biển, nhận định : « Vấn đề dữ liệu có ý nghĩa chiến lược là vì : Hiểu về biển và biết ai đang hoạt động trên biển sẽ cho phép chúng ta hành động một cách hiệu quả. Đại dương đúng là mênh mông, chúng ta không thể hiện diện và hoạt động trên toàn bộ bề mặt đại dương. Vì vậy, cần phải tối ưu hóa nguồn lực. Ta cần biết chính xác phải cử tàu đến đâu, phải triển khai các thiết bị drone đến đâu và điều đó chỉ có thể thực hiện được nếu ta biết nơi cần phải đến. Khi Hải quân quốc gia Pháp nói đến ‘‘ưu thế thông tin’’. Đây là một khái niệm mà tôi thấy rất rõ ràng : cụ thể là càng có nhiều thông tin, chúng ta càng có nhiều khả năng hành động. Việc chúng ta bước vào một kỷ nguyên mới, khi mà khối lượng dữ liệu thu thập được lớn hơn bao giờ hết, đã tạo nên một cuộc chạy đua về công nghệ, một cuộc chạy đua đổi mới sáng tạo, một cuộc chạy đua về trang thiết bị. Bởi vì ta cần có kiến thức tốt hơn các đối thủ chiến lược của mình và cũng cần chứng tỏ rằng ta biết họ đang ở đó. Và không chỉ là biết, mà còn phải cho đối phương biết rằng ta phát hiện ra họ, biết họ đang ở đâu, và có thể biết được cả ý định của họ. Tất cả điều này giống như một ván cờ lớn trên biển. » Đọc thêm : Trung Quốc « sắp sẵn » quân cờ cho cuộc đua khai thác quặng mỏ đáy biển Cáp ngầm trong lòng biển : Cơ sở hạ tầng thiết yếu của không gian kỹ thuật số Trả lời RFI, ông Charles Guenois, sĩ quan Hải quân Pháp, chuyên gia về tàu chiến và kỹ thuật số, nhấn mạnh đến mối liên hệ mật thiết giữa đại dương và kỷ nguyên kỹ thuật số, khi tuyệt đại đa số cáp ngầm thông tin được đặt dưới biển : « Có một thực tế liên quan đến biển. Đó là toàn bộ không gian kỹ thuật số của chúng ta thực chất phụ thuộc vào đại dương. ‘‘Không gian số’’ dựa vào các trung tâm dữ liệu đặt trên đất liền, đúng, nhưng chúng cũng dựa vào các cáp ngầm dưới biển. Đây là những mắt xích của mạng lưới này. Chưa kể đến các vấn đề về năng lượng cũng liên quan chặt chẽ đến biển. Không gian kỹ thuật số và không gian vật lý trên biển gắn kết với nhau mật thiết. Điều này đặt ra một thách thức chiến lược trong việc kiểm soát các cơ sở hạ tầng đó, đặc biệt là qua không gian biển ». Tuy nhiên, biển cả không chỉ là nơi đối đầu và cạnh tranh chiến lược. Việc hợp tác trong lĩnh vực dữ liệu về đại dương là một mảng có ý nghĩa sống còn với nhân loại, và là chủ đề trọng tâm của Hội nghị lần thứ ba của Liên Hiệp Quốc về Đại dương, được tổ chức tại thành phố biển Nice, miền Nam nước Pháp. Dữ liệu môi trường, dữ liệu địa-chính trị ngày càng đan bện Trong bối cảnh « các xung đột mang tính hỗn hợp », nghĩa là pha lẫn mặt quân sự với mặt dân sự ngày càng gia tăng, vấn đề an ninh môi trường liên hệ mật thiết với vấn đề cạnh tranh địa-chính trị. Trả lời RFI, nhà báo độc lập Guillaume Delacroix, chuyên về đại dương và biến đổi khí hậu, nhận định : « Tôi xin nhắc lại là hai vấn đề lớn của hội nghị tại Nice là : thứ nhất, bình diện an ninh, bình diện địa-chính trị, tức vấn đề Ai kiểm soát cái gì, Ai là bên đầu tiên giành quyền được kiểm soát cái gì. Và vấn đề lớn thứ hai là bảo vệ đại dương nói chung, trước đe dọa của biến đổi khí hậu, làm thế nào để có thể tránh được tình trạng rác thải nhựa tràn ngập, làm thế nào để hạn chế được mức nước biển dâng cao, v.v. Có nhiều chuyện về môi trường. Và tất cả những vấn đề liên hệ mật thiết với nhau. Trên thực tế, chúng ta sẽ thấy là sẽ ngày càng có vô vàn dữ liệu đan bện với nhau. Thách thức chủ yếu hiện nay chính là làm sao để có thể liên kết, phối hợp được các dữ liệu ấy với nhau. » Hướng đến một « bản sao số của đại dương » Những bước tiến khổng lồ về công nghệ, kỹ thuật thu thập và xử lý dữ liệu là cơ may hay hiểm họa với nhân loại ? Chia sẻ - minh bạch dữ liệu hay đối đầu một mất một còn ? Trong lúc một số cường quốc về biển, đặc biệt là nước Mỹ dưới thời Donald Trump, không mặn mà, thậm chí từ chối các hợp tác quốc tế, thì Liên Hiệp Châu Âu và các đối tác thúc đẩy một tiếp cận khác, nhấn mạnh đến các hợp tác sâu sắc và toàn diện trong lĩnh vực này. Nhà báo Guillaume Delacroix nhận định : « Đây là một chủ đề cơ bản khác của hội nghị Nice, bởi vì hội nghị này dự kiến sẽ hướng đến việc thành lập một tổ chức liên chính phủ. Tổ chức kiểu này hiện đã tồn tại về mặt chính thức, nhưng dưới một hình thức khác. Cơ chế liên chính phủ này sẽ chịu trách nhiệm cho việc phát triển cái gọi là “bản sao số của đại dương” (digital twin of the ocean). Thực ra, bản sao số là một khái niệm đã được áp dụng từ nhiều năm qua trong ngành công nghiệp. Ví dụ, một hãng chế tạo máy bay muốn thiết kế một chiếc máy bay tương lai, họ sẽ thiết kế nó trên máy tính, thay vì chế tạo một nguyên mẫu. Trước đây, người ta làm nguyên mẫu rồi thử nghiệm, đôi khi thành công, đôi khi thất bại. Ngày nay, mọi thứ đều được thực hiện ảo. Chẳng hạn, Renault sử dụng các bản sao số để tạo ra những chiếc xe ô tô ảo, dùng để thử nghiệm xem chúng có đáp ứng được các tiêu chuẩn môi trường mới hay không, v.v. Đây là một sáng kiến đã có từ khá lâu của Liên Hiệp Châu Âu. Mục tiêu là tạo ra một bản sao số của đại dương, nghĩa là một công cụ tin học khổng lồ trên internet, cho phép mô phỏng đại dương về mọi chức năng và hoạt động. Ta có thể hình dung tầm quan trọng của điều này là rất lớn. Và đó là lý do vì sao dữ liệu lại có vai trò chiến lược và địa-chính trị vô cùng quan trọng: càng có nhiều dữ liệu, chúng ta càng có thể đối chiếu, xác minh, và dự đoán tốt hơn những gì sẽ xảy ra trong đại dương. Ví dụ như để biết cách xử lý tảo xanh ở vịnh Douarnenez, hoặc loại bỏ rác thải nhựa trên một bãi biển ở Sumatra bằng cách truy tìm nguồn gốc của những rác thải đó, v.v. Vì vậy, có rất nhiều ứng dụng thực tiễn và ý tưởng của bản sao số này đang được phát triển, với mục tiêu là cung cấp miễn phí và sẵn sàng cho sử dụng với tất cả mọi người: công dân, chính trị gia, nhà khoa học, doanh nghiệp, v.v... Tất cả những tri thức hiện nay còn rải rác có thể được gom lại và làm cho trở nên có ý nghĩa trong việc bảo vệ đại dương của chúng ta. Đó cũng chính là mục tiêu của hội nghị Nice, bảo vệ đại dương và toàn bộ sự phong phú của nó, bằng cách cố gắng đi trước một bước những biến đổi lớn mà đại dương đang phải trải qua do tác động của con người và biến đổi khí hậu. » Dự án lập bản đồ đáy biển bằng vệ tinh Surface Water and Ocean Topography (SWOT), cơ quan không gian Mỹ NASA hợp tác với Trung tâm vũ trụ quốc gia Pháp (CNES), được ghi nhận đã mang lại một thay đổi « cách mạng », với sản phẩm được chính thức công bố từ tháng 6/2024. Minh bạch - chia sẻ dữ liệu về biển thúc đẩy việc bảo vệ đại dương Trong lĩnh vực hợp tác bảo vệ đại dương, với mặt trận dữ liệu là trung tâm, khi Mỹ thoái lui, Châu Âu phải lên tuyến đầu. Theo chuyên gia Julia Tassia, Pháp và châu Âu « thực sự có rất nhiều lợi thế, về mặt kỹ thuật, cũng lợi thế về khoa học với những tổ chức khoa học lớn có tầm vóc quốc tế, như IFREMER (Viện nghiên cứu Biển Pháp) hoặc cục Thủy văn và Hải dương học Hải quân Pháp. Nhưng cũng còn có sự đa dạng của các tác nhân ở cấp độ Liên Hiệp Châu Âu nữa. Chúng ta có những tác nhân kinh tế, một nền kinh tế biển rất năng động, và rất phát triển. Chúng ta có các công ty tàu biển, và thậm chí là những tập đoàn hàng hải lớn. » Thách thức lớn của châu Âu là làm thế nào đưa ra các quyết sách mang tầm vóc của khối. Đọc thêm : ‘‘Kiểm tra sức khỏe định kỳ’’: Bệnh tình Trái đất trầm trọng hơn trong năm 2022 Nhiều người trông đợi hội nghị Đại dương tại Nice sẽ đưa ra được các quyết sách quan trọng, đặc biệt liên quan đến việc xây dựng khuôn khổ pháp lý để bảo vệ đại dương, tài sản chung của n



