DiscoverTạp chí văn hóa
Tạp chí văn hóa
Claim Ownership

Tạp chí văn hóa

Author: RFI Tiếng Việt

Subscribed: 21Played: 293
Share

Description

Sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật, đặc biệt là tại Pháp và Việt Nam

295 Episodes
Reverse
Nhắc đến Dan Hill, giới yêu nhạc nghĩ tới ngay một ca sĩ kiêm tác giả người Canada. Ông có nhiều bản nhạc pop ăn khách trên thị trường quốc tế trong những năm 1970 và 1990, nổi tiếng nhất vẫn là nhạc phẩm « Sometimes when we touch ». Trong tiếng Việt, bài hát này theo cách đặt lời và diễn đạt của nghệ sĩ Huy M.C là Tình quyến luyến không rời, còn theo tác giả Lan Anh do ca sĩ Lưu Bích trình bày là Vòng tay ấm cho người. Sinh năm 1954 ở Toronto, Canada, Danqua Hill lớn lên trong một gia đình công chức. Ông bộc lộ năng khiếu âm nhạc từ khi còn nhỏ, sau khi được bố mẹ tặng cây đàn ghi ta đầu tiên nhân sinh nhật mười tuổi. Khi còn học trung học, ông bắt đầu đi hát tại các quán cà phê. Trước khi đậu bằng tú tài, ông đã thu âm một băng nhạc demo với sự hỗ trợ của người bạn thời thơ ấu là Matt McCauley, sau này cũng trở thành một nhà soạn nhạc nổi tiếng tại Canada.  Đầu những năm 1970, Dan Hill ký hợp đồng thu thanh với một hãng đĩa độc lập của Canada (GRT Records). Vài năm sau đó, Dan Hill phát hành album đầu tiên cũng với đĩa đơn ăn khách (You make me want to be) trên thi trường Canada. Năm 1977, Dan Hill lúc ấy mới 23 tuổi, sáng tác và thu âm bản ballad « Sometimes when we touch » với sự hỗ trợ của nhà soạn nhạc Barry Mann, đã giúp anh hoàn tất album phòng thu thứ nhì "Longer Fuse". Đây là bản nhạc ăn khách nhất của Dan Hill, đạt hạng 3 trên danh sách Billboard của Mỹ và hahng nhất trên bảng xếp hạng thị trường Canada. Tina Turner từng ghi âm lại bài này vào năm 1978 trên album « Rough » của mình. Có lúc, Dan Hill xem thành công quá lớn của bài hát này như một « rào cản », che khuất các sáng tác khác trong sự nghiệp của mình. Bất kể ông có thu bản nhạc nào, thì bài hát mới cũng bị so sánh với giai điệu « Sometimes when we touch ». Nhiều năm sau đó, ông mới nhận ra rằng chính nhạc phẩm này đã mở cho ông nhiều cánh cửa của ngành công nghiệp giải trí và giúp ông trở thành một nghệ sĩ nổi tiếng. Mặc dù ông có nhiều bản nhạc ăn khách tại quê nhà Canada, nhưng các đĩa đơn tiếp theo lại không mấy thành công tại Hoa Kỳ. Mãi đến hơn một thập niên sau thành công đầu tiên, Dan Hill mới xuất hiện trở lại trên bảng xếp hạng Billboard vào năm 1987 với nhạc phẩm « Can't we try », một bản song ca với Vonda Shepard, mở đường cho Dan Hill thành công với 5 bản nhạc khác lọt vào Top Ten thị trường Hoa Kỳ, đầu những năm 1990.  Chính trong giai đoạn này, Dan Hill mới có cơ hội hợp tác với Céline Dion qua việc trình bày hai bản song ca là « Can't we try » (hát live 1987) và « Wishful thinking » (1989) viết cho album tiếng Anh « Unison » của Céline Dion, nhưng rốt cuộc bài hát lại không được tuyển vào danh sách cuối cùng trên album này. Một trong những ca khúc ăn khách khác của ông là « Seduces me » mà ông đã viết cho Céline trên album « Falling Into You ». Nhờ thành công vượt trội của album tiếng Anh thứ tư của Céline Dion với hơn 32 triệu bản được bán trên thế giới, Dan Hill được trao giải Grammy  năm 1996 với tư cách nhà đồng sản xuất album cho Céline Dion.  Ngoài giải Grammy này, ông còn nhận được sau này nhiều giải thưởng danh giá khác, trong đó có 5 giải Juno của Canada. Trong suốt những năm 1990, Dan Hill ít còn thu thanh các bài hát của mình mà chủ yếu tập trung vào việc sáng tác cho một số ca sĩ nổi tiếng thời bấy giờ như Britney Spears, Backstreet Boys, George Benson hay Reba McEntire .....  Album phòng thu gần đây nhất của ông là  « On the Other Side of Here » được phát hành vào năm 2021, hầu như vào cùng thời điểm ông được vinh danh tại Đại sảnh Danh vọng các tác giả và nhà soạn nhạc Canada. Cũng như nhiều đồng nghiệp là Bruce Cockburn và Murray McLauchlan, Dan Hill thuộc vào hàng tác giả của Canada trưởng thành vào giữa những năm 1970, những người ban đầu chủ yếu  đi hát trong các quán cà phê nhỏ, các tụ điểm văn nghệ « bỏ túi », nhưng nhờ vào tài năng sáng tác và diễn  đạt, Dan Hill đã vươn lên thành một trong những ngôi sao sáng giá trên vòm trời âm nhạc.
Trong làng truyện tranh tiếng Pháp, không phải chỉ có phóng viên Tintin mới đi khắp tứ phương, anh hùng Astérix cũng từng chu du bốn bể. Trong hơn 40 tập truyện được phát hành từ năm 1961, Astérix từng đi vòng quanh xứ Gô loa (Pháp), ghé thăm Bỉ, Tây Ban Nha, các nước Bắc Âu, Hy Lạp, Thụy Sĩ, hay đế chế La Mã. Với tựa đề « Astérix en Lusitanie », tập truyện tranh vừa được phát hành cuối năm 2025, đưa độc giả theo chân nhân vật Astérix ghé thăm xứ Bồ Đào Nha. Theo ghi nhận của tờ báo Ouest France, sau hai tuần lễ đầu tiên ra mắt bạn đọc, tập truyện « Astérix en Lusitanie » (Astérix tại Bồ Đào Nha) đã lập lỷ lục số bán với hơn một triệu bản, tức đã tăng 8% so với kỳ phát hành lần trước của tập truyện « L'Iris blanc » (Hoa diên vĩ trắng) cách đây hai năm. Đằng sau thành công của tập truyện thứ 41, có sự tham gia của họa sĩ Didier Conrad và nhà soạn kịch bản Fabrice Caro (ông viết toàn bộ lời thoại dưới bút danh FabCaro). Đây là lần thứ nhì, hai tác giả này hợp tác với nhau để tạo ra một quyển truyện tranh, được nhiều độc giả nhiệt tình đón nhận. Đọc thêmL'Iris blanc : Tập truyện tranh mới của Astérix ra mắt độc giả Trung thành với ý tưởng ban đầu của cặp bài trùng Uderzo và Goscinny, hai tác giả khai sinh nhân vật « anh hùng xứ Gô loa », nhóm sáng tác mới đã dí dỏm kể lại hành trình phiêu lưu tại Bồ Đào Nha của đôi bạn Astérix và Obélix cùng với chú chó dễ thương IdéFix (trong tiếng Anh được gọi là DogMatix). Tập truyện thứ 41 bắt đầu với nhân vật BoulQuiès gặp Astérix và Obélix để cầu cứu, xin họ mang « bầu thần dược » sang Lusitanie, một vùng đang bị đội quân La Mã chiếm đóng. Nhiệm vụ lần này của hai anh hùng Gô loa là giúp đỡ nhà sản xuất nước tương garum tên là Mavubès, phải chăng do thị lực kém nên không trông rộng nhìn xa, ông bị kết án một cách oan uổng vì tội âm mưu đầu độc hoàng đế César. Trong chuyến đi biển nhiều ngày đến Bồ Đào Nha, Astérix đã nghe kể lại giai thoại về sự phản bội của gia tộc Pirespès, dòng họ mang tiếng xấu nhất lịch sử, khiến cho người dân vùng Lusitanie phải chịu đựng một nỗi buồn u uẩn (saudade) day dứt khôn nguôi, được cho là nguồn gốc của fado, làn điệu dân ca nỉ non ai oán của Bồ Đào Nha. Thực ra, cốt truyện hoàn toàn hư cấu này là cái khung để cho hai tác giả sáng chế ra hàng loạt màn khôi hài, khai thác sự hiểu lầm, tình huống ngược đời, chọc cười bằng cách chơi chữ. Trả lời phỏng vấn RFI ban tiếng Pháp, nhóm sáng tác FabCaro và Didier Conrad đã cho biết đôi nét về ý tưởng hình thành cũng như quá trình sáng tạo tập truyện thứ 41. Câu hỏi đầu tiên rất đơn giản là tại sao nhóm sáng tác đã chọn Bồ Đào Nha : FabCaro : Từ trước tới nay, bộ truyện Astérix có truyền thống luân phiên hai thể loại : loại thứ nhất chuyên nói về nếp sống sinh hoạt của xứ Gô loa và loại thứ nhì thuật lại các chuyến du hành « xuất ngoại » của Astérix. Mặc dù không có gì bắt buộc nhóm sáng tác phải tuân theo, nhưng sau thành công của « Hoa diên vĩ trắng », chúng tôi nghĩ đã đến lúc đưa nhân vật chính đi thăm một chân trời mới. Về mặt cốt truyện, Bồ Đào Nha ở phía nam châu Âu không quá xa ngôi làng Gô loa ở vùng Bretagne. Chúng tôi đã trình bày ý tưởng này với nhà xuất bản Albert René và ban điều hành rất hứng thú vì ý tưởng này đã có từ lâu rồi, nhưng chưa có nhóm sáng tác nào bắt tay thực hiện. Mọi chuyện bắt đầu đơn giản như vậy. Chúng tôi lập ra danh sách của những nơi đã từng được vẽ thành truyện và lần này Bồ Đào Nha (Lusitanie) là nước thứ 15 được Astérix ghé thăm. Đọc thêmBộ truyện tranh Astérix ra mắt phần tiền truyện Idéfix « Astérix tại Bồ Đào Nha » là tập truyện thứ nhì của nhóm sáng tác Fabrice Caro và Didier Conrad. Đâu là những yếu tố « bất dịch » mà hai tác giả này buộc phải tuân thủ, để tránh đi ngược lại với ý tưởng ban đầu của hai nhà khai sinh là họa sĩ Albert Uderzo và nhà soạn kịch bản René Goscinny : Didier Conrad : Đúng vậy, trong bộ truyện Astérix, có khá nhiều yếu tố « cố định » thường được lặp đi lặp lại từ tập này sang tập khác. Giới bạn đọc trước khi mua mỗi quyển truyện tranh, đều chờ đợi là họ sẽ tìm lại được những yếu tố quen thuộc này, chẳng hạn như « bầu thần dược » cho Astérix sức mạnh vô song, Obélix có tính ham ăn và luôn tìm củi để nướng thịt lợn rừng, đội quân La Mã dù hùng hậu cách mấy cũng bị đánh liểng xiểng tơi bời, thua trận thảm hại buồn cười… Vì vậy, khi khai thác những ý tưởng mới, chúng tôi phải tạo dấu gạch nối để tránh cho bạn đọc có cảm giác cốt truyện bị đứt đoạn, không còn liền mạch. Điều đó buộc nhóm sáng tác phải linh hoạt khi tìm cách chơi chữ, năng động sáng chế hoặc biến tấu xung quanh mô típ của những trò đùa, với mục đích chọc cười độc giả. Truyện tranh Asterix thực sự một hiện tượng toàn cầu. Đây là bộ truyện tranh tiếng Pháp được phổ biến rộng rãi nhất trên thế giới : 400 triệu bản đã được bán ra kể từ khi ra mắt độc giả lần đầu tiên vào mùa thu năm 1961. Vậy thì điều gì có thể giải thích cho sự thành công lâu dài này, họa sĩ Didier Conrad nhận xét : Didier Conrad : Giả thuyết của chúng tôi là, người Pháp thực sự có một hình ảnh khá mơ hồ về nguồn gốc có từ thời xa xưa của mình. Và trong mắt độc giả sự thành công của Astérix, đã lấp đầy những khoảng trống ấy. Hai nhà khai sinh ít dùng yếu tố lịch sử mà lại tận dụng tính khôi hài, để nói về dân tộc xứ Gô loa cũng như một số tập quán của người Pháp một cách dí dỏm, vui nhộn và có duyên. Đó chỉ là một giả thuyết, nhưng có thể giải thích vì sao nhân vật Astérix lại thu hút nhiều độc giả như vậy, ở bất cứ lứa tuổi nào FabCaro : Truyền thống di sản dù sao cũng là một thứ gì đó khá trừu tượng. Nhưng dưới lớp vỏ bọc cổ xưa, chúng ta vẫn có thể nói về những khái niệm đương đại, phổ biến thời nay. Thực ra, mỗi tập truyện Astérix lại giống như một bức ảnh chụp nhanh, phản ánh xã hội vào lúc quyển truyện được phát hành. Chẳng hạn như trong tập thứ 41, dù câu chuyện diễn ra tại Bồ Đào Nha, nhưng một số nhân vật làng Gô loa, họ thường cảm thấy không được an tâm, nhất là khi đang có tranh luận về vấn đề cải cách chế độ lương hưu, dĩ nhiên đây là một cách ám chỉ về xã hội Pháp thời nay. Vì đây là một tập truyện theo chủ đề du lịch xuất ngoại, cho nên hình ảnh của du khách Pháp ở nước ngoài khiến chúng tôi cảm thấy thích thú, để phác họa câu chuyện. Cho dù người Pháp được đi nghỉ mát tham quan, nhưng nhiều du khách vẫn thường mắc cái tật hay than van, lắm phàn nàn. Trong tập thứ 41, có một điều khiến chúng tôi luôn mắc cười đó là Obélix không phải là dân nghiền nghệ thuật ẩm thực của Bồ Đào Nha đâu nhé. Xứ này có nhiều món làm với bacalau, tức là món cá tuyết ngâm muối phơi khô, trong khi Obélix lại mê món thịt lụi, xiên lợn rừng. Đọc thêmTruyện tranh: Ở tuổi 65, Astérix vẫn dí dỏm gây cười Với tư cách của một tác giả, FabCaro và Didier Conrad giải thích về nhân vật họ ưa thích nhất trong bộ truyện Astérix và Obélix. FabCaro : Tôi rất thích nhân vật Obélix. Bộ truyện thường xen kẽ những màn hài hước với những pha phiêu lưu. Theo truyền thống, các pha hành động phiêu lưu do Astérix đảm nhiệm, còn các màn hài hước thường thuộc về do Obélix do nhân vật này có một tâm hồn như trẻ thơ, và đó là một nguồn cảm hứng tuyệt vời đối với một tác giả như tôi. Didier Conrad : Tôi thấy mình trong cả ba nhân vật tùy theo từng hoàn cảnh : Astérix, Obélix và trưởng lão Panoramix (tiếng Anh là Getafix) có lẽ là vì tuổi tác. Thời còn nhỏ, tôi cảm thấy mình gần giống với nhân vật Astérix, còn giờ đây lại gần hơn với nhân vật Panoramix, người đã sáng chế và nắm giữ bí quyết thần dược để giúp làng Gô loa kháng cứ lại đội quân hùng mạnh của hoàng đế La Mã. Tập truyện thứ 41 được in 5 triệu bản trong lần phát hành đầu tiên, bằng 19 ngôn ngữ khác nhau và chắc hẳn sẽ được tái bản và in thêm trong trường hợp gặt hái được thành công như những lần trước. Riêng tại Bồ Đào Nha, đợt phát hành đầu tiên đã vượt mốc 100.000 bản, tức cao gấp đôi con số ấn bản thông thường, nhờ biết khai thác cùng một bí quyết : "một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ".
Ra đời 30 năm trước, Những cây cầu quận Madison (The Bridges of Madison County, 1995) để lại dấu ấn khó phai về chuyện tình ngắn ngủi giữa bà nội trợ Francesca và nhiếp ảnh gia Robert. Không gian phim quê mùa, tiết tấu chậm rãi nhưng bùng nổ cảm xúc nhờ màn hóa thân xuất sắc của minh tinh Meryl Streep và bàn tay đạo diễn Clint Eastwood. Tóm tắt truyện phim Bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên (có tựa đề khác là Tình yêu giữa trắng và đen) của nhà văn Mỹ Robert James Waller phát hành năm 1992. Câu chuyện mở ra chuyện tình lãng mạn của Francesca, bà nội trợ Mỹ gốc Ý sống tại miền quê Iowa những năm 1960. Bà đem lòng yêu Robert, một nhiếp ảnh gia tạp chí danh tiếng National Geographic. Robert tình cờ ghé thăm khu vực để sáng tác ấn phẩm ảnh có những cây cầu gỗ mái che tại địa hạt Madison. Chuyện tình chỉ kéo dài bốn ngày nhưng ám ảnh Francesca suốt cả cuộc đời cho đến khi bà qua đời. Tiểu thuyết được coi là một trong những tác phẩm thành công nhất thế kỷ 20 ngang ngửa với Chuyện tình (Eric Segal, năm 1970) với sức tiêu thụ 50 triệu ấn bản toàn cầu. Giới phê bình nhận xét tiểu thuyết này lãng mạn hóa một chuyện tình có thực, tuy nhiên, nhân vật trong tiểu thuyết hoàn toàn hư cấu. Những lựa chọn then chốt Hollywood không thể đứng yên trước sức hút nam châm của tiểu thuyết của Robert James nhằm chế biến thành tác phẩm màn bạc triệu đô. Đáng chú ý, Clint Eastwood đóng ba vai trò chủ đạo: nhà sản xuất, đạo diễn khiêm diễn viên chính cho bộ phim. Clint Eastwood gây bất ngờ nhất khi xoay mình sang thể loại phim không phải thế mạnh vốn có. Ông từng giành giải Oscar cho phim cao bồi Unforgiven (Không dung thứ) năm 1993. Điểm mấu chốt thứ hai, biên kịch Richard LaGraveese cũng là người chắp bút kịch bản cho hàng loạt phim tình cảm ăn khách như The mirror has two faces (Chiếc gương hai mặt), P.S I love you (Tái bút anh yêu em), Paris, Je t’aime (Paris tôi yêu em). Thứ ba, gương mặt “chọn mặt gửi vàng” chính là siêu sao Meryl Streep, từng đoạt 2 giải Oscar (tính tại thời điểm bộ phim ra mắt). Meryl không ngại bất cứ thử thách vai diễn khó khăn nào, cho dù vai diễn Francesca đòi hỏi sự giằng xé nội tâm dữ dội. Ngân sách phim rất khiêm tốn (chỉ 22 triệu đô), ba quyết định then chốt (đạo diễn, biên kịch, diễn viên chính) kèm theo tiếng vang của tiểu thuyết đã giúp nhà sản xuất gặt hái thành công thương mại 182 triệu đôla. Meryl Streep được đề cử Oscar cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất. Bí mật chôn vùi hơn ba thập kỷ Tiết tấu phim rất chậm rãi như hành trình khám phá cuốn hồi ký Francesca ngược thời gian. Mở màn ở thực tại những năm 1990, khi hai người con, Michael và Carolyn đoàn tụ ngôi nhà vùng nông thôn Iowa sau khi bà mẹ Francesca qua đời. Họ thực sự sốc khi biết rằng bà mẹ yêu cầu hỏa táng và rắc tro từ trên cây cầu gỗ Roseman, chứ không phải chôn cạnh người cha Richard quá cố của họ. Bí mật sáng tỏ khi họ khám phá chiếc hộp bí ẩn gồm sổ tay, ảnh chụp Francesca tại cây cầu gỗ và những lá thư của người đàn ông xa lạ có tên Robert Kincaid. Sau đó, phim lội ngược dòng thời gian về năm 1965 với chuyện tình 4 ngày của Francesca với người đàn ông Robert khi cả chồng con đi vắng xa nhà. Cuốn hồi ký mô tả cuộc tình sâu đậm giữa Francesca và Robert, dường như họ muốn bỏ trốn cùng nhau. Một mặt, bà băn khoăn về mối quan hệ lâu dài giữa bà và Robert. Mặt khác, Francesca cảm thấy trách nhiệm với cuộc hôn nhân thiếu cảm xúc, hối tiếc nếu bỏ lại những đứa con vị thành niên và người chồng chung thủy. Sau khi Richard qua đời, Francesca tìm cách liên lạc với Robert nhưng chỉ biết ông không còn làm ở tạp chí National Geographic. Ba năm sau khi chồng bà mất, Robert cũng qua đời và để lại hết kỷ vật cho bà, tro của ông rải xuống sông trên cây cầu Roseman. Câu chuyện cảm động, đầy tính nhân văn, lay động trái tim Michael và Carolyn. Họ thực hiện đúng lời nguyện ước của bà mẹ trên cây cầu nảy nở tình yêu giữa Francesca và Robert. Điểm nhấn cảm xúc và cao trào Đạo diễn Clint Eastwood chọn phong cách cổ điển trong cách kể chuyện và kết thúc. Ông phơi bày được sự khác biệt giữa chồng Richard và người tình Robert chỉ nhờ không khí trên bàn ăn. Một người hầu như chỉ tập trung ăn và một người tìm cách trò chuyện với Francesca. Nhờ vậy, chuyện tình của họ trở nên sống động và thuyết phục nhờ diễn xuất tinh tế của Meryl Streep. Phổ diễn xuất của bà chuyển tải sắc nét của tâm trạng đang yêu và khoảnh khắc xao động gặp lại người tình Robert dưới cơn mưa. Ít người biết rằng Meryl Streep không phải lựa chọn đầu tiên cho vai này. Hai minh tinh người Pháp và Ý, Catherine Deneuve và Isabelle Rosellini từng đến thử vai, cũng được nhà sản xuất ưng ý. Tuy nhiên, Clint Eastwood kiên định mời bằng được Meryl Streep cho vai diễn linh hồn của bộ phim. Tài năng của Meryl Streep không phụ niềm tin của đạo diễn. Ấn tượng nhất phim là trường đoạn Francesca ngồi trên xe trong cơn mưa ngắm Robert cố ý treo sợi dây chuyền bạc như lời cầu hôn. Cái tài của đạo diễn đẩy nhân vật vào sự lựa chọn khắc nghiệt nhất: Bỏ đi hay ở lại ? Đôi tay bà run rẩy muốn mở cửa xe bỏ trốn, nhưng cảm xúc trào dâng khiến bà bật khóc. Lý trí và cảm xúc trong Francesca đạt tới điểm bùng nổ dữ dội. Quyết định ở lại cùng chồng con không phải lựa chọn dễ dàng nhưng đầy tính nhân văn. Bà chọn cái chết hỏa táng và rắc tro cùng với người tình. Đó là câu trả lời muộn màng cho lời cầu hôn của nhiếp ảnh gia Robert. But the closer Robert gets, the clearer he can see that she is crying. And he stops. Without any words, he realizes what taking her with him would mean. With just a glance, he sacrifices her. With their eyes locked in the middle of Main Street - in front of the whole town - they smile and say goodbye. For a moment, I didn't know where I was. And for a split second, the thought crossed my mind that he really didn't want me - that it was easy to walk away. Khi Robert tiến lại gần hơn, anh càng thấy rõ hơn cô đang khóc và anh dừng lại. Với cái nhìn đó, anh đã hy sinh cô ấy. Ánh mắt họ khóa chặt lấy nhau trên giữa con phố, nơi họ mỉm cười và chào tạm biệt. (Francesca tự sự): Thực tại, tôi không thể biết mình đang ở đâu. Trong một giây phút ngắn ngủi, ý nghĩ chợt nảy ra trong đầu tôi rằng anh ấy thực sự không muốn tôi. Có thể dễ dàng bỏ đi vậy sao ? Tính khái quát và thực dụng kiểu Mỹ Hôn nhân có thể là nơi chôn vùi cảm xúc nhưng “miền đất hứa” tình cảm phải đối diện với thực tế khắc nghiệt và sự toàn vẹn. Đạo diễn Clint Eastwood khắc họa được cuộc chiến tranh tâm lý phức tạp của Francesca : không có máu đổ, không có tiếng súng nhưng dai dẳng, đeo bám cả cuộc đời. Cụ thể, bà nội trợ vùng Iowa phải lựa chọn giữa tình cảm và lý trí, giữa gia đình và người tình, giữa trách nhiệm và sự nuông chiều bản thân. Bộ phim phản ánh tính cách Mỹ, sự thực dụng kiểu Mỹ khi tường thuật lại một chuyện tình tuổi trung niên. Họ chỉ được phép chọn một lựa chọn duy nhất giữa muôn vàn lựa chọn. Trên tất cả, họ hiểu được điều quan trọng nhất trong cuộc sống tại từng thời điểm. Tuổi đời 30 năm của Những cây cầu quận Madison giúp khán giả yêu chậm, sống chậm để nhận ra triết lý tinh tế mà đạo diễn gửi gắm. (Theo Variety, Wikipedia, Roger Ebert)
Tại Pháp, các cửa hàng bán mỹ phẩm Hàn Quốc đã phát triển mạnh trong thời gian gần đây : khoảng 50 điểm kinh doanh được khánh thành tại Paris trong năm qua. Đà phát triển này càng được thấy rõ nhân kỳ Hội chợ mỹ phẩm quốc tế « Cosmetic 360 » lần thứ 11, diễn ra hồi trung tuần tháng 10/2025, tại khu vực Carrousel du Louvre ở trung tâm Paris. Trên hơn 300 quầy triển lãm, có đến một phần tư là các công ty liên doanh đến Paris để quảng bá mỹ phẩm Hàn Quốc. Theo ghi nhận của giới chuyên gia Pháp, Hàn Quốc đã trở thành một trong những nước dẫn đầu trong ngành sản xuất mỹ phẩm. Kim ngạch xuất khẩu hàng năm trong lãnh vực này đã vượt hơn 10 tỷ đô la trong năm 2024 và Seoul đặt ra mục tiêu chinh phục toàn bộ thị trường châu Âu. Sở dĩ mỹ phẩm Hàn Quốc trở nên phổ biến là vì sản phẩm có đầy đủ chất lượng nhưng giá vẫn mềm so với túi tiền của khách hàng châu Âu. Hơn nữa, mỹ phẩm xứ Hàn còn thường được gọi là K-Beauty, cũng như điện ảnh (K-Movie), âm nhạc (K-Pop) hay ẩm thực (K-Food) phần lớn được thúc đẩy bởi các mạng xã hội như TikTok hay Instagram, qua các đoạn video ngắn mà hiệu quả. Video trực tuyến khuyến khích người tiêu dùng tìm kiếm những sản phẩm chăm sóc làn da, mà thuật ngữ chuyên ngành gọi là « skincare », giành một vị trí quan trọng trong các dòng mỹ phẩm Hàn Quốc, như theo nhận xét của cô Dara, chuyên viên quản lý chuỗi cửa hàng mỹ phẩm Korean Cosmetics Paris. Dara : Phải công nhận rằng trong thời kỳ hậu Covid, đã có cơn sốt nơi người tiêu dùng đối với các loại mỹ phẩm Hàn Quốc. Cách đây một thập niên, mỹ phẩm Hàn Quốc ít được biết đến và chủ yếu được phổ biến trong giới trẻ yêu chuộng phim ảnh và âm nhạc đến từ Hàn Quốc. Nhưng giờ đây, người ta thực sự chứng kiến sự bùng nổ của K-Beauty trên thị trường Pháp. Các bạn trẻ ở Pháp thích dùng mỹ phẩm Hàn Quốc, vì tính đa dạng của các dòng sản phẩm chăm sóc làn da. Hơn nữa, giá cả mặt hàng cũng phải chăng hơn, hợp với túi tiền của giới trẻ nói riêng, người tiêu dùng nói chung, so với các hiệu mỹ phẩm thời trang lâu đời của Nhật cũng như của Pháp. Trong số những khách hàng quen thuộc của chuỗi cửa hiệu K.C Paris, có cô Elsa, 34 tuổi. Cách đây ba năm, cô khám phá lần đầu tiên dòng mỹ phẩm Hàn Quốc thông qua các mạng xã hội, và kể từ đó, Elsa theo dõi thường xuyên các tài khoản trên mạng chuyên đăng các đoạn video hướng dẫn về cách sử dụng mỹ phẩm Hàn Quốc. Elsa : Mỹ phẩm Hàn Quốc phát triển mạnh phần lớn là nhờ vào các mạng xã hội : chẳng hạn như sau khi được xem video hướng dẫn trên mạng TikTok, tôi đến tìm mua loại mặt nạ collagen để thử xem tác dụng của nó. Đây là loại mặt nạ mà bạn đắp lên mặt trong vòng bốn tiếng đồng hồ và trên nguyên tắc sẽ mang lại cho bạn một làn da rạng rỡ sáng ngời ngay sau khi dùng. Nhiều người bạn khuyên tôi nên dùng thử vài lần trước khi chuyển sang việc dùng hẳn các loại mỹ phẩm Hàn Quốc. Đặc điểm của mỹ phẩm Hàn Quốc là để chăm sóc làn da, bạn có thể tuân theo những « nghi thức » công phu gồm 10 bước khác nhau. Nhưng đối với những người tiêu dùng nào không có nhiều thời gian, bạn vẫn có thể dùng những quy trình đơn giản hơn chỉ cần vài giai đoạn quan trọng như tẩy da mặt, làm sạch lớp trang điểm rồi thoa kem dưỡng da cho làn da thêm tươi sáng, mịn màng. Thành công "thần kỳ" của K-Beauty là do tiếp thị thuần túy ? Có khá nhiều bạn trẻ ở Pháp đã khám phá và dùng thử mỹ phẩm Hàn Quốc sau những chuyến du lịch tại Seoul. Mục tiêu ban đầu của chuyến đi chỉ đơn thuần là tham quan, nhưng sau đó nhiều bạn trẻ ở Pháp như trường hợp của Alice, 24 tuổi, lại đâm ra ghiền nhạc K-Pop, ẩm thực đường phố cũng như mỹ phẩm Hàn Quốc. Alice : Vâng chỉ sau vài lần dùng thử, tôi bắt đầu ghiền các loại mỹ phẩm của Hàn Quốc, cho nên khi về Pháp tôi lại tìm mua các mặt hàng K-Beauty. Không chỉ một mình tôi, mà nhiều bạn khác cùng trang lứa đều bị cuốn hút. Giờ đây, cả nhóm chúng tôi đều là « fan » của mỹ phẩm Hàn Quốc. Ở ngay bên cạnh văn phòng làm việc của chúng tôi, có một cửa hàng chuyên bán mỹ phẩm Hàn Quốc, cho nên hầu như tuần nào, cả nhóm chúng tôi cũng đều rủ nhau đến đây một lần, để mua sắm hoặc dùng thử các sản phẩm mới được tung ra thị trường. Trong cùng một cửa hàng bạn có thể tìm thấy hàng chục loại kem dưỡng ẩm hoặc chống nắng khác nhau. Chúng tôi chủ yếu tìm mua các loại mặt nạ, sữa tẩy trang hay kem dưỡng da, « chống lão hóa ». Và không chỉ có mỹ phẩm dành cho phái nữ. Hàn Quốc đi đầu trong việc phát triển sản phẩm nhắm vào nhiều đối tượng khác nhau trong cùng một gia đình, chẳng hạn như ta có thể thấy có nhiều sản phẩm dành cho phái nam cũng như dành cho trẻ em, ngày càng được phổ biến. Tất nhiên, đối với các em nhỏ, không có nhiều loại kem để làm đẹp làn da mà chủ yếu là các sản phẩm chống dị ứng, dưỡng ẩm, giúp cho làn da bớt nứt nẻ, khô rát ….. Dưới thương hiệu K Beauty, giờ đây có hàng trăm loại mỹ phẩm được xem là có chất lượng nhờ hội tụ các thành phần chính ở một tỷ lệ cao, được xem là bổ dưỡng cho làn da. Trong số này có những sản phẩm độc đáo làm bằng cám gạo (keana rice), có tác dụng làm trắng làn da, xóa tàn nhang, bớt mờ nám. Loại hàm chứa nhiều nhân sâm cũng như vitamine C, có khả năng giữ cân bằng, giảm căng thẳng và bớt nếp nhăn. Loại mỹ phẩm làm với rau má (centella asiatica) hợp với những làn da nhạy cảm, do tính mát dịu, chống dị ứng nên giúp cho làn da bớt mụn, bớt bị khô rát, mẩn đỏ. Ngoài ra còn có các chất như axit hyaluronic có tác dụng dưỡng ẩm, giảm nếp nhăn và căng mịn làn da, các loại tinh chất DNA cá hồi hay chất nhầy ốc sên được cho là những « sáng chế » mới, có khả năng làm cho làn da thêm rạng rỡ, sáng ngời. Thế nhưng, theo bà Isabelle Rousseau, một bác sĩ thẩm mỹ ở Pháp và đồng thời là phó chủ tịch Hiệp hội các bác sĩ chuyên khoa da liễu, hiện vẫn chưa có bằng chứng khoa học cụ thể nào về hiệu quả của những thành phần gọi là « sáng chế mới » như chất nhầy ốc sên đối với làn da con người. Isabelle Rousseau : Vâng, tôi nghĩ rằng mỹ phẩm Hàn Quốc phát triển mạnh mẽ, được phổ biến khắp nơi trước hết là do trào lưu hiện thời. Cho tới nay, vẫn chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào, chứng minh được tác dụng thực sự của các chất gọi là bỗ dưỡng cho làn da. Chẳng hạn như trên thị trường hiện nay có bán rất nhiều loại thuốc viên kết hợp collagen và axit hyaluronic, được quảng cáo là giúp cho làn da căng mịn mà vẫn mềm mại dịu dàng. Vấn đề là theo nghiên cứu gần đây của giới bác sĩ chuyên khoa bệnh viện Lariboisière, cơ thể con người không hấp thụ được các chất như collagen qua đường tiêu hóa, khác với các loại vitamin. Do vậy uống thuốc viên để tăng chất collagen trong cơ thể, chẳng có tác dụng gì, nếu không nói là vô nghĩa. Trong mắt của giới bác sĩ chuyên khoa, có rất nhiều loại mỹ phẩm nói chung, thành công và thu hút nhiều người tiêu dùng trước hết là nhờ vào các đợt tiếp thị hiệu quả, chiến dịch quảng cáo tài tình. Sự thành công thần kỳ của K-Beauty phải chăng phần lớn là nhờ tiếp thị thuần túy ? Dù gì đi nữa, trong vòng chưa đầy hai thập niên (trào lưu K-Beauty bắt đầu trỗi dậy từ năm 2007) Hàn Quốc đã vươn lên thành một trong những nước xuất khẩu mỹ phẩm quan trọng hàng đầu, chỉ sau Pháp, Mỹ, và Đức nhưng vượt trội so với nước Ý. Mục tiêu của Hàn Quốc là lọt vào Top 3 trước năm 2030 và tăng gấp đôi doanh thu toàn cầu, đạt mức 20 tỷ đô la trên thế giới, từ đây cho đến vài năm tới. 
Thời còn trẻ, nhà thiết kế Paul Poiret nổi tiếng không kém gì Coco Chanel. Tạp chí thời trang lừng danh Vogue từng so sánh tài năng của ông ngang hàng với Christian Dior. Nhưng ngày nay, tên tuổi của Paul Poiret lại bị lãng quên, cho dù gương mặt tiên phong của trường phái Art Déco đã có công thay đổi thời trang phái nữ một cách sâu rộng. Tên tuổi của Paul Poiret gắn liền với thời kỳ Belle Époque đầu thế kỷ XX, thời Paris là kinh đô xa hoa, ngập tràn sáng tạo, phù phiếm lễ hội. Xu hướng thời trang thịnh hành lúc bấy giờ là những chiếc váy « lưng ong » đề cao những đường cong bằng chiếc áo corset nịt ngực. Với tư cách là học trò của hai nhà thiết kế lớn thời bấy giờ là Jacques Doucet và Charles Frederick Worth, ông Paul Poiret đã phá vỡ khuôn thước thẩm mỹ này, giúp « tháo gỡ » những ràng buộc trên cơ thể phụ nữ bằng cách thiết kế những kiểu váy với đường thằng đơn giản hơn (kiểu áo Joséphine, vợ của hoàng đế Napoléon). Chiếc áo nịt ngực thắt lưng (corset) nhường chỗ lại cho một dải ruy băng mềm mại, giúp cho phụ nữ đi đứng thoải mái. Trong vai trò của một người tiên phong (nổi danh cùng thời với bà Jeanne Lanvin), nhà thiết kế Paul Poiret đã ý thức rất sớm về tiềm năng của thương hiệu, ngoài trang phục ông cho sản xuất thêm các chai nước hoa, phụ kiện thời trang và nhiều sản phẩm khác. Để vinh danh tài năng này, Viện bảo tàng Nghệ thuật Trang trí ở quận 1, Paris tổ chức một cuộc triển lãm lớn « Paul Poiret :La mode est une fête » (Thời trang như lễ hội) từ đây cho tới trung tuần tháng Giêng năm 2026. Trả lời phỏng vấn RFI ban tiếng Pháp, cô Marie-Sophie Caron de la Carrière trưởng ban điều hành triển lãm và đồng thời là giám tuyển nghệ thuật cho biết đôi nét về thân thế sự nghiệp của ông Paul Poiret. Marie-Sophie Caron de la Carrière: Paul Poiret (1879-1944) là dân Paris chính hiệu, ông sinh trưởng trong một gia đình khá giả, bố ông à một nhà buôn vải cho nên ông đã lớn lên trong thế giới của gấm vóc, lụa là. Từ khi còn nhỏ, ông đã nuôi mộng trở thành một nhà thiết kế thời trang. Sự kiện quan trọng thúc đẩy ông chọn nghề này là khi cùng với song thân, ông đi xem cuộc Triển lãm Toàn cầu tại Paris năm 1889. Ông có kể lại điều này trong quyển hồi ký của mình. Vào lúc ấy, ông khám phá được nhiều nền văn hóa mà không cần phải đi đâu xa : nguyên tắc chính của Triển lãm Toàn cầu là mỗi quốc gia tham dự đều có một không gian triển lãm riêng để giới thiệu những nét hay nhất trong văn hóa nước nhà. Chính điều này đã khơi dậy sự tò mò, cũng như niềm khao khát được đi xa và khám phá những chân trời khác biệt. Những kiểu áo dài caftan của Thổ Nhĩ Kỳ, khăn xếp Ba Tư hay kimono của Nhật Bản đều gợi hứng rất nhiều cho Paul Poiret thiết kế các kiểu áo như váy hình chụp đèn, áo đầm suông, áo lụa rũ xếp. Nơi Paul Poiret, các kiểu áo may thẳng thon dài mềm mại, không còn siết chặt vòng eo khiến cho vóc dáng phụ nữ không còn giống như chiếc đồng hồ cát. Cuộc triển lãm lần này nhằm giúp cho giới trẻ thời nay khám phá (lại) nhà thiết kế thời trang Paul Poiret, thực sự là một nhân vật không may đã bị lãng quên, chính những sản phẩm của thương hiệu này giờ đây cũng không còn tồn tại nữa. Trong cuộc triển lãm này, có trích dẫn câu nói nổi tiếng của nhà thiết kế người Pháp Christian Dior về bậc đàn anh, theo đó ông Paul Poiret đã bước vào ngành thời trang cao cấp để rồi khuynh đảo mọi thứ. Vậy thì ông Paul Poiret đã thay đổi điều gì ? Cô Marie-Sophie Caron de la Carrière, giám tuyển nghệ thuật nhận xét : Marie-Sophie Caron de la Carrière : Theo tôi, ông Paul Poiret đã đem lại hai sự thay đổi lớn cho làng thời trang. Đầu tiên hết, ông đã hoàn toàn biến đổi vóc dáng của phụ nữ : quan niệm về nữ tính không chỉ được gắn liền với những đường cong trên cơ thể của người đàn bà. Từ khi mới vào nghề, ông đã muốn khuynh đảo những khuôn thước có sẵn cũng như những người bạn họa sĩ của ông đã từng làm với trường phái « dã thú ». Để phá vỡ truyền thống của chiếc corset, ông đã trao dồi tay nghề với Jacques Doucet và sau đó nữa là với Charles Frederick Worth. Hiệu thời trang « House of Worth » chuyên phục vụ giới quý tộc châu Âu hoặc giới thượng lưu ở Mỹ thời bấy giờ. Các kiểu váy xòe, với nhiều thước vải khiến cho phụ nữ không dễ chuyển động, đứng ngồi. Việc lược bỏ các chi tiết rườm rà, thiết kế từ những năm 1910 những đường nét vuông vức thẳng đứng, khiến cho Paul Poiret trở thành gương mặt tiên phong của trường phái Art Déco, thịnh hành từ năm 1925. Yếu tố quan trọng thứ nhì là Paul Poiret không những thay đổi hình dáng của phụ nữ mà còn thay đổi luôn vai trò của một nhà thiết kế thời trang. Nhà thiết kế không còn đơn thuần may quần áo theo đơn đặt hàng, mà thực sự góp phần làm cho cuộc sống tươi đẹp hơn. Ngoài thiết kế trang phục, Paul Poiret còn thành lập một công ty chuyên về trang trí nội thất, sản xuất nước hoa và mỹ phẩm. Đây là một thay đổi lớn trong ngành thời trang, khi nhà thiết kế có một tầm nhìn và lối tiếp cận toàn diện hơn về phụ nữ cũng như môi trường sống của họ. Paul Poiret đã sáng tạo ra điều mà thời nay được gọi là « liefestyle » (có nghĩa là lối sống hay phong cách sống). Các nhà thiết kế sau đó như Giogio Armani hay Ralph Lauren đều nâng lifestyle lên hàng nghệ thuật, rồi trở thành nhưng vị đại sứ toàn cầu cho gu thẩm mỹ thời trang. Thời trang không còn đơn thuần là quần áo, mà còn thể hiện một lối sống bao gồm cả thói quen và sở thích, từ chuyện ăn uống đến chơi thể thao hay giải trí. Chỉ riêng về điểm này có thể nói là ông Paul Poiret là một nhân vật tiên phong, đi trước thời của mình trước ngày đời của các thuật ngữ như lifestyle (phong cách sống) hoặc marketing (tiếp thị). Nhân cuộc triển lãm tại Bảo tàng Nghệ thuật trang trí ở Paris, nhiều mùi nước hoa đã được tái tạo hơn một thế kỷ sau lần phát hành đầu tiên, như mùi hương Rosine mang tên con gái của Paul Poiret hay là kiểu chai nước hoa « Le Fruit Défendu » (Trái cấm) ăn khách vào đầu thế kỷ XX. Paul Poiret đã vào nghề thiết kế gần 10 năm trước Chanel. Ngoài đời, hai công ty này là đối thủ cạnh tranh, với phong cách thời trang hoàn toàn khác biệt. Câu hỏi đặt ra là tại sao Chanel nay vẫn là một thương hiệu toàn cầu trong khi Paul Poiret giờ đây lại không còn tồn tại ? Marie-Sophie Caron de la Carrière : Một hiệu thời trang thực sự tồn tại khi nhà thiết kế có được một sự hậu thuẫn vững chắc về mặt tài chính. Chẳng hạn như hiệu Yves Saint Laurent tồn tại được lâu nhờ vào ông Pierre Bergé. Còn trong trường hợp của hiệu Chanel, gia đình Wertheimer, qua thỏa thuận hợp tác với Chanel, đã giúp cho thương hiệu trải qua bao sóng gió. Về phía Paul Poiret, ông đã không lập quan hệ đối tác với bất cứ nhà đầu tư nào, mục đích của ông là duy trì tính độc lập, quyền kiểm soát công ty, để làm theo ý mình. Vấn đề ở đây là Paul Poiret đã không trông rộng nhìn xa : do không đủ nguồn tài chính, công ty Paul Poiret đã sụp đổ khá nhanh sau khi Đệ nhất Thế chiến bùng nổ, thương hiệu này rốt cuộc đã biến mất. Một trong những điểm thành công trong cuộc triển lãm về Paul Poiret, là ban tổ chức đã tạo ra được một cuộc đối thoại giữa các tác phẩm thời xưa với các sáng tạo thời nay, cho thấy được tầm ảnh hưởng của ông lên thế hệ nghệ sĩ lừng danh đi sau kể cả Elsa Schiaparelli, Yves Saint-Laurent hay Castelbaljac. Các bộ sưu tập của họ từng gợi hứng ít nhiều từ những tác phẩm của bậc tiền bối. Thực tế cho thấy thương hiệu này không còn tồn tại, nhưng trước sự đóng góp của Paul Poiret cho làng thời trang, thủ đô Paris ,tuy không thể trả lại cho hoàng đế César một ngai vàng, nhưng vẫn khôi phục phần nào ánh hào quang của một tài năng không may bị chìm vào quên lãng.
Chính với nhạc phẩm kinh điển « Jamaica Farewell » (Giã từ Jamaica), Gerard Joling mở màn vòng lưu diễn châu Âu vào mùa thu 2025. Nam danh ca người Hà Lan đã chọn sân khấu làm nơi ăn mừng với giới hâm mộ 40 năm sự nghiệp. Trong số những giai điệu ăn khách của ông, một số bài từng được đặt thêm lời Việt như « Cho em về miền nắng ấm » của nhạc sĩ Phú Quang hay « Lời yêu thương » của tác giả Đức Huy. Năm nay 65 tuổi, Gerard Joling nổi tiếng tại Hà Lan từ giữa những năm 1980, ban đầu như một ca sĩ và sau đó như một người dẫn chương trình truyền hình. Sinh trưởng tại thị trấn Schagen, (phía bắc Hà Lan) cách thành phố Amsterdam hơn 60 cây số, Gerard Joling ban đầu vào nghề sân khấu như một diễn viên múa, xuất hiện trong nhiều video nhạc pop của các nhóm nhạc trẻ ăn khách tại Hà Lan thời bấy giờ như Earth & Fire hay Dolly Dots. Dịp may đến với ông vào năm 1985, nhờ lọt vào vòng chung kết chương trình thi hát SoundMixshow của Henny Huisman, Gerard Joling ký được hợp đồng ghi âm chuyên nghiệp đầu tiên. Tuy không về đầu cuộc thi, nhưng Gerard Joling sau đó lại nổi tiếng hơn cả giọng ca đoạt giải nhất. Hai đĩa đơn ghi âm vào năm 1985, bao gồm « Love Is In Your Eyes » (Tình yêu trong đôi mắt) và « Ticket To The Tropics » (Về miền nắng ấm) giúp cho Gerard Joling từng bước chinh phục hạng nhất thị trường Hà Lan.  Bốn năm sau khi thành công tại nước nhà, Gerard Joling thực hiện bước đột phá trên thị trường quốc tế với album phòng thu thứ tư. Tập nhạc « No more bolero's » (1989) thành công lớn tại Hà Lan cũng như ở nước ngoài. Album này đứng đầu bảng xếp hạng tại nhiều nước châu Âu trong nhiều tuần liên tục. Sau khi được mời làm giọng ca đại diện cho Hà Lan nhân Cuộc thi hát Truyền hình châu Âu Eurovision vào năm 1988, Gerard Joling chinh phục thêm thị trường châu Á vào đầu thập niên 1990, trở thành nghệ sĩ Hà Lan ăn khách nhất ở nước ngoài. Nhân một cuộc phỏng vấn gần đây trên kênh truyền hình RTL, Gerard Joling cho biết là tính đến nay anh đã bán được hơn 30 triệu đĩa nhạc, trong đó có một nửa là nhờ vào thành công trên các thị trường châu Á từ cuối những năm 1980.  Song song với nghề ca hát, Gerard Joling càng thêm nổi tiếng một thập niên sau đó nhờ dẫn nhiều show truyền hình, hay làm giám khảo trong các cuộc thi tuyển lựa tài năng mới như « Popstars », Giọng ca hay nhất Hà Lan « The Voice Senior of Holland » hay Ca sĩ mặt nạ « The Masked Singer » …Ban đầu khởi nghiệp hát solo, ông còn nổi tiếng nhờ hợp tac với nhiều tên tuổi khác trong làng giải trí : trong đó thành công nhất vẫn là ban nhạc De Toppers được thành lập lần đầu tiên vào năm 2005, cách đây vừa đúng hai thập niên.  Khi Gerard Joling hợp tác với hai ca sĩ trứ danh khác là René Froger và Gordon Heuckeroth, kế hoạch ban đầu của họ là tổ chức một đêm nhạc chủ đề với những ca khúc nổi tiếng, ba ca sĩ hát luân phiên, tiếp sức cho nhau và thường chỉ biểu diễn một lần duy nhất trên sân vận động. Thế nhưng trước sự thành công vang dội, vượt ngoài mọi dự đoán, nhóm De Toppers tổ chức biểu diễn ở quy mô lớn thường xuyên hơn.  Các đêm nhạc của họ trở thành điểm hẹn hàng năm của giới yêu nhạc nhẹ. Đội hình của nhóm đã thay đổi sau hai thập niên hoạt động và hiện bao gồm Gerard Joling, René Froger, Jeroen Van Der Boom và Jan Smit, chứ không còn có sự tham gia của Gordon Heuckeroth. Mặc dù khá bận rộn với lịch diễn tại châu Âu, nhưng Gerard Joling vẫn sẽ có mặt tại buổi trình diễn của nhóm De Toppers vào mùa Giáng Sinh năm 2025 trên sân vận động thành phố Rotterdam.  Trong vòng 40 năm sự nghiệp, Gerard Joling đã ghi âm khoảng 20 album solo và hàng chục album cộng tác với nhiều nghệ sĩ khác. Một trong những tập nhạc hay nhất của ông mang tựa đề « Nostalgia » (Hoài niệm) khi ông thể hiện lại những giai điệu kinh điển trữ tình bằng chất giọng tenor ấm áp du dương của mình. Những bài ca nồng ấm kỷ niệm, từ  « Unchained Melody » giai điệu tái sinh cho đến « Love Story»  muôn thuở một chuyện tình.
Mùa thu theo truyền thống là mùa tổ chức hội chợ rượu vang tại Pháp. Trong vòng một tháng, các chuỗi siêu thị ở Pháp đều có những chương trình khuyến mại hấp dẫn như mua bốn chai tặng hai, hay mua hai tặng một. Vào lúc mức sản xuất vẫn còn cao trong khi đà tiêu thụ lại giảm sút, hội chợ mùa thu 2025 phần nào giúp ngành sản xuất rượu vang Pháp, bù đắp những thiệt hại, giải quyết hàng tồn kho. Cuộc khủng hoảng rượu vang không chỉ liên quan tới Pháp mà còn diễn ra tại nhiều nước khác trên thế giới. Theo Tổ chức quốc tế về Nho và Rượu vang OIV, tính từ hơn 6 thập niên qua, chưa bao giờ sản lượng rượu vang toàn cầu xuống đến một mức thấp như vậy : 237 triệu hectolit trong năm 2024 trên thế giới, tức giảm 2% so với năm 2023 và giảm 16% so với một thập niên trước.  Nhìn chung, các nhà sản xuất rượu vang Pháp đang phải đối mặt với một tình huống khó khăn. Ngoài thời tiết bất lợi và các loài côn trùng, nấm mốc khiến ngành trồng nho bị mất mùa, các nhà sản xuất còn phải đối mặt với hiện tượng người tiêu dùng đang dần thay đổi thói quen : người lớn tuổi ngày càng ít uống rượu vang, trong khi nhiều bạn trẻ ở Pháp thích dùng bia hay các loại thức uống ít có cồn. Trả lời phỏng vấn RFI ban tiếng Pháp, ông Raphaël Schirmer, giảng viên chuyên về rượu vang tại Đại học Bordeaux Montaigne, cho biết cuộc khủng hoảng rượu vang trong những năm gần đây không hẳn là một tin xấu đối với mọi người. Raphaël Schirmer : Tôi không nghĩ đó nhất thiết là một tin xấu. Thị trường quốc tế đã chịu nhiều áp lực mạnh do phát triển thiếu đồng đều trong những năm gần đây. Chúng ta đang ở trong giai đoạn sản xuất hàng năm quá mức. Vì vậy, điều này chủ yếu gây bất lợi cho các nhà sản xuất lớn, nhưng lại là một cơ hội thuận lợi cho những nhà sản xuất nhỏ. Tuy họ sản xuất rượu vang ít hơn nhưng với chất lượng cao hơn, đáp ứng được xu hướng hiện thời : người tiêu dùng bớt uống rượu vang nhưng lại chịu mua rượu ngon với giá cao hơn. Nhìn chung, trên thị trường hiện giờ, mức cung lúc nào cũng cao hơn mức cầu. Sản lượng tại Pháp vượt xa mức tiêu thụ. Đó là trường hợp điển hình của vùng Bordeaux.Từ vài năm qua, vùng Bordeaux đều sản xuất dư thừa trong khi nhu cầu tiêu dùng ngày càng giảm xuống. Cuộc khủng hoảng vì thế ngày càng trầm trọng, nhiều công ty kinh doanh ở Bordeaux không bán được rượu, dẫn đến tình trạng nhổ bớt các gốc cây nho (trên một diện tích 10.000 hécta) để điều chỉnh mức sản xuất hàng năm. Đây là một thời kỳ hết sức khó khăn đối với những gia đình chuyên trồng nho để làm rượu ở Pháp. Do bị tác động mạnh mẽ, nên công ty kinh doanh rượu vang cần được hội đồng cấp vùng giúp đỡ. Trong một số trường hợp, đó không còn đơn thuần là một vấn đề kinh tế mà còn liên quan đến truyền thống và di sản. Chính quyền có thể tài trợ giúp một công ty chuyển hoạt động sang một ngành khác, nhưng rất khó thể nào thuyết phục một gia đình sống  nhờ nghề trồng nho làm rượu trong nhiều thế hệ, từ đời này sang đời nọ, phải đổi nghề, vì đó là lẽ sống của họ.  Về phần mình, ông Valentin Morel là chủ nông trại Les Pieds sur Terre ở vùng Jura và đồng thời là tác giả quyển sách Un autre vin nói về việc sản xuất rượu vang tự nhiên (nhà xuất bản Flammarion). Theo ông, cuộc khủng hoảng hiện nay cũng đặt lại vấn đề thâm canh, năng suất thu hoạch cao trong khi mức tiêu dùng lại giảm. Valentin Morel : Trước những khó khăn hiện thời, thiết nghĩ chúng ta cũng nên đặt câu hỏi, phải chăng đã đến lúc chúng ta nên giảm bớt việc sản xuất rượu vang, nhưng với chất lượng cao hơn. Đây không phải là một xu hướng nhất thời mà lại kéo dài từ nhiều năm qua trong xã hội : dù muốn hay không người tiêu dùng ở Pháp ngày càng bớt uống rượu vang. Câu hỏi đặt ra vẫn là : thay vì tập trung sản xuất ồ ạt, chúng ta có nên quay lại với một nền nông nghiệp chừng mực, một ngành sản xuất nuôi sống con người, có được một chút dư dã thì càng tốt, nhưng không phải lúc nào cũng phải chạy theo lợi nhuận. Hầu hết các vùng từng đầu tư nhiều, để có được năng suất cao như ở Chilê, Tây Ban Nha, Ý hay Pháp đều gặp khó khăn, các nhà sản xuất giờ đây phải tính đến những giải pháp thay thế chứ không còn có thể dựa vào doanh hu của ngành trồng nho. Trước câu hỏi làm thế nào để cân bằng lại sản lượng khi mức tiêu thụ trên thế giới nhìn chung đều đang giảm xuống, ông Raphaël Schirmer, giảng viên trường Đại học Bordeaux Montaigne, nhận xét : Raphaël Schirmer : Trước hết, tôi xin nói rõ rằng mức tiêu thụ đang giảm về mặt khối lượng, nhưng lại không giảm về mặt doanh thu. Điều đó có nghĩa là ở Pháp, chúng ta uống rượu vang ít hơn, nhưng bù lại, các nhà kinh doanh vẫn bán được các chai rượu ngon với giá cao hơn. Họa người phúc ta ? Cuộc khủng hoảng của một số vùng sản xuất rượu vang cũng tạo cơ hội cho một nhà sản xuất khác ở Pháp bán được rượu vang được xem là có chất lượng. Vào những năm 1950, mọi gia đình thực sự uống rất nhiều rượu vang hầu như trong mỗi bữa ăn. Hiện thời, xu hướng tiêu dùng này đã thay đổi. Cách tiêu thụ rượu vang nay thường mang tính lễ hội, điều đó có nghĩa là người Pháp thích dùng bữa ăn với gia đình, bạn bè, và khi có dịp, họ uống các loại rượu vang ngon, đắt tiền và có chất lượng hơn, so với những gì người Pháp uống vào giữa thế kỷ XX. Trong giới trẻ, rượu vang vẫn được coi là một sản phẩm đắt hơn, ít phù hợp với túi tiền của họ, điều đó giải thích vì sao giới trẻ uống nhiều bia hơn rượu vang so với các thế hệ trước. Nhưng bù lại, khi mọi người tổ chức ăn tối tại nhà với bạn bè, người thân, hoặc trong các bữa tiệc cuối năm, đa số người tiêu dùng thích chọn các chai rượu vang hảo hạng hay các hiệu sâm panh ngon. Có thể nói là ở Pháp, rượu vang vẫn gắn liền với một số truyền thống lễ lạc, người ta nói khui rượu ăn mừng, chứ không ai nói khui bia ăn mừng. Làm thế nào để thích ứng với biến đổi khí hậu ? Thời tiết thất thường khiến ngành trồng nho dễ bị mất mùa. Trong khi 80% sản lượng rượu vang trên thế giới hiện nay đến từ những nước có khí hậu ôn hòa, đặc biệt là ở vùng Địa Trung Hải. Chuyên gia Raphaël Schirmer giải thích : Raphaël Schirmer : Biến đổi khí hậu vẫn là mối đe dọa đối với các nhà trồng nho, buộc ngành sản xuất thử nghiệm một số giải pháp. Một trong những biện pháp đầu tiên là tránh cho cây nho tiếp xúc quá nhiều với ánh nắng. Các nhà trồng nho lập những khu vườn nhìn về hướng bắc, điều này sẽ giảm lượng ánh nắng trực tiếp so với các sườn đồi hướng nam. Ngoài ra, còn có câu hỏi về các giống nho được trồng. Đôi khi việc tuyển lựa giống nho đến từ các nước Nam Âu, giúp cho vườn nho chịu nắng, chịu khô tốt hơn. Chẳng hạn như tại vùng Bordeaux, Viện nghiên cứu Nho và Rượu vang đang trồng thử một loài nho Bồ Đào Nha (touriga nacional), để xem giống nho này có thể thích nghi với khí hậu của vùng Bordeaux như thế nào. Còn theo nhà sản xuất rượu vang vùng Jura Valentin Morel, bên cạnh những đề xuất của ngành nông nghiệp truyền thống, việc phát triển các kỹ thuật canh tác bền vững cũng như trồng nho theo phương pháp tự nhiên là một giải pháp khả thi, có thể giúp ứng phó với mối đe dọa biến đổi khí hậu trong những năm tới.  Valentin Morel : Cho dù tôi ủng hộ ngoành nông nghiệp bền vững, nhưng theo tôi các biện pháp trồng trọt tự nhiên là một trong những câu trả lời, chứ chưa phải là giải pháp tối ưu. Tôi nghĩ rằng để đối phó với khủng hoảng, ngành trồng nho nên kết hợp cùng lúc nhiều phương pháp. Đầu tiên hết chúng ta nên hỗ trợ các nhà trồng nho đang gặp khó khăn, giúp họ thay đổi dần các phương thức canh tác. Biện pháp thứ nhì là kết hợp các kỹ thuật nông-lâm : một mặt gieo mầm để trồng thêm nhiều loài rau quả, hạt đậu. Các loài cây mọc sát đất này giống như một tấm thảm « thực vật » che nắng, giúp cho mặt đất không bị quá khô hay quá nóng. Ngoài ra, trồng cây ở xung quanh vườn nho để tạo thêm bóng râm, giúp duy trì độ mát và độ ẩm. Một điều quan trọng khác nữa là việc lựa chọn giống nho : nên chọn các giống nho có khả năng kháng bệnh và chịu đựng thời tiết khắc nghiệt. Các nhà sản xuất rượu ở vùng Jura như tôi đều nhận thấy rằng hai nước láng giềng Đức và Thụy Sĩ đều tiến bộ hơn nhiều so với nước Pháp. Các giống nho có khả năng kháng bệnh cao thường là những gốc nho xuất phát từ quá trình cấy ghép, lai giống. Đức và Thụy Sĩ thường ghép các giống nho của châu Âu với các giống nho đến từ châu Mỹ. Có lẽ cũng vì thế, các gốc nho "lai giống này" có khả năng kháng cự tốt hơn vì phần lớn các loại bệnh dễ lan truyền lại đến từ châu Mỹ, trong đó có các bệnh do côn trùng (phylloxera) hoặc do các loài nấm (mildiou hay odium) gây ra . Theo nhận xét của các chuyên gia, việc trồng các gốc nho "lai giống" cũng ít gây ô nhiễm bởi vì các nhà sản xuất không cần phải dùng nhiều chất hóa học để bảo vệ mùa màng, đề phòng hoặc diệt bệnh. Trong tương lai, đây là một trong những giải pháp hữu hiệu và khả thi. Việc chọn các giống nho có khả năng kháng cự, giúp giảm bớt việc dùng thuốc trừ sâu, bảo vệ đất canh tác và rượu vang được sản xuất một cách tự nhiên hơn. Trong số các giải pháp để bảo vệ ngành trồng nho, việc kết hợp các kỹ thuật canh tác nông-lâm và sử dụng các gốc nho lai giống vẫn là những biện pháp ít tốn kém, song song với việc duy trì sản xuất rượu vang ngon, ở một mức hợp lý, phải chăng.
Trong số 20.000 người Việt Nam được đưa đến Pháp làm việc trong giai đoạn 1940-1944, khoảng 4.000 được đưa đến làm việc tại nhà máy thuốc súng ở Bergerac, sau đó bị đưa đi làm thuê trong các trang trại quanh vùng sau khi chính phủ Vichy hợp tác với Đức. Họ sống như bị giam lỏng trong trại, thiếu ăn, bệnh tật do điều kiện sống khổ cực, bị phân biệt đối xử. Họ bị kẹt ở "Mẫu quốc" vì cuộc kháng chiến chống Pháp nổ ra ở Việt Nam. Cuộc sống của họ được ghi lại trong khoảng 1.000 bức ảnh của Robert Bondier, ông chủ một tiệm ảnh ở Bergerac trong thập niên 1930-1970. Lần đầu tiên, những bức ảnh này được giới thiệu trong triển lãm "Từ Mêkông đến sông Vézère, những người bị lãng quên trong lịch sử : Lính thợ Đông Dương ở Dordogne 1940-1948" (Du Mékong à la Vézère, les oubliés de l’Histoire : Travailleurs indochinois en Dordogne 1940-1948). Đây là một trong bốn công trình được sử gia Pierre Daum, nhà báo của nguyệt san Le Monde Diplomatique, và ông Michel Lecat, hiện sở hữu bộ sưu tập ảnh của ông nội Robert Bondier, thực hiện để những người lính thợ Đông Dương không còn bị quên lãng trong lịch sử. Công trình thứ hai là gắn bia ghi công 62 người lính thợ Đông Dương qua đời ở Bergerac, được tổ chức ngày 10/10/2025. Sử gia Pierre Daum đã dành cho RFI Tiếng Việt một buổi phỏng vấn về chủ đề này. RFI : Khoảng 4.000 người Việt Nam đã được đưa đến Bergerac ở Périgord từ năm 1940 đến năm 1944. Vậy trong bối cảnh nào và tại sao họ lại đến Pháp, đặc biệt là ở Périgord và Bergerac? Sử gia Pierre Daum : Năm 1939, khi Pháp tham chiến tranh, chính quyền thực dân Pháp đã tuyển mộ, tự nguyện hoặc cưỡng bức, 20.000 nông dân Việt Nam từ tất cả các làng mạc ở nước Việt Nam thuộc địa. Những người này được đưa lên thuyền, đến Marseille, và ở đó họ được phân bổ khắp nước Pháp đến các nhà máy vũ khí, đặc biệt là các nhà máy thuốc súng. Ở Bergerac, từ một thế kỷ qua đã có một nhà máy thuốc súng rất lớn, và đó là lý do tại sao 4.000 người trong số họ được đưa đến nhà máy thuốc súng Bergerac. Đọc thêm"Lính thợ Đông Dương" : Những người lính thầm lặng tại Pháp trong Thế Chiến II RFI : Vậy họ làm những công việc gì ở Bergerac? Pierre Daum : Khi họ đến, vì là nông dân nên công việc giao cho họ ở nhà máy thuốc súng cũng khá đơn giản, chỉ là nạp thuốc súng vào vỏ đạn. Công việc này tuy đơn giản nhưng lại rất nguy hiểm và gây tổn thương cho da rất nhiều vì thuốc súng rất khó chịu. Vào tháng 06/1940, quân đội Pháp thua quân đội Đức, nên tất cả các nhà máy sản xuất thuốc súng ở Pháp đều đóng cửa. Sau đó, những người này bị giữ lại nhiều năm trong một trại ở Bergerac, và Nhà nước Pháp cho họ đi làm thuê ở các trang trại hoặc doanh nghiệp nhỏ, kể cả những doanh nghiệp chặt gỗ và biến thành than củi, những nhà thu hoạch hạt dẻ, và trong các vườn nho vì Dordogne cũng là vùng sản xuất rượu vang. Và đúng là họ đã tìm được công việc phù hợp hơn với xuất thân nhà nông của họ, chủ yếu là trồng lúa. Ở Dordogne không có ruộng lúa nhưng nhiều đồng hương của họ trồng lúa nước ở vùng Camargue, còn ở Dordogne, công việc tập trung vào cây nho, hạt dẻ và gỗ nhiều hơn. RFI : Ông từng nhấn mạnh là lính thợ Đông Dương bị đối xử bất công, bị ngược đãi ở Bergerac. Tại sao lại có sự phân biệt đối xử đó và tại sao họ phải sống trong những điều kiện như vậy? Pierre Daum : Người lao động Đông Dương ở Bergerac, cũng giống như mọi nơi khác ở Pháp, đều trong tình trạng bị áp bức thuộc địa ngay trên đất Pháp. Đó là tình trạng áp bức thuộc địa, phân biệt chủng tộc thuộc địa tương tự như những gì họ đã trải qua ở Việt Nam. Ngoại trừ ở đây, họ được đưa đến Pháp, và ví dụ tại Bergerac, họ bị nhốt trong trại. Họ có thể ra ngoài vài giờ mỗi ngày và phải nằm dưới quyền điều hành của một đội quản lý Pháp, thường bao gồm các sĩ quan và hạ sĩ quan từ quân đội thuộc địa ở Đông Dương, những người tin rằng họ có thể làm bất cứ điều gì họ muốn, giống như lính Pháp tin rằng họ có thể làm bất cứ điều gì họ muốn ở Việt Nam. Vì vậy, ngay khi một người Việt Nam chỉ trích chỉ huy của họ hoặc phàn nàn về việc không được ăn uống đầy đủ, họ sẽ bị đánh bằng gậy. Thậm chí bên trong trại Bergerac còn có một hầm ngục, và ít nhất một nửa số người Việt Nam ở Bergerac đã bị nhốt trong hầm ngục này hàng tuần liền. Ngoài ra phải kể đến một điều rất quan trọng, đội quản lý Pháp, trong suốt những năm đó, đã không ngần ngại ăn cắp lương thực dành cho những người Việt Nam này. Vì vậy, những người Việt Nam này bị đói thực sự. Còn các dãy nhà thì không hề được sưởi ấm, nên rất, rất lạnh. Kết quả là vì đói, lạnh, bắt nạt, áp bức, số người chết bên trong trại Bergerac cao gấp bốn lần so với người dân Pháp ở thị trấn Bergerac. Đọc thêmPháp : Bảo tồn ký ức lính thợ Đông Dương trong Thế Chiến II RFI : Thứ Sáu ngày 10/10/2025, thành phố Bergerac khánh thành một tấm bia tưởng niệm 62 lính thợ Đông Dương. Tại sao lại là 62 người? Phải chăng họ bị lãng quên trong lịch sử của vùng và lịch sử nước Pháp? Pierre Daum : Như tôi đã nói, tỷ lệ tử vong trong trại Bergerac cao gấp bốn lần so với bên ngoài. Vì vậy, những người đàn ông bị bệnh, và tình trạng quá tải đã khiến bệnh tật lây lan trong cộng đồng lính thợ Đông Dương, đặc biệt là bệnh lao. Hầu hết những người bị bệnh được đưa đến các bệnh viện lớn ở Bordeaux và Marseille, và trên thực tế, nhiều người đã chết ở Bordeaux và Marseille. 62 người trong số họ đã chết ở Bergerac. Ban đầu, họ được chôn cất tại một nghĩa trang, tên là nghĩa trang Pont Saint-Jean. Mộ của họ rất đẹp, tôi đã tìm được nhiều tấm ảnh chụp những ngôi mộ đó ở nghĩa trang này. Năm 1972, chính quyền thành phố Bergerac cần phải lấy lại không gian trong nghĩa trang đó nên các nhân viên thành phố đã đào tất cả các ngôi mộ lên. Họ đặt hài cốt của 62 người đàn ông này gọn gàng trong những chiếc hộp gỗ nhỏ, có đánh số và lập danh sách với số hiệu và tên của 62 người. Sau đó, 62 chiếc hộp được chuyển đến một nghĩa trang khác ở Bergerac, nơi có một lăng mộ Đông Dương tưởng niệm những người đã chết trong Thế Chiến I. Và 62 chiếc hộp đó được đặt dưới lăng mộ này. Tiếc là mọi người đã quên chúng, không ai nghĩ đến việc viết tên 62 người đã khuất lên trên lăng mộ đó để chúng ta nhớ rằng có 62 người yên nghỉ bên dưới. Khi tôi bắt đầu nghiên cứu cách đây 3 năm, tôi phát hiện ra câu chuyện này. Tôi đến gặp chính quyền thành phố Bergerac, nói với họ : “Từ 70 năm qua, có 62 người Việt Nam được chôn cất ở thành phố, nhưng không ai biết, không có tấm bia nào, không có gì cả. Họ đã bị lãng quên”. Chính quyền thành phố Bergerac đã nói với tôi là nếu tôi cung cấp danh sách chính xác tên của 62 người, họ sẽ mời một nhà chuyên nghiệp khắc tên 62 người quá cố lên một tấm bia đá cẩm thạch và sẽ đặt bia ở một vị trí nổi bật. Cho nên, thứ Sáu ngày 10/10, chúng tôi sẽ khánh thành tấm bia cẩm thạch để tưởng nhớ 62 người lính thợ Đông Dương ở Bergerac. RFI : Khi chiến tranh kết thúc, những người lao động Đông Dương khác có được hồi hương về Việt Nam không? Chuyện gì đến với họ? Pierre Daum : Khi Thế Chiến kết thúc, vào năm 1945, tất cả những người bị kẹt lại ở Pháp, bị giam cầm ở Pháp và ở Bergerac trong 5 năm, chỉ có một mong muốn duy nhất : được trở về nhà. Và họ chờ chính phủ Pháp tổ chức các chuyến hồi hương. Nhưng chính vào thời điểm đó, nhân dân Việt Nam đã nổi dậy chống lại chủ nghĩa thực dân Pháp, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh. Phản ứng của chính phủ Pháp, như chúng ta đã biết, là không chấp nhận nền độc lập của Việt Nam, như Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam đã yêu cầu. Tất cả tàu thuyền từng được lên kế hoạch để đưa những người lao động Đông Dương hồi hương cuối cùng lại bị quân đội Pháp trưng dụng để đưa quân lính đến đàn áp khát vọng độc lập của nhân dân Việt Nam. Vì vậy, những người lao động Đông Dương sẽ phải chờ thêm bốn năm nữa, tức là đến năm 1948, để cuối cùng, chính phủ Pháp bắt đầu tổ chức tàu thuyền đưa họ về Việt Nam. Quá trình hồi hương mất một thời gian dài, bắt đầu vào cuối năm 1948 và kết thúc vào năm 1952. Và trong số 20.000 người ban đầu được điều động đến Pháp vào năm 1939-1940, khoảng 16.000 người trở về, 1.000 người trong số họ đã chết, như tôi đã đề cập và từ 2.000 đến 3.000 người quyết định ở lại Pháp. Lý do chính là vì họ đã gặp một phụ nữ Pháp và bạn gái của họ mang thai. Phần lớn lúc đó là họ chưa kết hôn. Ở Pháp trong thập niên 1940, khi bạn gái mang thai, đó thực sự là một bi kịch. Vì vậy, hầu hết những người đàn ông đó đã đưa ra lựa chọn đau đớn là không trở về Việt Nam để ở lại Pháp làm trọng trách làm cha. Có khoảng 2.000 đến 3.000 gia đình Pháp-Việt được hình thành ở Pháp. Tôi biết rất nhiều, rất nhiều trong số họ. Và trong hầu hết các gia đình, con đầu lòng được sinh ra trước khi kết hôn. Sau khi đứa bé chào đời, cha mẹ đã làm giấy tờ hợp lệ và họ kết hôn, có thêm rất nhiều con. Đó là thường là những gia đình khá đông con. Đọc thêmNhững người Việt giúp cải tiến gạo Pháp ở Camargue trong Thế Chiến II RFI : Ông và ông Michel Lecat đang thực hiện một dự án lớn về ký ức của những người lính thợ Đông Dương ở Dordogne. Xin ông cho biết thêm đôi chút về dự án này! Pierre Daum : Michel Lecat là người Pháp đến từ Bergerac, ông đã nghỉ hưu. Ông nội của ông ấy là Robert Bondier, một nhiếp ảnh gia ở Bergerac. Ông Bondier có một cửa hàng ảnh trong 50 năm. Sau khi ông nội của ông qua đời, Michel Lecat đã phát hiện ra 150.000 bức ảnh hoặc phim âm bản trên gác xép của cửa hàng, ghi lại toàn bộ cuộc sống ở Bergerac từ năm 1930 đến năm 1970. Và trong số 150.000 bức ảnh đó, có 1.000 bức ảnh có người Việt Nam và đó là những người lính thợ Đông Dương, hầu hết bị ép đến đến Bergerac vào năm 1940. Họ chỉ có vài giờ tự do mỗi tuần, và nhiều người trong số họ đã đến gặp ông của Michel Lecat để chụp ảnh với ý định sau đó sẽ gửi bức ảnh này về Việt Nam để trấn an gia đình, bởi vì dĩ nhiên là gia đình họ rất lo lắng cho người con đang ở nơi rất xa, ở một châu Âu đang có chiến tranh và họ không có tin tức gì. Bức ảnh là một cách để nói với cha mẹ anh ấy rằng “Đừng lo lắng, nhìn này, con khỏe mạnh, con ăn mặc bảnh bao”… Thêm nữa, ông của Lecat cũng đã đến chụp ảnh trong trại người lao động Đông Dương. Đó là một bộ sưu tập ảnh
Tại Pháp, chưa bao giờ tài trợ cho văn hóa lại rơi vào trình trạng như vậy, bị giảm gần 66 triệu euro trong năm 2025. Nhiều cuộc biểu tình, tuần hành đã diễn ra để cảnh báo mối nguy hiểm của việc thiếu đầu tư vào văn hóa, nhưng nhìn chung các cơ sở, hiệp hội đang phải gồng mình thích ứng với chính sách “thắt lưng buộc bụng”. Các khoản tài trợ cho văn hóa đến từ chính phủ và chính quyền địa phương - từ cấp vùng, tỉnh đến thành phố. Cho dù “khối địa phương” vẫn đứng đầu nhưng ngân sách dành cho văn hóa đã bị giảm đi bốn lần so với năm trước. 70% tỉnh và vùng đã giảm chi tiêu cho văn hóa, trong khi chỉ có 20% vào năm 2024. Văn hóa cũng bị “thắt lưng buộc bụng” Mọi lĩnh vực văn hóa đều bị ảnh hưởng. Bị tác động nặng nhất là các kỳ festival, sự kiện (-36%), tiếp theo là biểu diễn (-35%), hoạt động văn hóa và giáo dục văn hóa-nghệ thuật (-31%). Khoảng 41% hiệp hội văn hóa bị giảm trợ cấp. Một bộ phận khán giả (thiếu niên dưới 17 tuổi, hưu trí…) cũng bị hạn chế tiếp cận với văn hóa. Chương trình vũ đạo La belle scène saint-denis của Nhà hát Louis Aragon, thành phố Tremblay en France, tỉnh Seine - Sainte-Denis (ngoại ô Paris), được trình diễn tại Liên hoan Avignon, là một ví dụ điển hình. Bà Emmanuelle Jouan, giám đốc Nhà hát Louis Aragon, giải thích với RFI Tiếng Việt : « Chương trình của chúng tôi tồn tại là nhờ nguồn tài trợ công, từ Nhà nước, vùng, tỉnh, thành phố. Thực ra phải nói thành phố Tremblay en France mới là đơn vị tài trợ nhiều nhất cho chúng tôi. Những nguồn tài chính này cho phép chúng tôi phát triển dự án và bán vé với giá rất ưu đãi cho công chúng thành phố. Chúng tôi được trợ cấp bởi vì nhà hát chúng tôi nằm trong một khu vực mà thu nhập của người dân vẫn còn rất khiêm tốn. Và đây chính là ý nghĩa thực sự về dịch vụ công, có nghĩa là chúng tôi mang nghệ thuật và những nghệ sĩ lớn đến một nơi mà dường như người dân chưa biết đến họ. Vì vậy chúng tôi làm việc quanh năm với rất nhiều nghệ sĩ, mà một số người đã biểu diễn trên sân khấu sáng nay (14/07). Hàng năm, chúng tôi đồng hành với ba dự án ở địa phương. Những nghệ sĩ đó giao lưu với người dân địa phương, cùng họ xây dựng các dự án và tạo nên sự gần gũi này ». Nhà hát Louis Aragon đã đồng hành với hơn 40 đoàn nghệ thuật. Rất nhiều nghệ sĩ đã thành danh nhờ được hỗ trợ về tài chính, cơ sở vật chất và được hỗ trợ quảng bá, ví dụ thông qua Liên hoan Avignon. La belle scène saint denis trở thành điểm tham chiếu để các nhà hoạt động chuyên môn, các “ông bầu” đến tìm tài năng mới. Giám đốc Emmanuelle Jouan giải thích tiếp : « Đây là lần thứ 14 chương trình vũ đạo la belle scène saint denis được biểu diễn ở Avignon. Đây là một dự án hỗ trợ nghệ sĩ dài hạn được phát triển ở tỉnh Seine - Saint-Denis. Vì vậy, chúng tôi đến Avignon hàng năm để giới thiệu với các chuyên gia những tác phẩm của các nghệ sĩ mà đôi khi chúng tôi đã hỗ trợ từ hơn 10 năm qua, hoặc giới thiệu những nghệ sĩ chưa được biết đến nhiều. Dần dần, nhờ công sức, sự kiên trì của chúng tôi, chương trình la belle scène saint-denis đã trở thành một địa điểm nổi tiếng về múa và nhảy. Có rất nhiều chuyên gia đến đây và đôi khi tìm được các nhóm nghệ sĩ mới cho họ, cơ hội để các nghệ sĩ mở rộng sự nghiệp của mình. Đó là lý do tại sao chúng tôi ở đây. Nhưng trước tiên, chúng tôi có một nhà hát ở tỉnh Seine - Saint-Denis, hoạt động quanh năm ở tỉnh để phục vụ người dân. Nhưng chúng tôi cũng có ba đoàn múa hợp tác với chúng tôi hàng năm và chính những nghệ sĩ này đến biểu diễn ở Liên hoan Avignon ». Sáng tạo để tìm nguồn tồn tại Ngoài những nghệ sĩ trong chương trình chính thức “IN”, đa số các đoàn kịch được chọn tham gia chương trình phi chính thức “OFF” tại Liên hoan Avignon đều phải tự xoay sở tài chính. Những tác phẩm được sáng tác cho Liên hoan được nhận một khoản hỗ trợ nhỏ. Đoàn kịch tự lo chi phí lưu trú, địa điểm biểu diễn… Anh Brice của đoàn kịch Plume Pourpre, biểu diễn vở hài nhạc kịch Chân trụ trên các vì sao (Les Keykeepers : Les Pieds dans les étoiles), giải thích : « Đối với các đoàn kịch, đây là một thử thách thực sự. Trước hết, về mặt tài chính, đó là cả một ngân sách. Phải thuê một suất trong rạp hát, phải tìm được chỗ ở tại Avignon. Vì vậy, đó là một khoản đầu tư lớn. Chúng tôi không có nguồn tài trợ công. Tất cả chi phí là tiền của chúng tôi hoặc của các mạnh thường quân. Mục tiêu hiện diện tại Avignon ngày hôm nay  đối với một đoàn kịch không phải đến từ Paris mà từ nông thôn như chúng tôi là để có thể quảng cáo chương trình của mình ngoài vùng nông thôn. Và làm thế nào để vở kịch của chúng tôi có thể được biết trên quy mô toàn quốc ? Chỉ có cách là tham gia Liên hoan Avignon hoặc để khai thác ở Paris. Và chúng tôi đã chọn Liên hoan Avignon để được biểu diễn hàng ngày ở một nhà hát trong 3 tuần ». Làm thế nào để có được một khoản kinh phí không phải là nhỏ ? Nghệ sĩ La Belle Époque, đoàn kịch Collectif Rue 46, tác giả vở Hongai tại Liên hoan Avignon, giải thích : « Chúng tôi thực sự cần tiền nên đã phát động một chiến dịch gây quỹ cộng đồng. Chúng tôi đã vượt qua mục tiêu 3.000 euro. Ngoài ra, chúng tôi đã biểu diễn tại nhà theo yêu cầu vào cuối tháng 5, cho nên cũng gây được quỹ. Chúng tôi cũng biểu diễn tại tòa thị chính Quận 11 Paris vào cuối tháng 6. Tương tự, chúng tôi cũng nhận được khoản tài trợ từ thị chính Paris. Tại Liên hoan Avignon, chúng tôi đang cố gắng biểu diễn để tài trợ cho cuộc phiêu lưu này. Sau đó, khi hết hè, có thể sẽ có thêm vài buổi biểu diễn nữa. Chúng tôi sẽ cố gắng gây quỹ để hoàn trả khoản đầu tư cho Liên hoan ». Trong một rừng chương trình biểu diễn tại Liên hoan Avignon, thu hút được sự chú ý của người qua đường - những khán giả tiềm tàng - không phải là điều dễ dàng. Vậy phải làm thế nào ? Frank Milin, nghệ sĩ của đoàn kịch Collectif Rue 46, cho biết : « Chúng tôi đi phát tờ rơi quảng cáo, chúng tôi dành khoảng 3 đến 4 tiếng mỗi ngày để phát tờ rời trên đường phố Avignon. Chúng tôi may mắn khi có khá nhiều nghệ sĩ tham gia vở kịch, cho nên có thể thay phiên nhau trong ngày. Phần lớn thời gian trong ngày được dành cho việc gặp gỡ những khán giả tương lai trên đường phố, giải thích cho họ về tác phẩm của mình, tạo hứng thú để họ đến xem chúng tôi biểu diễn. Những lúc như vậy rất vui vì đó là những cuộc trao đổi thực sự thú vị ». Phát tờ rơi, sáng tạo muôn vàn kiểu quảng cáo trở thành biểu tượng đặc trưng, độc đáo của Liên hoan Avignon. Làm thế nào để tiếp cận một người qua đường, rồi khiến họ dừng chân lại để nghe quảng cáo về vở kịch, trong khi có đến gần 1.800 buổi diễn ? Đó là cả một chiến lược được vạch trước. Nghệ sĩ Franck Milin của Collectif Rue 46 cho biết thêm : « Đó là một ý tưởng mà chúng tôi đã cân nhắc. Chúng tôi đã làm việc một chút trước khi đến Avignon. Nhưng chiến lược đã thay đổi, bởi vì giống như vở kịch, đôi khi phải thích ứng. Tại Avignon, chúng xem điều gì phù hợp, điều gì không, sau đó chúng tôi cân nhắc xem điều gì hiệu quả và điều gì không. Nhưng chúng tôi cố gắng giải thích nhanh cho người qua đường rằng đó là một vở kịch lịch sử nhưng theo cách sân khấu, quay ngược về quá khứ với hai nhân vật chính ». Giảm tài trợ : Khán giả trẻ bị hạn chế tiếp cận văn hóa Việc cắt giảm tài trợ cho các tổ chức văn hóa, nhà hát tác động đến giá vé, vẫn được bán với giá ưu đãi cho một bộ phận công chúng ở một số địa phương, nhất là những khu vực nơi người dân có thu nhập khiêm tốn, như Bà Emmanuelle Jouan, giám đốc Nhà hát Louis Aragon, đã giải thích. Chương trình cổ vũ tiếp cận văn hóa cho khán giả “trẻ” từ 15-21 tuổi cũng sẽ bị tác động do việc tài trợ cho Pass Culture (thẻ thông hành Văn hóa) cũng bị đóng băng. khoảng 84% thanh thiếu niên trong độ tuổi được hưởng đã đăng ký Pass Culture, được chính thức triển khai năm 2021 sau hai năm thử nghiệm. Hơn 35.000 đối tác văn hóa đề xuất cho khán giả trẻ hàng loạt hoạt động văn hóa (biểu diễn, hòa nhạc, giao lưu, hội thảo, triển lãm, tham quan…) hoặc chương trình đào tạo nghệ thuật. Tuy nhiên, Luật Tài chính năm 2025 quy định giảm ngân sách dành cho Pass Culture từ 72 triệu euro xuống còn 52 triệu euro, chia thành hai đợt. Tính đến tháng 03/2025, 40 triệu euro trong số 50 triệu euro được phân bổ đã được giải ngân cho năm học 2024-2025. Kết quả là nhiều trường không tổ chức được hoạt động ngoại khóa vì không tiếp cận được nguồn tài trợ. Toàn cảnh của việc cắt giảm trợ cấp cho văn hóa được bà Aurélie Hannedouche, giám đốc Nghiệp đoàn âm nhạc đương đại (Le Syndicat des musiques actuelles, SMA), tóm tắt khi trả lời đài phát thanh France Culture ngày 16/04 : “Sẽ có ít hoạt động hơn, ví dụ trong các nhà dưỡng lão, nhà trẻ, trường học, các trung tâm xã hội, trại giam hoặc trong những khu vực được xếp là ưu tiên, thậm chí là “ngoài bốn bức tường”, ví dụ như ở nông thôn”.
Hôm Chủ nhật 28/09/2025, đông đảo người Việt ở Paris đã đến dự buổi giới thiệu cuốn hồi ký của nữ tài tử nổi tiếng Kiều Chinh, do hội Thư Viện Diên Hồng tổ chức. Mọi người đã rất xúc động được nghe chính tác giả đọc một số đoạn trong cuốn Kiều Chinh Nghệ sĩ lưu vong và qua đó đồng cảm hơn với cuộc đời đầy những thăng trầm của một ngôi sao màn bạc nay đã 88 tuổi nhưng vẫn đồng hành không ngơi nghỉ với nghệ thuật thứ bảy.  RFI xin điểm lại những chặng đường đã qua của một nữ tài tử một thời từng được xếp là một trong “Tứ Đại Mỹ Nhân” của Sài Gòn ( cùng với Thẩm Thúy Hằng, Thanh Nga và Kim Cương). Tạp chí hôm nay tập trung vào sự nghiệp điện ảnh của Kiều Chinh từ lúc khởi đầu từ thập niên 1950 đến khi xảy ra biến cố tháng 04/1975. Như Kiều Chinh có nói khi trả lời phỏng vấn RFI ngày 26/09/2025, hai ngày trước buổi giới thiệu cuốn hồi ký, “Điện ảnh tìm tôi chứ tôi không tìm tới điện ảnh”, tình cờ mà cô thiếu nữ Kiều Chinh ở tuổi 17 khi bước trên đường phố Sài Gòn năm 1956 đã được đạo diễn Mỹ Joseph Mankiewicz để ý đến và nếu không bị gia đình cấm cản thì cô đã được thủ vai chính trong bộ phim nổi tiếng The Quiet American ( Người Mỹ Thầm Lặng ): “Điện ảnh tìm tôi chứ tôi không có tìm tới điện ảnh. Thời đó tôi theo đạo Công giáo, thành ra Chủ nhật là đi nhà thờ. Một chiều Chủ nhật nọ, từ Nhà thờ Đức Bà tôi đi thẳng xuống đường Catina. Khi đi qua nhà sách ngay cạnh tiệm bánh Givral, bên kia đường là Hotel Continental, có một người Mỹ chạy từ bên kia đường qua vỗ vai tôi và hỏi tôi: “ Do you speak English?” ( Cô nói tiếng Anh được không? ) Tôi quay lại nhìn và tôi nghĩ chắc anh ta muốn tìm một người bạn gái, nên không trả lời. Anh ta vội vàng bước tới trước mặt và nói:  “Chúng tôi là một toán làm phim từ Hollywood. Ông đạo diễn đang ngồi bên kia đường. Chúng tôi sang đây để quay cuốn phim The Quiet American và ở đây hai tuần lễ rồi mà chưa tìm được đúng người. Chúng tôi ngồi đây và thấy cô đi từ xa lại. Ông đạo diễn nói ông ấy muốn kiếm một người có vóc dáng như cô. Cô có biết nói tiếng Anh không?” Bấy giờ tôi mới trả lời: “ Dạ, biết một chút”. “Cô có nói tiếng Pháp không?” Tôi cũng nói là “Dạ, nói một chút thôi”. “Ôi Trời, tuyệt vời quá. Tôi cần một người có dáng người như cô, nói được tiếng Anh và một chút tiếng Pháp. Xin mời cô gặp ông đạo diễn.” Tôi sang gặp thì ông đạo diễn bảo tôi cầm script ( kịch bản ) về nhà đọc, có thể ngày mai hoặc ngày mốt trở lại để quay một cái test. Lúc ấy có một người Việt Nam ngồi đó, mà sau này tôi mới biết đó là đạo diễn Bùi Diễm, hồi đó có quay phim Chúng Tôi Muốn Sống. Thế thì tôi mang script về đọc, nhưng trước khi trở lại thì phải xin phép mẹ chồng, vì lúc đó tôi mới lấy chồng, mà chồng thì lại đi sang Mỹ học, thành ra đang ở với bố mẹ chồng. Cụ bà ngạc nhiên lắm, vì thời buổi đó phim ảnh còn quá mới đối với Việt Nam. Cụ bà bảo: “ Ôi, con dâu nhà này không có đi đóng phim!”. Cụ ông thì có vẻ cởi mở hơn một chút, bèn hỏi: “Chuyện phim là về cái gì và vai trò của cô là thế nào?” Mình cũng kể sơ qua chuyện phim là cô Phượng, nhân vật nữ chính trong phim, có chồng là người Anh, theo chồng sang Mỹ thì cô yêu một anh người Mỹ. Bà cụ liền nói:” Thế thì không được! Người đàn bà đó không tốt!” Cụ không cho quay. Hôm sau tôi trở lại để trả cuốn script và nói với ông đạo diễn là không quay. Mọi người ngạc nhiên lắm! Đạo diễn đó là Joseph Mankiewicz, đạo diễn số một của Mỹ, hai lần được lãnh giải Oscar, là đạo diễn những phim như Cleopatra với Elizabeth Taylor và mấy phim khác nổi tiếng lắm. Họ cho mình vai tốt như thế mà lại là vai chính, thế mà mình lại từ chối! Họ ngạc nhiên lắm! Nhưng ông nói: “Có thể nhờ cô quay một tí được không?” Thì tôi nói là phải xin phép lại. Mấy tháng sau họ mới bắt đầu quay. Họ không tìm được người Việt Nam nào khác nên mời một cô tài tử người Ý tên là Georgia Mall để đóng vai người Việt Nam. Họ mời tôi trở lại đó, makeup, búi tóc cho cô Georgia Mall giống hệt tôi. Trong phim thì có cảnh ông Michael Redgrave, tài tử Anh, đi tìm người yêu của mình là cô Phượng. Trong đám đông, thấy tôi đi qua, ông vội vàng chạy đến vỗ vào vai. Tôi quay lại, thì ông bảo: “Ồ, tôi xin lỗi, tôi tưởng cô là người tôi tìm”. Gia đình cho phép vì tôi chỉ xuất hiện có một tí thôi, không có cảnh gì yêu đương cả! Không được tham gia phim The Quiet American nhưng Kiều Chinh ngay sau đó lại được đạo diễn Bùi Diễm mời đóng vai chính trong phim Hồi Chuông Thiên Mụ: “Nhưng lần trở lại đó thì lại gặp ông Bùi Diễm, lúc đó có hãng phim Tân Việt. Hãng phim đã phụ cho nhóm quay phim Người Mỹ Thầm Lặng. Năm sau, tức là năm 1957, ông Bùi Diễm lại liên lạc với tôi để mời đóng phim. Nhưng ông hiểu văn hóa phong tục Việt Nam, cho nên ông đã tới tận nhà để nói chuyện. Cụ bà ngạc nhiên lắm: Tại sao hết người này đến người muốn mời con mình đóng phim! Cụ mới hỏi: “Ông mời con dâu của tôi đóng vai gì?” “Thưa bác, vai một ni cô ở chùa Thiên Mụ”. Ôi, cụ thích lắm: “Thế thì được!”. Sự nghiệp của tôi bắt đầu từ đó: Đóng vai sư cô trong phim Hồi Chuông Thiên Mụ. Chắc là nhờ chị thủ vai sư cô nên bà mẹ chồng mới chấp nhận cho đi đóng phim? Dạ, chưa chắc cho đi. Sau khi đóng phim đó, cụ cũng thấy tôi đâu có thay đổi gì đâu. Ngày nào phải quay phim thì đi quay phim. Khi quay phim xong thì về. Không có liên lạc gì với ai. Không phải là trở thành tài tử, đi quay phim, rồi đi tiệc tùng hay là này kia, thành ra các cụ yên tâm.  Lúc đóng phim Hồi Chuông Thiên Mụ hình như chị mới 18 tuổi. Chị hoàn toàn không qua trường lớp nào, vậy thì chị nhập vai như thế nào? Nhất là vai không phải dễ là một ni cô? Tôi không qua trường lớp nào cả, nhưng thời gian trước đó tôi sống với bố, vì mẹ mất sớm từ lúc tôi mới có bốn năm tuổi. Bố thì gà trống nuôi con, sợ con buồn, nên cuối tuần nào bố cũng dẫn tôi đi xem phim. Bố cũng mê xem phim lắm và hay đọc những cuốn như là Ciné Revue hồi đó. Thời đó thì phim chiếu ở Hà Nội là phim nói tiếng Pháp, mà bố thì rành ( tiếng Pháp ), cho nên xem phim xong, bố lại về giảng cho con gái, rồi có Ciné Revue để đọc, thành ra cũng hiểu biết một chút về điện ảnh từ lúc rất trẻ. Đến khi quay phim thì mình cứ đóng tự nhiên vậy thôi. Vai đó đòi hỏi làm sao thì mình làm như vậy thôi, cũng không khó khăn gì cả. Vai chính trong phim lại là anh Lê Quỳnh, cũng là bạn người chồng cũ của tôi và mẹ của anh Lê Quỳnh cũng là bạn với mẹ chồng tôi. Thành ra bà cụ cảm thấy thoải mái lắm, yên tâm lắm. Tôi đi quay phim thì cũng không có gì khó khăn. Phim được quay tại Huế. Anh Lê Dân làm đạo diễn. Đó cũng là phim đầu tiên của Lê Dân, học đạo diễn Pháp về. Thành ra mấy anh em làm việc với nhau như là một gia đình. Ông Bùi Diễm, ông Lê Dân, bà Lê Dân cũng luôn có mặt. Chúng tôi ở hotel ngoài Huế tôi vẫn nhớ tên là Hotel Morgan. Ông bà chủ hotel là ông bà Yến luôn luôn hỏi: “ Em thích ăn món gì thì cho biết để hotel nấu.” Ngoài Huế thì ăn cay lắm, mà tôi là Bắc Kỳ không có ăn ớt!" Sau Hồi Chuông Thiên Mụ, thấy cô con dâu không có gì thay đổi, nên không chỉ bố mẹ chồng, mà người chồng cũng cho phép Kiều Chinh tiếp tục đóng phim. Kiều Chinh được mời liên tiếp đóng phim cho đạo diễn Thái Thúc Nha, trong đó có phim Mưa Rừng. Rồi Kiều Chinh tiếp tục đóng cả chục phim nữa, trong đó có mấy phim Mỹ. Phim Mỹ đầu tiên là L’année du Tigre của Hollywood, tiếp đến là CIA Operations, với tài tử chính là Burt Reynolds. Rồi bà đóng trong một số phim của Philippines nhưng được quay ở Sài Gòn.  Theo lời Kiều Chinh, đến năm 1969-70, đạo diễn Hoàng Vĩnh Lộc có một chuyện phim mà ông muốn quay, đó là phim Người Tình Không Chân Dung:  "Anh ấy viết chuyện phim đó trong đầu với hình ảnh Kiều Chinh là vai chính. Nhưng không hãng phim nào muốn quay phim đó cả. Anh Vĩnh Lộc bảo: “ Kiều Chinh lập hãng phim đi, để mình quay cho mình”. Thì Kiều Chinh bắt đầu lập hãng phim riêng của mình, hãng phim Giao Chỉ, rồi quay cuốn phim đầu tiên. Cuốn phim đó được Bộ Quốc Phòng trợ giúp, bởi vì phim dính rất nhiều tới quân đội. Hình như đây là phim đầu tiên có đầy đủ sự hiện diện của quân lực miền Nam Việt Nam, từ không quân, hải quân, thủy quân, lục chiến, bộ binh, pháo binh, đủ hết. Trong phim có nào là máy bay, rồi có những cảnh cả ngàn binh sĩ ngồi ở Vũng Tàu hát bài Việt Nam, Việt Nam, rồi thì là xe tăng, tàu bò, súng ống, làm sao mà hãng tư nhân cáng đáng đáng nổi. Cho nên có sự hỗ trợ của bộ Thông Tin cũng như là bộ Quốc Phòng. Câu chuyện là thế này: Nhân vật Dạ Lan nói ở đài phát thanh, thành ra binh sĩ nào ở chiến trận xa tối đến cũng cầm cái radio để nghe quen giọng của Dạ Lan. Lúc đó cô yêu một người lính không quân. Hai người hứa hẹn với nhau nhưng rồi anh đó tử trận. Cô buồn lắm, cho nên vào một đêm 30 Tết, cô tự hứa là bây giờ bốc thăm một lá thơ lên, lá thơ đó mang khu bưu chính bao nhiêu thì cô sẽ đi tìm người có khu bưu chính đó để nhận làm chồng. Chuyện phim là con đường mà cô đi tìm từ chỗ này đến chỗ kia, ra tận mặt trận, rồi đi vào nhà thương gặp thương phế binh. Mãi sau cùng tìm được số khu bưu chính đó, nhưng tìm tới nơi đấy thì anh ta là một thương binh rất nặng, không biết mặt mũi ra sao, vì bị băng bó che hết rồi.  Cô ấy quỳ xuống và nói: "Tôi đã bốc thăm số khu bưu chính của anh. Tôi đã hứa sẽ lấy người nào mang khu bưu chính này làm chồng". Ông đó bảo: " Có phải cô Dạ Lan không? Tôi nghe cái giọng cô bao nhiêu đêm rồi. Bây giờ thật sự cô là Dạ Lan à? Cô đùa hay sao? Tôi đâu có còn hình hài gì nữa." Anh nghĩ chuyện này như là một trò chơi, bông đùa. Dạ Lan bỏ đi ra ngoài bờ biển, đúng vào lúc mà cả ngàn binh sĩ đang ngồi hát bài "Việt Nam, Việt Nam", thì cô bị rung động bởi tiếng hát đó. Rồi cô trở lại, quỳ sau giường, cầm tay anh nói: "Nhất định em sẽ lấy anh". Thì người đó tay buông thõng xuống rồi chết. Ông bác sĩ trong bệnh viện đó ( do anh Tâm Phan đóng ) trách cô này đã chơi đùa với tình yêu khiến anh đó quá xúc động mà chết. Anh đã bị bom đạn mặt mũi tan nát hết cả rồi, không còn gì nữa mà bây giờ được cô Dạ Lan nhận làm chồng à? Đại khái câu chuyện là như thế. Người tình không chân dung là một trong những cuốn phim thành công nhất thời trước 75. Phim chiếu ra rạp rất đông người ta coi. Số tiền thâu được cũng rất nhiều, rấ
Tại Pháp, mùa thu theo truyền thống là mùa ra mắt sách mới. Có một điều khá thú vị là trong thời gian gần đây, sách dạy nấu ăn vẫn bán chạy không kém gì tiểu thuyết đoạt giải văn học. Trong thời kỳ dịch Covid, nhiều gia đình không được đi đâu xa, nên mua sách học cách làm bếp ở nhà. Trong năm 2021, ngành xuất bản Pháp đạt kỷ lục 121 triệu euro doanh thu nhờ bán được 7 triệu quyển sách dạy nấu ăn. Theo Viện nghiên cứu Nielsen, doanh thu đã giảm xuống đôi chút trong những năm sau đó nhưng vẫn ở một mức cao so với năm 2019, trước khi đại dịch bùng phát. Có thể nói, chưa bao giờ sách dạy nấu ăn lại nhiều và đa dạng đến như vậy : các quyển sách này giờ đây không chỉ đơn thuần giới thiệu những công thức làm bếp, mà còn giống như những quyển sách in về nghệ thuật, đẹp nhờ vào lối trình bày, thiết kế. Sách còn có thêm nhiều thông tin về văn hóa các quốc gia hay vùng miền, gần giống với các quyển cẩm nang du lịch, vì thế cho nên được nhiều bạn đọc như Icham tìm mua : Icham : Những cuốn sách này cho phép chúng tôi khám phá những chân trời mới như thể đang đi du lịch, thông qua các món ăn mà tìm hiểu thêm về nhiều nền văn hóa khác. Đối với những người biết làm bếp, sách dạy nấu ăn là nơi họ có thể tìm thấy những ý tưởng mới lạ, những cách kết hợp độc đáo, những món ăn mà chúng tôi chưa từng làm trước đây, chứ không chỉ đơn thuần là sự kết hợp của thịt cá và rau quả . Nhu cầu của độc giả tại Pháp dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt giữa các nhà xuất bản. Vào mùa thu năm nay, sẽ có khoảng 480 cuốn tiểu thuyết được phát hành để chuẩn bị cho mùa giải văn học 2025 tại Pháp. Sách dạy nấu ăn (với khoảng 400 đầu sách mới) cũng sẽ chiếm một vị trí quan trọng trên các tủ trưng bày. Ngoài ẩm thực thế giới hay các công thức nấu ăn truyền thống còn có sách dạy làm bánh ngọt. Trả lời phỏng vấn RFI ban tiếng Pháp, nhà làm bánh Christophe Elder, tác giả của khoảng 50 cuốn sách chuyên về ẩm thực, cho biết độc giả thường tìm mua sách với các công thức đơn giản: Christophe Elder : Chúng tôi có hai tiệm bánh ngọt ở vùng Alsace, chuyên bán các loại bánh ngọt nổi tiếng như bánh ngàn lớp (Mille-feuille) hay bánh su nhồi kem hạt dẻ (Paris-Brest). Ngay từ cuốn sách đầu tiên, tôi đã muốn truyền đạt những công thức đơn giản mà bạn đọc có thể tự làm ở nhà một cách nhanh chóng, tiện lợi mà vẫn không gặp nhiều khó khăn. Tôi luôn tìm cách lược bỏ bớt những chi tiết rườm rà trong cách làm bánh, rồi đưa những công thức này (đơn giản hơn trước) vào trong những quyển sách tiếp theo của tôi. 7 triệu sách dạy nấu ăn được bán trong một năm Công thức « đơn giản hơn » có lẽ vẫn chưa đủ, sách dạy nấu ăn hay làm bánh còn cần phải có lối thiết kế công phu, cách trình bày đẹp mắt, để thu hút sự tò mò của độc giả. Nhờ hội tụ những yếu tố ấy, quyển sách bìa màu hồng mang tựa đề « Pâtisserie » (Bánh ngọt) của Christophe Elder đã bán được hơn một triệu bản, kể từ khi được phát hành lần đầu tiên vào mùa thu năm 2020. Marion, chuyên viên làm việc cho nhà xuất bản La Martinière từng chứng kiến nhiều sự thay đổi trong lãnh vực này : Marion : Xu hướng mới trong sách dạy nấu ăn là những quyển sách này giống như những món quà trang trí mà khách hàng Pháp mua về để biếu tặng cho nhau. Sách có lối trình bày đẹp mắt, từ ảnh chụp cho đến cách in ấn, giống như các tạp chí mỹ thuật thời trang. Sách cũng dày hơn nhiều từ 300 đến 400 trang. Sách không chỉ bao gồm các công thức nấu ăn, mà còn thường được kết hợp với nhiều giai thoại lịch sử văn hóa, thông tin hướng dẫn du lịch. Sách dạy nấu ăn thời nay thường là những quyển sách đẹp. Trong số những đầu sách phổ biến nhất có tác phẩm của đầu bếp người Anh Yotam Ottolenghi hay của đầu bếp Pháp Jean-Francois Mallet, được xem như hai hiện tượng của ngành xuất bản.  Đối với các chủ hiệu sách, những tên tuổi này mang đến nhiều cơ hội thuận lợi, cho phép họ bán những cuốn sách đắt tiền hơn, với giá trung bình dao động từ 35 đến 60 euro. Nhờ vào ảnh chụp ngoạn mục, tranh minh họa đầy ấn tượng, sách dạy nấu ăn tạo thêm cơ hội cho bạn đọc muốn đi tham quan du lịch. Điều này lại càng đúng với nền ẩm thực thế giới : kể cả các đầu sách nói về các món ăn Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ hay Việt Nam Còn theo cô Deborah Dupont-Daguet, chủ tiệm sách chuyên về « Librairie Gourmande », nằm trên đường Montmartre, ở quận 2 Paris, sách dạy nấu ăn ngày càng phong phú đa dạng do nội dung liên tục được cập nhật, thay đổi hầu đáp ứng nhu cầu của bạn đọc, thường quan tâm đến các trào lưu thời thượng. Sách dạy nấu ăn luôn chạy theo các xu hướng thịnh hành. Điều này thật ra đã có từ lâu và thường liên quan đến các thiết bị gia dụng. Tại Pháp các quyển sách dạy nấu ăn phát triển mạnh từ đầu những năm 1950 với các đầu bếp như Ginette Mathiot hay Françoise Bernard. Vào thời bấy giờ, sách của họ một phần là để đơn giản hóa công việc của các bà nội trợ, nhưng đồng thời họ dùng công thức nấu ăn, để có thể bán thêm nhiều nồi áp suất cũng như những thiết bị gia dụng khác. Cách đây khoảng 5 năm, các hộ gia đình ở Pháp tìm mua các loại máy robot tự nấu ăn, chỉ cần đưa các thành phần chế biến vào nồi, bấm nút tự động là khoảng 30 hay 45 phút sau, là có được một món ăn cho gia đình. Sau đó có làn sóng máy tự làm sữa chua, bánh mì, kem đông lạnh, pha cà phê hay làm nước ép trái cây ….. Từ khoảng một năm nay, lại bùng phát hiện tượng Airfryer, loại nồi chiên không dầu để chiên khoai tây, làm nem rán hay cánh gà nướng. Thị trường Pháp hiện nay ngập tràn những cuốn sách (Les recettes au Airfryer) với những công thức làm món ăn với nồi chiên không dầu. Mỗi quyển sách có thể được bán cả trăm ngàn bản. Ngoài các thiết bị gia dụng, còn phải kể đến các chương trình thi nấu ăn hay làm bánh trên đài truyền hình, và hiện giờ tầm ảnh hưởng mạnh nhất đến từ nhóm người « influencer », rất nổi tiếng trên các mạng xã hội với hàng triệu thành viên quan sát « theo dõi ». Vì vậy, một số nhà sản xuất nghĩ rằng họ có thể dựa vào uy tín của các nhân vật này để bán hàng dễ dàng hơn. Cô Deborah Dupont-Daguet không chia sẻ quan điểm này : Deborah Dupont-Daguet : Cách tính toán này không phải lúc nào cũng hiệu quả, đôi khi một « influencer » có hàng triệu người theo dõi trên TikTok, YouTube hay Instagram, nhưng các thành viên có thể đăng ký miễn phí để theo dõi những người họ ưa thích. Tuy vậy, chưa chắc gì những follower này sẽ chịu chi 30 euro để mua một cuốn sách dạy nấu ăn do các influencer quảng cáo trên tài khoản của họ. Một số người tiêu dùng chỉ mua, trong trường hợp đầu sách thật sự có nội dung. Liệu cơn sốt xuất bản nhiều sách ẩm thực có từ từ hạ nhiệt hay chăng ? Đa số các chủ hiệu sách đều nghĩ rằng, hiện giờ, thị trường sách dạy nấu ăn tại Pháp gần như đã bão hòa, nhưng biết đâu chừng có thể bùng phát trở lại khi ngành xuất bản tìm ra được những « ý tưởng mới ». 
Galerie BAO, gallery dành cho nghệ thuật đương đại Việt Nam tại Paris, do giám tuyển Lê Thiên Bảo thành lập cách đây 2 năm, vừa khai trương cơ sở mới tại số 49 Avenue Pamentier Paris 11, ngày 12/09/2025, với một cuộc triển lãm kết hợp nghệ thuật trình diễn và nghệ thuật sắp đặt của nghệ sĩ Việt Nam Hằng Hằng, hiện sống tại Paris. Lê Thiên Bảo tốt nghiệp Thạc sĩ Quản lý thị trường Nghệ thuật Quốc tế tại École D'art et De Culture (EAC) Paris và đã làm việc với các gallery ở Pháp trước khi tự thành lập một gallery riêng mang tên Galerie BAO vào năm 2023. Trả lời RFI Việt ngữ ngày 10/09, giám tuyển Lê Thiên Bảo cho biết:  "Hoạt động đầu tiên Gallerie BAO diễn ra vào năm 2023 tại số 15 rue Beautreillis, Paris. Lúc đó là vừa mới hết đại dịch Covid, em sang Pháp thì thấy là ở Pháp gần như không có một chỗ nào để cho nghệ thuật đương đại Việt Nam, đặc biệt là các bạn trẻ, trưng bày, cũng như là để công chúng Pháp, Việt Kiều, hay là người từ Việt Nam sang đây có thể xem được. Hầu hết các nghệ thuật  từ Việt Nam mà mọi người biết đến ở Pháp là thông qua Bảo tàng Guimet, hoặc Bảo tàng Cernuschi và đó hầu hết là những nghệ thuật liên quan đến đồ thủ công, Indochine ( Đông Dương ), đồ cổ nhiều hơn là nghệ thuật đương đại. Khái niệm của mọi người về nghệ thuật  đương đại Việt Nam vẫn còn rất là mơ hồ, do đó em có ý tưởng về một không gian Galerie BAO. Khi mở ra thì nó chỉ có 20 mét vuông.  Đó là lý do sau hai năm mình phải dời dời chỗ. Bây giờ đây là chỗ mới ở Avenue Parmentier, có hơn 60 mét vuông ở mặt bằng và ở dưới tầng hầm mình có 30 m2 nữa, để thực hiện tất cả những triển lãm tương đối nhiều tham vọng hơn và ủng hộ những nghệ sĩ trẻ hơn như Hằng Hằng. Tìm được một cơ sở như vậy ở Paris cũng không phải là đơn giản, bởi vì Paris rất là đắt đỏ, với tiền thuê cơ sở này và tất cả những chi phí liên quan. Như vậy khó khăn ban đầu chắc là rất nhiều? Đúng là có rất nhiều khó khăn ban đầu, tuy nhiên những khó khăn đó đều có thể giải quyết được hết, nếu như mình có một cộng đồng phía sau mình. Tại vì thật ra em được sự ủng hộ rất nhiều từ các nghệ sĩ địa phương cũng như cộng đồng người Việt ở đây và công chúng, kể cả công chúng Pháp. Sau hai năm hoạt động thì Gallerie BAO đã có được một tiếng vang tương đối tốt trong giới chuyên môn ở Pháp, do đó mình cũng có thể bán các tác phẩm được. Chủ yếu là mình bán về Châu Á như là Singapore. Bán cho Pháp thì ít thôi, tại vì thật ra công chúng Pháp rất là khắt khe và rất khó tham gia vào thị trường này.  Tất cả những chi phí đó hầu hết là đều tự em bỏ ra, tự em vận hành trước và sau đó thì từ từ mình bán tác phẩm, bắt đầu mình mới có thu nhập thêm để xây dựng các chương trình. Lúc mới mở thì không dám làm một chương trình triển lãm như thế này đâu. Ví dụ như triển lãm của Hằng Hằng thì hầu hết là performance ( trình diễn ) và một trải nghiệm rất là immersif ( nhập vai ), hầu như là sẽ không bán được. Đó cũng là một bài toán cân đối giữa thu nhập và chất lượng tác phẩm.  Theo lời giám tuyển Lê Thiên Bảo, trước nghệ sĩ Hằng Hằng, Gallerie BAO đã tổ chức những triển lãm cho các nghệ sĩ đến từ Việt Nam như Nguyễn Duy Mạnh, Trương Công Tùng, Lêna Bùi, hầu hết đều làm triển lãm riêng. Những nghệ sĩ khác thì được Lê Thiên Bảo hỗ trợ để làm triển lãm riêng ở những bảo tàng lớn của châu Âu. Bên cạnh đó, Galerie BAO cũng phối hợp với các gallery lớn hơn để giám tuyển những triển lãm nhóm của các nghệ sĩ  Bùi Công Khánh, Nguyễn Thị Châu Giang. Vậy thì Galerie BAO dựa trên những tiêu chí nào để tuyển chọn những nghệ sĩ Việt Nam sang đây trưng bày các tác phẩm? Lê Thiên Bảo giải thích:  "Khi làm việc thì em lựa chọn trên tiêu chí đầu tiên, đó phải là tác phẩm tốt và phải có sự bền bỉ. Người ta thường nói đùa: " Phong độ là nhất thời nhưng đẳng cấp là mãi mãi". Tức là năng lượng sáng tác phải bền vững, chứ không phải là một người chỉ có một tác phẩm xuất sắc theo kiểu "ăn may". Mình phải có kinh nghiệm trong nghề để nhìn ra được khả năng thăng tiến của người nghệ sĩ đó về lâu dài. Thứ hai là cách làm việc của nghệ sĩ đó phải chuyên nghiệp. Tại vì khi em mang họ qua Pháp thì sẽ có rất nhiều cam kết ràng buộc về mặt sản xuất tác phẩm, sáng tác, cũng như về lâu dài mình phải có chiến lược cùng với nhau, thì đầu tiên là tính người phải hợp cái đã. Thứ ba là họ có thực sự nghiêm túc muốn trở thành một nghệ sĩ chuyên nghiệp hay không? Tại vì nếu như đây chỉ là một cuộc chơi kiểu như "weekend artist" thì mình cũng không có hứng thú. Là một gallery chuyên nghiệp thì em phải tìm kiếm nghệ sĩ chuyên nghiệp. Nghệ sĩ hiện giờ, như anh thấy đó, họ làm nghệ thuật với sân khấu, với sắp đặt, với trình diễn, với video, với hàng trăm ngàn thứ khác rất là hứng thú. Em nghĩ là người Pháp cần phải thoát ra khỏi định kiến của họ, cũng như cái nhìn cũ của họ về Việt Nam. Mình không phải là một đất nước exotic, với những thứ xinh đẹp, dễ thương, như họ vẫn luôn kỳ vọng tìm được. Thật ra thì em đã có tín hiệu tiếp nhận rất tốt rồi. Lúc nào gallery của em cũng kín khách. Vernissage ( tiếp tân khai mạc triển lãm ) lúc nào cũng kín khách và lúc nào phần lớn cũng là người Pháp. Gallerie BAO cũng đã có mặt ở các fair ( hội chợ) quan trọng về nghệ thuật Châu Á,như là Asia Now mà ba năm nay, năm nào em cũng tham dự. Hoặc là các fair như là Lille Art Up! ở Lille, Pháp, hoặc là cuối năm nay em sẽ đi  tham dự Art Cologne ở Đức. Không chỉ ở Pháp mà ở Châu Âu, trong sự tiếp nhận nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật đương đại Việt Nam, mọi người cực kỳ tò mò, hứng thú và cởi mở. Lúc nào mình cũng có khán giả. Cái quan trọng là mình phải đủ dũng khí và đủ tâm huyết để bày ra những triển lãm thật sự tốt, tốt cho mình và tốt với  cái chuẩn của mình, chứ không phải là nhìn theo cái chuẩn của Pháp. Nhưng, theo Lê Thiên Bảo, để một gallery nghệ thuật đương đại tồn tại lâu dài tại Paris là một thử thách lớn lao:  "Thật ra đối với em, Paris là một thuận lợi, một cơ hội, cũng là một thử thách rất lớn. Ở Paris, anh sẽ gặp được mọi người. Vào dịp có các art fair ( hội chợ nghệ thuật ), có  các sự kiện quan trọng nhất như Art Basel Paris, mọi người đều sẽ đến Paris.  Còn khó khăn là gì? Ở đây mỗi tuần có thể có đến mấy trăm vernisage. Tại sao người ta phải đi vernisage của mình? Trong một môi trường cạnh tranh như vậy, mình cần phải làm tốt hơn nữa, để đưa cái chất lượng đến, để người ta thấy triển lãm như vậy mà do một người Việt Nam làm. Em lớn lên ở Việt Nam, học tập ở Việt Nam và chỉ mới sang Pháp có 5 năm thôi. Thật ra em cũng chỉ là một cái nhánh rất nhỏ, rất là bé như hạt cát, của cộng đồng Việt Nam thôi. Còn rất nhiều những người rất tài giỏi ở Việt Nam cũng như là ở Pháp, mọi người đều ấp ủ rất nhiều dự định. Dù muốn dù không, chưa có gallery nào thứ hai như vậy. Người ta đến đây sẽ có ấn tượng đầu tiên về cộng đồng này, nên mình muốn làm thật tốt, để cho người ta tò mò và tiếp tục khám phá thêm ở Việt Nam còn cái gì nữa hay không?" Với tham vọng quảng bá rộng rãi nghệ thuật đương đại của Việt Nam, Lê Thiên Bảo đã không ngần ngại cho sơn toàn màu xanh dương từ thảm trải nền nhà đến tường của Galerie BAO để đón tiếp cuộc triển lãm và trình diễn của nghệ sĩ Hằng Hằng, mang tên "La Raison est un Chien. La Raison est une Fleur" (Lý Do Là Một Con Chó.  Lý Do Là Một Bông Hoa ), từ ngày 12/09  đến 4/10/25. Hằng Hằng xuất thân từ Trường Cao đẳng Quốc gia Nghệ thuật Trang trí ở Paris. Trong bộ trang phục công nhân để trình diễn cùng với hai nghệ sĩ khác, Hằng Hằng cho biết vì sao cô đã chuyển từ ngành kiến trúc sang ngành nghệ thuật:  "Em đã bắt đầu bằng việc học kiến trúc một năm rưỡi ở Việt Nam. Sau đấy thì mới  phát hiện ra là mình có rất nhiều cảm giác và cảm xúc với làm việc trong không gian. Không gian đây không chỉ là những thứ mình có thể chạm được, mà nó có thể là mùi hương, có thể là ánh sáng. Thế là em quyết định sang Pháp, được gia đình ủng hộ, để học về ngành thiết kế sân khấu phối cảnh. Ngành này giúp cho em tưởng tượng làm những cái điêu khắc không chỉ là những thứ mình có thể chạm được, mà mình có thể điêu khắc nó trong các không gian cụ thể khác nhau, xử lý cả âm thanh, ánh sáng, mùi hương, cảm giác trong không gian đấy. Từ đấy thì nó tạo ra những cái tác phẩm khác nhau dựa trên những cái mà mình đã được đào tạo và những cái gì mình cảm nhận. Thật ra kiến trúc có khá nhiều yếu tố cũng liên quan đến ngành tạo ra những khung cảnh như nhà hát, nhưng có một sự khác biệt đó là những khung cảnh này thường rất là phù du. Mình có thể làm được nó một vài lần và sau này nó biến mất như trong một cảnh phim chẳng hạn. Em thích sự sáng tạo liên tục, thích được làm mới liên tục, được làm việc với nhiều không gian khác nhau, còn kiến trúc cũng rất là thú vị nhưng mình luôn luôn phải nghĩ nó sẽ phải tồn tại lâu dài như thế nào. Sự phù du này cũng là một sự thú vị. Và nó mở ra rất nhiều thứ, bởi vì trong ngành này ví dụ như mình có thể làm một vở kịch, mình có thể làm việc với cả đạo diễn và phải đọc text, mình phải tìm hiểu. Mỗi lần là mình lại phải học những thứ mới, không bao giờ giống nhau cả. Đôi khi mình phải làm việc với nhà văn, với những người làm âm thanh ánh sáng. Với lại nó cũng khá là trừu tượng và em thích sự trừu tượng đó hơn” Trong màn biểu diễn "La Raison est un Chien. La Raison est une Fleur" tại Galerie BAO ngày 10/09/2025, thông qua các tác phẩm sắp đặt và trình diễn nhập vai, Hằng Hằng khám phá những câu chuyện nhỏ, ký ức giác quan và kho lưu trữ gia đình. Tác phẩm của cô xóa nhòa ranh giới giữa thực tại và trí tưởng tượng, ký ức và hiện tại, cá nhân và cộng đồng. Các tác phẩm của Hằng Hằng đã được trưng bày tại Documenta 15, Đức, một trong những sự kiện nổi bật nhất của nền nghệ thuật đương đại thế giới, cũng như tại Nhà hát Théâtre de l'Aquarium, Paris, tại Bảo tàng Linden, Đức, tại trung tâm nghệ thuật Poush, ngoai ô Paris, và hiện đang được trưng bày tại Triển lãm Nghệ thuật Setouchi Triennale 2025. Năm nay, Hằng Hằng cũng là một trong những người đoạt Giải thưởng Dogma của Dogma Collection, Sài Gòn. Triển lãm tại Galerie BAO đánh dấu một cột mốc quan trọng tại Paris, nơi mà Hằng Hằng hiện đang sinh sống. Nghệ sĩ Hằng Hằn
Dana Ciocarlie đến với giới yêu nhạc cổ điển tại Việt Nam lần đầu tiên từ 28/11 đến 07/12/2025. Chuyến lưu diễn bắt đầu bằng buổi hòa nhạc tại thủ đô Hà Nội cùng Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia VNSO (Vietnam Symphony Orchestra) ngày 28/11/2025, tiếp theo là 4 buổi độc tấu xoay quanh chủ đề sông nước qua các thành phố : Huế (02/12), Đà Nẵng (03/12), Hồ Chí Minh (06/12) và Đà Lạt (07/12). Đồng thời, bà sẽ tham gia giảng dạy hai buổi Master-class cho sinh viên Học viện Âm nhạc Huế và Nhạc viện TP. Hồ Chí Minh. Dana Ciocarlie trưởng thành từ Học viện Âm nhạc Quốc gia Bucarest, trường Âm nhạc « Alfred Cortot » tại Paris, Nhạc viện Cao học Quốc gia Paris. Từng là học trò của Victoria Melki, Dominique Merlet và từng đoạt các giải quốc tế lừng lẫy tại Zwickau, Zurich, Leipzig. Bà được giới yêu nhạc cổ điển biết đến qua bộ CD tập họp các tác phẩm chọn lọc của Robert Schumann, thu âm trực tiếp từ 15 buổi trình diễn trong suốt 4 năm. Từ năm 2022, bà tiếp tục hành trình thu âm trực tiếp các concertos của Mozart cùng dàn nhạc Open Chamber Orchestra do Yair Benaim chỉ huy. Cho đến nay, bà đã có cho riêng mình hơn 20 đĩa nhạc độc tấu và hợp tấu. Bà thường xuyên được mời lưu diễn qua nhiều quốc gia và hợp tác với nhiều nhạc sĩ, nghệ sĩ từ nhiều nước: Thụy Sĩ, Rumani, Mỹ, Nhật, Trung Hoa, Canada, Bỉ, Hà Lan, Tây Ban Nha,.. Là một giáo viên tận tâm với cách giảng dạy đặc sắc, hiện Dana Ciocarlie là giáo sư nhạc thính phòng và piano tại Nhạc viện Quốc gia Lyon, trường Âm nhạc Alfred Cortot và Nhạc viện Quận 19 tại Paris. Nhiều sinh viên được bà đào tạo đoạt các giải dương cầm hay nhạc thính phòng quốc tế với thứ hạng cao. Theo dòng nước, từ sông Loire đến sông Mê Kông Dự án « Theo dòng chảy, từ sông Loire đến sông Cửu Long » xuất phát từ ý tưởng của hiệp hội Novelette, Dana Ciocarlie cùng Anne Nguyen, một người bạn Việt-Pháp của bà. Chương trình này được Viện Pháp tại Việt Nam và Trung tâm Quốc gia Âm nhạc Pháp tích cực hỗ trợ về mặt nghệ thuật lẫn tài chính. Có trụ sở đặt tại Monteaux, bên bờ sông Loire, hiệp hội Novelette lấy dòng sông làm nguồn cảm hứng đồng thời ưu tư về các vấn đề sinh thái, giáo dục, âm nhạc và thi ca. Còn được gọi là sông Mê Kông/Mékong, Cửu Long vốn giữ vai trò huyết mạch trong đời sống của người Việt Nam, từng nuôi dưỡng hai nền kinh tế và văn hóa của đất nước. « Cửu Long » (chín con rồng) tượng trưng chín cửa sông đổ ra biển và sức mạnh của thiên nhiên lẫn tiềm năng phát triển của các vùng đất ven sông. Tuy nhiên, dòng sông này đã và đang phải đối mặt với những áp lực lớn: biến đổi khí hậu, phát triển thủy điện, tranh đấu xuyên biên giới, nguy cơ sinh thái… Năm 2025 cũng là năm Viện Pháp tại Việt Nam hợp tác với nhiều đơn vị chức năng Việt Nam trong dự án « Sống cùng các dòng sông » bao gồm sông Mê Kông và sông Hồng, nhằm nâng cao và bảo vệ các dòng sông Việt Nam, để ứng phó với những thử thách không ngừng nghỉ về nhiều mặt : kinh tế, xã hội, môi trường (lũ lụt, hạn hán, nước biển ngày càng dâng cao, các hiện tượng thời tiết cực đoan). Dự án kêu gọi sự tham gia của nhiều chuyên gia từ hai phía Pháp – Việt và mở rộng 3 lĩnh vực : khoa học – môi trường, đô thị - quy hoạch, giáo dục – đào tạo. Chương trình này song hành cùng dự án nêu trên, nhân đó tạo điều kiện cho việc kết hợp, giao lưu hai nền văn hóa và âm nhạc Pháp-Việt vốn đã được thai nghén từ 2 năm trước, sau rất nhiều tìm hiểu qua hình ảnh và lịch sử của 2 dòng sông. Dự án sẽ đưa khán thính giả vào một hành trình xuyên thời gian, từ năm 1800 đến nay, xuôi theo dòng nước, từ Loire đến Mê Kông. « Nước » là điểm nhấn nhằm nêu lên các thách thức về sinh thái, kinh tế, chính trị hay văn hóa. Tình bạn Việt - Pháp « Theo dòng chảy » đưa chúng ta hòa nhập vào một hành trình âm nhạc, xây dựng cầu nối và trí tưởng tượng giữa hai dòng sông, như thể chúng ta cùng đến từ một dòng nước, một dòng máu, một nhịp đập, một dân tộc, một đất nước.  Dự án này phản ánh những cam kết đã được đưa ra tại Hội nghị Đại dương Liên Hiệp Quốc vào ngày 5 tháng 6 vừa qua tại thành phố Nice mà nghệ sĩ Dana Ciocarlie cùng một số nghệ sĩ khác được dịp trình diễn trước một cử tọa lên đến 15 ngàn người bao gồm các nghiên cứu gia, nguyên thủ quốc gia, các đại biểu từ hệ thống Liên Hiệp Quốc, các tổ chức liên chính phủ, các tổ chức tài chính, học viện, xã hội dân sự v v… Trong chuyến lưu diễn sắp tới, nghệ sĩ Dana Ciocarlie sẽ độc tấu các tác phẩm của Henri Dutilleux, Francis Poulenc và Emmanuel Chabrier, lấy cảm hứng từ di sản sông Loire, cũng như các tác phẩm đương đại như « Đại dương » của Tôn Thất Tiết và « Ra khơi » của Edith Canat de Chizy, mang âm hưởng nước và thơ. Chương trình sẽ càng thêm phong phú trong bầu không khí du dương và gợi cảm từ các tác phẩm « Khúc dạo đầu » của Élise Bertrand, « Những ngày mưa » của Marie Jaëll, và « Phù du » của Philippe Hersant, lấy cảm hứng từ thơ haiku Nhật Bản. Các tác phẩm tiêu biểu của Ravel, Debussy, Enesco và Fauré sẽ gợi thêm hình ảnh, màu sắc, âm hưởng của nước và thiên nhiên. Trả lời RFI Tiếng Việt, Dana Ciocarlie cho biết bà cảm thấy mình có nhu cầu truyền tải và chia sẻ kinh nghiệm qua việc dạy học. « Chính nhu cầu chia sẻ này đã thúc đẩy tôi đi lưu diễn; trong cuộc đời nghệ sĩ của tôi, khía cạnh này là một trong những phần phong phú nhất, cả về mặt nhân văn lẫn nghề nghiệp, và tôi đặc biệt trân trọng việc gặp gỡ các nhạc sĩ trẻ ở những quốc gia tôi đến thăm. ». Bà còn cho biết tình bạn Việt-Pháp đã cho bà ý tưởng giảng dạy Master-class cho các học sinh trường nhạc ở Huế và Saigon, đồng thời mang âm nhạc về Việt Nam, tập trung vào hai chủ đề chính : vai trò của một nữ nghệ sĩ ủng hộ âm nhạc của các nhà soạn nhạc nữ ngày nay và vai trò của một sứ giả, làm cầu nối giữa hai dòng sông. « Trong ba năm qua, tôi rất may mắn được hợp tác chặt chẽ và thu âm các tác phẩm của hai nữ nhạc sĩ thuộc hai thế hệ khác nhau : Edith Canat de Chizy, một học viện gia, và Elise Bertrand, một nhạc sĩ trẻ. Những khoảnh khắc bên họ đã mang lại cho tôi nhiều cảm hứng và soi sáng thêm sự nghiệp trình diễn của tôi. » Phải nói là dịp gần nhất Việt Nam đón tiếp một nữ nghệ sĩ Pháp là vào năm 2016, Célimène Daudet, tức đã 9 năm kể từ lần đó. Chương trình biểu diễn này sẽ không dừng ở đây. Trong tương lai sẽ có một dự án tương tự được thực hiện ở vùng Centre-Val de Loire, nơi hoạt động của hiệp hội Novelette. Mời các độc giả/thính giả đón xem hình ảnh tin tức từ chuyến đi sắp tới của nghệ sĩ Dana Ciocarlie qua trang văn hóa của RFI Tiếng Việt nhé.
Từ 3.000 khán giả trong những năm đầu thành lập, Festival d’Avignon 2025 thu hút hơn 500.000 khán giả chỉ trong ba tuần tháng 07. Tổng cộng 43 buổi diễn, hai triển lãm và hơn 200 sự kiện lớn nhỏ trong chương trình chính thức “IN” và 1.785 vở diễn trong chương trình biểu diễn phi chính thức “OFF” được tổ chức song song. Cả thành phố Avignon trở thành sân khấu ngoài trời, những con phố nhộn nhịp từ sáng đến khuya trong tiếng nhạc, tiếng rao quảng cáo buổi diễn và không khí hội hè. Tại sao Liên hoan Avignon lại thành công như vậy? Hiện tại, chưa có thống kê chính thức về mùa liên hoan 2025 nhưng các nhà tổ chức khẳng định thành công hơn năm 2024. Số lượng khách đến Avignon năm 2025 đạt mức kỷ lục từ năm 2016. Những con số này cũng khẳng định danh tiếng của liên hoan trên quy mô thế giới, mô hình tổ chức. Mô hình Festival d’Avignon đã được “xuất khẩu” sang nhiều nước, như Đức, Scotland, Mêhicô và kể cả Việt Nam với Festival Huế đầu những năm 2000. Biến Liên hoan Avignon thành hiện tượng văn hóa quần chúng Trả lời RFI Tiếng Việt tại Avignon, giáo sư sử học Antoine de Baecque, trường Sư phạm Ulm, phụ trách triển lãm Les Clés du Festival (Những chìa khóa của Liên hoan), do Hội Jean Vilar đồng tổ chức với Thư viện Quốc gia Pháp - BNF, nhấn mạnh yếu tố đầu tiên giải thích cho thành công này là biến Festival d’Avignon thành “hiện tượng nghệ thuật quần chúng”, thành một “thói quen văn hóa” : “Liên hoan Avignon đã trở thành một sự kiện văn hóa lớn ở Pháp vào mùa hè và vẫn luôn thu hút các tệp khán giả rất đa dạng. Có khoảng 40 vở diễn trong chương trình chính thức “IN” và gần 1.800 vở diễn trong chương trình phi chính thức “OFF” vào mỗi kỳ Festival được tổ chức tháng 07 hàng năm. Liên hoan đã thu hút đông đảo công chúng. Đây là điều mà Jean Vilar mong muốn và được tất cả các giám đốc Liên hoan sau này duy trì”. Thành công rực rỡ của năm 2025 còn được giải thích qua việc tổ chức cùng lúc hai Festival chính thức “IN” và không chính thức “OFF”. “Đông công chúng sẽ bảo đảm lợi ích về văn hóa và kinh tế”, theo giám đốc Liên hoan Avignon, nhà soạn kịch người Bồ Đào Nha Tiago Rodrigues. Trước tiên là cho các nhà làm du lịch, nhà hàng, khách sạn, lưu trú. Tiếp theo là tạo nguồn thu chủ lực cho thành phố và ban tổ chức để chuẩn bị cho kỳ liên hoan sau, cũng như đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Giám đốc Tiago Rodrigues khẳng định Festival d’Avignon đã khiến mỗi euro tài trợ công được lời gấp 6 lần, “khi một du khách đến liên hoan chi 10 euro, thì hai euro dành cho festival, 8 euro còn lại là cho địa phương”. Tuy nhiên, để sự kiện văn hóa trở thành nguồn thu chủ lực là cả một quá trình dài biến Liên hoan thành hoạt động văn hóa quần chúng, phổ quát, để kịch, sân khấu chạm tới khán giả. Nhà phê bình điện ảnh, sử gia Antoine de Baecque giải thích : “Mong muốn của Jean Vilar, người từng chỉ đạo Nhà hát Bình dân Quốc gia, là phổ biến đến công chúng, cho nên ông chủ trương tiếp cận những người thường không đến nhà hát, những người phần nào sợ sân khấu hoặc nói rằng “Ôi, chuyện đó không dành cho tôi, nó quá phức tạp”. Đi tìm khán giả, có nghĩa là phải có chính sách trong các công đoàn vào thời điểm đó. Hiện tại, việc này được truyền tải rất nhiều thông qua trường học, học sinh, sinh viên hoặc người đã nghỉ hưu để thu hút họ, không phải chỉ tới một lần mà khi đã tới rồi, đôi khi họ sẽ quay lại, để theo thời gian, họ trở thành người hâm mộ sân khấu. Nhưng đúng, một trong những đặc điểm của Liên hoan Avignon ngay từ những ngày đầu tới nay, đó là mang đến sân khấu đương đại nhất, có thể nói là sân khấu tiên phong, tới đông đảo khán giả. Đây chính là điều làm nên thành công của Liên hoan Avignon”. Để sân khấu “dễ hiểu” với công chúng Không chỉ dừng ở sân khấu với những sáng tác của mình, Jean Vilar, người được coi là cha đẻ của Festival d’Avignon, đã nảy ra ý tưởng mời những tác giả khác và đưa nhảy, múa vào Liên hoan ngay những năm 1966-1967, cộng tác với nghệ sĩ múa nổi tiếng Maurice Béjart. Festival d’Avigonon hiện trở thành điểm tham chiếu cho vũ đạo. Và trang phục biểu diễn được Jean Vilar chú trọng ngay những ngày đầu để làm cầu nối, truyền tải điều tưởng chừng là trừu tượng tới khán giả, theo giải thích của sử gia Antoine de Baecque : “Rất nhiều lần Jean Vilar dàn dựng sân khấu với những thứ rất đơn giản, với những mảng màu rực rỡ, ấn tượng, ví dụ trang phục có vai trò rất quan trọng. Và chủ ý của mỗi lần như vậy là đem đến cho đông đảo khán giả những tác phẩm kinh điển tuyệt vời, có rất kịch của Shakespeare, của Molière. Có thể thấy là có những cuộc hội ngộ giữa khán giả với những tác phẩm cổ điển. Không có chuyện dễ dãi chiều theo ý khán giả hoặc đề xuất những điều dễ dàng, đó là những tác phẩm khó, nhưng chính bởi vì khó nên công chúng cũng quan tâm để nâng cao văn hóa. Liên hoan Avignon không giống trên truyền hình, người ta xem những chương trình đòi hỏi khắt khe, thậm chí đôi khi là hơi khiêu khích, gây phản ứng, nhưng công chúng cũng thích điều đó, đến Avignon cũng vì điều đó”. Công chúng không chỉ đơn thuần là khán giả, thụ động mà được coi là một nghệ sĩ khác, tham gia vào đời sống Liên hoan Avignon. Vẫn nhà sáng lập Jean Vilar nảy ra ý tưởng giao lưu với công chúng, qua chương trình Les Rencontres du Verger (tạm dịch : Gặp nhau trong vườn) trong vườn của cung điện giáo hoàng. Từ đó, Liên hoan luôn là một địa điểm đặc biệt cho các cuộc gặp gỡ, đối thoại chính thức và không chính thức giữa khán giả, người dân địa phương và nghệ sĩ. Cả thành phố biến thành sân khấu lớn ngoài trời Một điểm đặc biệt khác, có một không hai, là cả thành phố Avignon trở thành một nhà hát khổng lồ. Bất kỳ ngóc ngách nào cũng có thể trở thành sân khấu. Áp phích quảng cáo của chương trình “OFF” được giăng trên cây, dán kín trên trường, dọc các hàng rào, phấp phới trên các ban công, cửa sổ... Bước qua cổng thành, du khách bị bất ngờ vì những “bức tranh tường” rực rỡ, đặc sắc. Rồi những tiếng rao, biểu diễn múa, tiếng  trống, tiếng nhạc... tất cả để nhằm thu hút sự chú ý của người qua đường, những khán giả tương lai. Hơn 1.200 đoàn kịch, gần 1.800 buổi diễn trong chương trình "OFF" ở hơn 250 địa điểm. Những con số này cho thấy sự cạnh tranh gay gắt giữa các đoàn kịch và quy mô tổ chức của liên hoan. Sử gia Antoine de Baecque giải thích : “Chương trình của một liên hoan Avignon thường được chuẩn bị từ một năm trước. Còn địa điểm thường được dựng trước hai, ba tháng, bắt đầu từ tháng 4 để sẵn sàng vào cuối tháng 6 khi các đoàn nghệ sĩ biểu diễn đến tập dượt. Điều đặc biệt ở Avignon là không có nơi nào, trước đó được coi là dành cho sân khấu. Nhà thờ, công trình, tu viện, phòng tập thể dục, trường trung học, thậm chí là các mỏ trước đây cũng có thể được biến thành sân khấu. Tất cả phải được hoàn thiện hiệu quả, bởi vì những chương trình được tổ chức ở Avignon thường là những chương trình có công nghệ cao với những đạo diễn tài ba hiện nay”. Thành công vượt khỏi biên giới Liên hoan Avignon còn là nơi phản ánh những chủ đề chính trị, xã hội. Năm 2025 cũng không phải là ngoại lệ. Nhiều cuộc tập hợp, tuần hành ủng hộ người dân Palestine cũng được tổ chức. Ngoài ra, nội dung và hình thức kịch cũng cho thấy chủ trương hướng ra thế giới của Liên hoan. Rất nhiều vở diễn, tác phẩm nước ngoài được mời đến trình diễn, giới thiệu tại Avignon. Mỗi năm là một ngôn ngữ được chọn làm khách mời danh dự. Sau năm 2025 đề cao tiếng nói và văn hóa Ả Rập, Hàn Quốc sẽ là khách mời của Liên hoan 2026. Mô hình Liên hoan Avignon đã được “xuất khẩu” sang nhiều nước, theo giải thích của giáo sư Antoine de Baecque : “Liên hoan Avignon có thể được coi là một mô hình. Có rất nhiều bản sao Liên hoan Avignon, ví dụ ở Edinburgh, Scotland hoặc ở Mêhicô. Đây là một khuôn khổ được tạo ra để có thể sao chép ở hầu hết mọi nơi trên thế giới. Điều thú vị là Việt Nam thỉnh thoảng cũng xuất hiện ở Avignon. Có nhiều thời điểm nghệ thuật truyền thống Việt Nam được giới thiệu ở Avignon, như trong những năm 1980. Hoặc gần đây có vở kịch Sài Gòn của Caroline Guiela Nguyen. Câu chuyện diễn ra tại một nhà hàng Việt Nam, giữa Việt Nam và Pháp và Paris, cho thấy một chút về những diễn biến trong thời kỳ thuộc địa và cho đến ngày nay, giữa Việt Nam và Pháp. Đó là một vở kịch rất quan trọng trong lịch sử Liên hoan”. Trước đó, Việt Nam cũng xuất hiện trong OFF những năm 2009 với vở tuồng Ti An Antigone Việt Nam do nhà hát Monte-Charge của thành phố Pau (miền nam Pháp) dàn dựng với Nhà hát Tuồng Việt Nam, hoặc năm 2011 với vở hài Nhẫn và Dương do hai nghệ sĩ thuộc Liên đoàn Xiếc Hà Nội và hai nhạc công thuộc Viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.   Mô hình Festival d’Avignon cũng được “du nhập” vào Việt Nam. Sau thành công của Liên hoan gặp gỡ Huế 1992 giữa thành phố Huế và CoDev (Hội đồng vùng Paris mở rộng), tỉnh Thừa Thiên-Huế cũng muốn tổ chức một liên hoan có quy mô, chất lượng cao để quảng bá văn hóa, truyền thống ra quốc tế và giao lưu với các đoàn khách mời thế giới. Festival Pháp-Việt đầu tiên được tổ chức năm 2000, thu hút 30 đoàn nghệ sĩ Việt Nam và Pháp, hơn 410.000 khách tham quan. Đến năm 2010, sự kiện được đổi tên thành Festival Huế. Đến năm 2025, Festival Huế được xây dựng theo định hướng bốn mùa, tổ chức sự kiện, lễ hội liên tục trong cả năm, để tránh “bội thực” vào mùa hè, phù hợp với đặc trưng của một thành phố Festival mà cố đô theo đuổi.
Trụ sở của SDECE (Service de Documentation Extérieure et de Contre-Espionnage), cơ quan tình báo đối ngoại quân đội Pháp) tại Paris, Rose McConaughey vừa từ miền Bắc Việt Nam trở về và báo cáo về cuộc “chạm trán” với Florence, một điệp viên Pháp nằm vùng ở nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ gần 30 năm. Tại sao Florence không còn cung cấp tin tức từ vài năm qua ? Florence đã phản bội ? Vở kịch Hongaï (Hòn Gai) của đoàn Collectif Rue 46 được bắt đầu trong bối cảnh như vậy. Những lời kể của Rose được chuyển cảnh, thành thực tế, từ Paris sang Hà Nội, từ văn phòng của SDECE sang nhà của Florence. Cả vở kịch có 15 giai đoạn, 50 nhân vật, ba lục địa Á, Âu, Mỹ. Khán giả được đưa từ Việt Nam của những năm 1970 ngược lại Pháp trong giai đoạn giữa hai Thế Chiến, rồi lại sang New York trong những năm 1950. Tất cả liên quan đến một gia đình Pháp-Việt sống ở Hòn Gai đầu thế kỷ 20. Cuộc sống an nhàn, bình yên của họ trở nên sóng gió, bị thay đổi hoàn toàn vì những biến động của thế giới, vì những sự kiện lịch sử. Cảm nhận chung của khán giả khi Hongaï hạ màn là hồi hộp, bất ngờ đến phút chót. Một vở kịch nhưng đầy kịch tính, diễn biến nhanh như một bộ phim trinh thám, gián điệp. Một bức tranh lịch sử được dàn dựng rất sáng tạo và thành công, sự đan xen khéo léo giữa các nhân vật ở nhiều độ tuổi khác nhau trong cùng một cảnh, không làm người xem bị mất phương hướng cùng với những lời thoại đẹp và diễn xuất của diễn viên”. Hongaï là một vở diễn rất khác so với những gì chúng ta thường thấy ở thể loại này. Cốt truyện tinh tế và thú vị, dàn dựng mạch lạc và hiệu quả, các diễn viên nhập vai một cách xuất sắc, tràn đầy năng lượng! (Ý kiến của khán giả trên trang BilletReduc) Đằng sau thành công này là đoàn kịch Collectif Rue 46 và tác giả, đạo diễn kiêm diễn viên La Belle Époque. Tại Liên hoan Avignon 2025, RFI Tiếng Việt đã gặp và phỏng vấn La Belle Époque và nghệ sĩ Franck Milin, nhập vai điệp viên Florence trong Hongaï. RFI : Xin chào anh La Belle Époque và Franck Milin. Hongaï là một câu chuyện được nghiên cứu theo chiều hướng lịch sử. Ý tưởng được hình thành như thế nào ? La Belle Époque : Về cơ bản, tôi muốn một câu chuyện kể về một người đi tìm một người đã mất tích từ lâu, từ cả hàng chục năm trước. Về một nơi xa xôi nào đó, tôi nghĩ có thể chọn giữa Nam Mỹ hoặc châu Á. Tôi bị cuốn theo hướng châu Á ngay bởi vì bà tôi sinh ra ở Việt Nam, nên điều đó rất có ý nghĩa với tôi. Và thế là hình thành câu chuyện kể về việc đi tìm một người mất tích từ lâu ở Việt Nam. Ngay sau đó, tôi nảy ra ý tưởng về gián điệp vì tôi đam mê những câu chuyện gián điệp. Tôi đã nghe rất nhiều podcast của Radio France có tên là Espion, une histoire vraie (Điệp viên, một câu chuyện có thật). Đó là những câu chuyện có thật, khá hấp dẫn bởi vì hành trình của những điệp viên đó khá là lãng mạn. Qua những câu chuyện đó, tôi cũng hiểu được rằng đôi khi động cơ của họ mang tính ý thức hệ ít hơn là cảm xúc, và chúng gắn liền với cuộc đời, tình yêu và gia đình. Thế là tôi tự nhủ đó sẽ là một câu chuyện gián điệp, sẽ có cựu điệp viên người Pháp, Gustave Duong, mật danh Florence, nằm vùng từ thời chiến tranh Đông Dương. Tiếp theo là có thêm điệp viên CIA, Rose McConaughey, được cử thay mặt cho Cơ quan tình báo đối ngoại của Pháp - SDECE để hồi hương hoặc giết chết Florence. Phải kiểm tra xem điệp viên nằm vùng đó có phải là kẻ phản bội hay không. Và đó là điểm khởi đầu của câu chuyện, và cuộc gặp gỡ giữa hai điệp viên này. Chúng ta bước vào cuộc sống, quá khứ của họ và khám phá ra rất nhiều điều. RFI : Có 30 nhân vật, trải qua 15 thời kỳ khác nhau và trên ba lục địa (Á, Âu, Mỹ). Làm thế nào để có thể thay đổi từ giai đoạn này sang giai đoạn khác, bởi vì hiểu được một chút về lịch sử gia đình hoặc một giai đoạn đã là phức tạp trong khi ở đây, vở kịch có đến 15 giai đoạn khác nhau ? La Belle Époque : Thực ra, viết về cuộc đời của các nhân vật, của hai nhân vật chính, mới là điều khó nhất, làm sao cho được mạch lạc từ đầu đến cuối. Sau khi tôi viết xong, chúng tôi trộn mọi thứ một chút, theo kiểu cảnh này sẽ hợp với chỗ này, cảnh kia hợp với chỗ kia. Đó là kiểu hiệu ứng mà tôi muốn, có nghĩa là nhảy từ giai đoạn này sang giai đoạn khác, từ thập niên 1930 sang 1950, từ đầu thế kỷ chuyển sang những năm 1970. Khán giả có thể thấy mất phương hướng một chút nhưng thường thì vẫn hiểu được mọi chuyện vào cuối vở kịch. RFI : Điều gây ấn tượng cho khán giả là bối cảnh và giai đoạn được thay đổi rất nhanh trên sân khấu nhỏ, trong thời gian rất ngắn. Franck Milin : Đó là nhờ khâu dàn dựng và ánh sáng, đặc trưng cho một địa điểm, một khoảnh khắc cụ thể, và cả nhịp độ trong hậu trường nữa. Hãy đến hậu trường xem chuyện gì diễn ra đằng sau cánh gà (cười) ! Các màn thay trang phục, chuyển âm nhạc nhanh một cách kinh ngạc. RFI : Ngoài ra còn có thể thấy những lời giải thích giống như trong phim hành động, tình báo CIA của Mỹ, ví dụ tại địa điểm này, giai đoạn này hoặc ngày tháng này… để khán giả theo được mạch câu chuyện. Franck Milin : Chính xác. Đó là nhờ dàn dựng, theo kiểu kết hợp kịch và một chút điện ảnh qua kiểu thông báo các địa điểm. La Belle Époque : Đúng vậy. Có một khía cạnh rất điện ảnh trong đó, như Franck đã nói, với rất nhiều âm nhạc, nhịp độ khá nhanh, và rất nhiều video. Tôi thực sự thích điều đó, tôi rất thích phim truyền hình, điện ảnh, và tôi muốn thêm một chút khía cạnh đó vào kịch. RFI : Khán giả như bị cuốn vào một bộ phim gián điệp với rất nhiều chi tiết hoặc thông tin lịch sử dù là câu chuyện hư cấu. Anh đã làm việc như thế nào về mặt đó ? La Belle Époque : Tôi tìm kiếm rất nhiều về lịch sử. Thực ra, tất cả các nhân vật đều là hư cấu và không tồn tại nhưng tất cả các sự kiện trong vở kịch là thật. Cho nên mọi ngày tháng, thậm chí mọi thời điểm, đều được xác minh. Ví dụ việc ký kết Hiệp ước Đức-Liên Xô, Thế Chiến II kết thúc, tiếp theo là việc ký kết Hiệp định Paris chấm dứt Chiến tranh Việt Nam vào ngày 27/01/1973 mở ra trang mới. Mỗi bước ngoặt trong kịch đều trùng với ngày tháng của các sự kiện lịch sử lớn. Franck Milin : Chúng tôi, với tư cách là diễn viên, cũng phải tự tìm hiểu một chút. Trước một kịch bản với cốt truyện chứa nhiều yếu tố lịch sử, chúng tôi cũng phải chú ý đến những gì mình đang diễn. Thêm vào đó, đoàn kịch của chúng tôi gồm những người đam mê lịch sử. RFI : Về mặt kỹ thuật, hoàn toàn có thể hóa thân thành nhiều nhân vật khác nhau nhờ hóa trang. Nhưng làm thể nào để sống trong nhân vật đó, thể hiện được nhân vật đó trong khi một nghệ sĩ đảm nhiệm nhiều vai và thời gian chuyển vai rất nhanh và rất ngắn ? La Belle Époque : Mỗi lần như vậy, cần phải tự hỏi nhân vật này là ai, động cơ của họ là gì, và phải thể hiện nhân vật đó như thế nào. Đó là cả một công trình nghiên cứu. Chúng tôi đã dành rất nhiều thời gian cho nó. Vở kịch là một sáng tác cho Liên hoan Avignon. Đây là lần đầu tiên chúng tôi tham gia Liên hoan này. Nhưng chúng tôi đã chuẩn bị cho vở kịch này trong suốt hai năm và làm việc rất nhiều. Tôi bắt đầu viết vào tháng 06/2023, có nghĩa là được hai năm rồi. Và sau đó, chúng tôi bắt tay vào việc từ đầu năm 2024. Và sau đó, tất cả chúng tôi đều tự hỏi bản thân rất nhiều, thử thách bản thân về các nhân vật. Franck Milin : Chúng tôi dành rất nhiều tâm huyết cho tất cả những nhân vật phụ. Về những nhân vật chính, tôi nghĩ rằng trong quá trình xây dựng nhân vật với tư cách là diễn viên, hành trình của họ khá rõ ràng và nhanh chóng. Còn những nhân vật phụ, những người thêm thắt những chi tiết nhỏ vào câu chuyện chúng tôi kể, thì vẫn cần thêm một chút công sức trên sân khấu, một chút suy ngẫm cá nhân của diễn viên, và thảo luận với đạo diễn. Đó là một quá trình xây dựng nhân vật, hiểu thêm một chút những thách thức của từng người. RFI : Vở kịch mang tên Hongaï nhưng người ta có cảm giác không có mối liên hệ nào với câu chuyện gián điệp. Tuy nhiên, khi xem vở kịch, người ta hiểu rằng đó là nơi câu chuyện bắt đầu. La Belle Époque : Đúng vậy, Hòn Gai là nơi bà tôi sinh ra. Rồi Chiến tranh Đông Dương nổ ra, bà rời Đông Dương vào năm 1951 cùng với gia đình. Và họ chưa bao giờ trở lại, mặc dù nơi đó là cả tuổi thơ của họ. Tôi lớn lên đắm chìm trong câu chuyện phi thực dân hóa giữa Pháp và Việt Nam. Và sự kiện đó đã truyền cảm hứng cho câu chuyện này bởi vì cuộc sống của bà tôi và người thân bị đảo lộn bởi những sự kiện của thế kỷ 20. Tôi không muốn kể câu chuyện của tổ tiên mình, mà là câu chuyện của tất cả những người đã sống qua những biến động lớn, các cuộc chiến tranh thế giới, Chiến tranh Lạnh, phi thực dân hóa… Và đó chính là nguồn cảm hứng cho câu chuyện. Vậy nên, tên vở kịch là Hongaï như một lời tri ân. Và nó như một lời mời chu du, cho nên tấm áp phích của vở kịch được lấy hình ảnh vịnh Hạ Long. Thực ra, đúng như chị nói, người ta hiểu được ý nghĩa khi xem vở kịch. Tôi muốn nói với khán giả rằng trong câu chuyện Hongaï, đó là nơi mọi thứ bắt đầu và cũng là nơi mọi thứ kết thúc. RFI : Tên của đoàn kịch Collectif Rue 46 cũng gây tò mò. Tại sao lại là tập thể - collectif ? Và tại sao lại là Rue 46 ? Franck Milin : Nhóm đã tồn tại khoảng mười năm. Tại sao lại là “tập thể” mà không phải là “hội”, bởi vì đó là một gia đình phát triển qua từng dự án. Tôi coi đó là một gia đình mà vai trò của mỗi người không phải là cố định. Nghĩa là, họ có thể là diễn viên trong dự án này, rồi lại là đạo diễn trong một dự án khác, hoặc là quản lý sân khấu hoặc thiết kế bối cảnh. Có nghĩa là vai trò luôn luôn thay đổi. La Belle Époque : Ví dụ, tôi đóng trong Richard III của Shakespeare. Tôi đóng cùng Franck và Cyrielle Buquet, hai nghệ sĩ đóng nhân vật chính trong Hongaï. Chúng tôi vẫn đổi vai tùy theo dự án. Franck Milin : Và tên của nhóm ra đời từ trải nghiệm sân khấu đầu tiên mà chúng tôi thực hiện cùng nhau, đó là vở 46, Wessex Grove, được Jean-Philippe Brayé chuyển thể và đạo diễn từ tác phẩm The Homecoming của Harold Pinter. Và đó là lý do tại sao tên của nhóm được gọi là Collectif Rue 46. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn La Belle Époque và Franck Milin, đoàn kịch Collectif Rue 46.
Album Medusa của diva Annie Lennox chính thức bước sang tuổi 30 vào năm 2025. Tuyển tập ca khúc trong Medusa đã nghĩa lại cover tác phẩm kinh điển qua nhãn quan của diva hàng đầu. Tầm vóc diva nước Anh Anniex Lennox là trụ cột, ca sỹ/nhạc sỹ chính của nhóm nhạc Eurythmics, Anh Quốc cùng với tay guitar kiêm nhạc sỹ Dave Steward. Bộ đôi gặt hái thành công vang dội trong thập niên 1980 nhờ các bản hit như Sweet Dream, Here comes the rain theo trào lưu synth-pop, new wave. Sinh năm 1954 tại Aberdeen, Scotland (Anh), bà tạo ấn tượng mạnh nhờ phong cách nổi loạn: tóc ngắn, nhuộm màu cam, mắt tô chì đen lạnh lùng. Sau thành công của nhóm Eurythmics, Annie Lennox tách ra hát solo bằng album kinh điển Diva (1992). Abum này được giới phê bình và khán giả đón nhận nồng nhiệt với nhiều bản hit như Why (Tại sao), Walking on broken glass (Bước trên thủy tinh vỡ). Nhờ chất giọng contralto, Annie có dấu riêng bản sắc giọng và ca khúc đậm chất thơ với nhà sản xuất Stephen Lipson. Các ca khúc gắn tới tên tuổi bà được chăm chút kỹ lưỡng từ giai điệu, ca từ, phối khí. Đáng chú ý  Annie Lennox là đồng tác giả sáng tác nhiều ca khúc trong album Diva. Album Medusa gây tranh cãi Medusa, album solo thứ hai trong sự nghiệp của nữ diva Scotland, sản xuất năm 1995 lại tạo nên tranh luận trái chiều. Toàn bộ album hát lại (cover) các tác phẩm kinh điển của Neil Young, Bob Marley, Al Green. Hình bìa album, Annie Lennox hóa thân thành quái vật Medusa có sức mạnh “hóa đá” người nghe. Tờ AllMusic cho rằng Annie Lennox chọn đôi giày quá rộng và quá sức của diva, nên chăng tập trung vào một thể loại có thế mạnh. Tờ Rollingstone ưu ái hơn với album Medusa, cho rằng nỗ lực của Annie Lennox ngang ngửa album solo đầu tay Diva. Ca khúc mở màn và đinh nhất của album là No More I love you (Em không còn yêu anh) hát lại của nhóm Lover Speaks. Bản gốc của nhóm nhạc Anh chỉ lọt vào hạng 58 bảng xếp hạng Anh Quốc, nên rất ít tiếng tăm. Nhờ bàn tay phù thủy nhà sản xuất Stephen, bản cover có cấu trúc rõ nét và mạch lạc. Diva thể hiện lối hát liêu trai cùng chất giọng đặc trưng. Bà đẩy được cao trào bản nhạc, luyến láy và tạo được bản sắc cá nhân. Lớp phối khí dày và chất giọng diva bay bổng trong bản cover mà khán giả quên hẳn bản gốc. Ca khúc leo lên hạng nhì bảng xếp hạng Anh và giành giải Grammy 1995 – Trình diễn pop xuất sắc nhất. Ví dụ này cho thấy sự độc đáo trong cách làm mới ca khúc nhờ khai thác giai điệu cốt lõi và thế mạnh của ca sỹ thể hiện. Thành công thương mại Album gặt hái thành công thương mại đáng kể nhờ bản hit No more I love you. Album đứng thứ 11 trong bảng xếp hạng Billboard 200 album bán chạy nhất tại Mỹ cùng năm. Con dao hai lưỡi của No more I love you khiến cho các đĩa đơn tiếp theo trong album bị đặt lên bàn cân. Đĩa đơn thứ hai, A Whiter Shade of Pale, hát lại bản gốc nhóm rock Anh, Procol Harum năm 1967. Bản nhạc gốc có giai điệu khá hấp dẫn với ca từ khó hiểu với nhiều tầng lớp ẩn dụ văn học. Đại ý tình cảm nam nữ phát sinh sau khi đã say men trong bữa tiệc đêm hè. Bản phối tao nhã nhờ tiếng keyboard nền nã làm nền chắc chắn cho giọng ca Annie. Một tác phẩm khác được bà hát lại, Take me to the river (Đưa em tới con sông) của Al Green. Bản nhạc gốc được thể hiện theo thể loại R&B và soul còn diva kịch tính hơn với chất pop/rock. Trong Don’t let it bring you down (Đừng để điều đó khiến bạn thất vọng), nhà sản xuất đem tới hơi thở mới cho bản gốc của nam rocker Neil Young. Phần intro (mở bài) có giai điệu rất bắt tai và phần kết thúc có độ ngân nga kéo dài. Chất giọng nữ cao của Annie làm chủ được cuộc chơi, phơi bày được giai điệu cuốn hút nhất. Kỹ thuật và bản năng âm nhạc Đề cập tới phổ âm nhạc rất rộng trong album, Annie chia sẻ : “Album tuyển chọn những bài hát tôi bị thu hút bởi nhiều lý do. Tôi không chọn dựa trên chủ đề hay nội dung cụ thể mà chỉ là bản năng âm nhạc hơn là sự tính toán. Tôi rất biết ơn cơ hội này vì sản phẩm này thực sự là lao động nghệ thuật đích thực.” Giải thích của Annie cho thấy bản năng nghệ thuật mạnh mẽ của bà kết hợp cùng kỹ thuật đỉnh cao. Thách thức của tác phẩm kinh điển của nhóm pop/rock thập niên 1960,70 như The Clash, Temptation, Paul Simon không làm nản lòng Annie. Tuy là album cover, nữ diva biết cách phiên dịch ngôn ngữ và giai điệu âm nhạc theo bản sắc của riêng bà. Tờ Metro Weekly cho rằng bà thâu tóm được giai điệu chủ đạo bài hát và thể hiện chất giọng đặc biệt của mình trên nền giai điệu cô đọng đó. Bản nhạc Train in vain hay I can’t get next to you là món ăn mới lạ cho những khán giả quen thuộc công thức gốc nhờ tiết tấu beat mạnh mẽ và guitar Tây Ban Nha. Không thể phủ nhận vai trò nhà sản xuất Stephen trong việc chế biến “bữa tiệc” âm thanh phong phú trong Downtown Lights hay The Thin Line Between Love and Hate (Ranh giới giữa yêu và hận thù). Đĩa đơn thứ ba của album, Waiting in vain (Chờ đợi vô vọng) là thành công khác của album. Annie thể hiện bản tình ca rất nền nã, lắng đọng trên giai điệu guitar so với bản nhạc raggage gốc của Bob Marley. Nếu đặt các bản gốc và bản cover cạnh nhau, khán giả mới cảm nhận sự khác biệt và mức độ sáng tạo đỉnh cao. Cho dù làm mới ở mức độ nào, người nghe nhận ra chất giọng và lối thể hiện dấu ấn cá nhân của Annie Lennox. Bản phối mới có sự đầu tư kỹ lưỡng , tính toán tỷ mỉ sao thể hiện ý đồ của nữ diva. Ba thập kỷ trôi qua, album Medusa (1995) được đánh giá là một trong các sản phẩm xuất sắc trong sự nghiệp solo của diva Annie Lennox. Tuyển tập ca khúc trong Medusa định nghĩa lại một cách hoàn hảo thế nào là hát lại những bản nhạc kinh điển. Không nhiều nghệ sỹ xuất sắc hơn Annie Lennox, làm mới toàn diện, chắt chiu linh hồn bài hát gốc. Quan trọng nhất, nữ điva thể hiện bản sắc cá nhân nổi bật. (Theo All Music, Metro Weekly, Rollingstone, Wikipedia)
Phim ảnh không chỉ là phương tiện giải trí, mà còn là một công cụ quảng bá khá hữu hiệu giúp phát triển ngành du lịch. Theo khảo sát gần đây của mạng đặt phòng Expedia, điện ảnh và phim truyền hình đã trở thành nguồn thúc đẩy du lịch hàng đầu, mạnh hơn cả mạng xã hội. Phim ảnh mở ra nhiều cơ hội quảng bá hình ảnh của các vùng miền, con người và văn hóa, nhờ tạo thêm thiện cảm mà thuyết phục du khách đến thăm một đất nước. Phim chiếu rạp hay phim truyền hình nhiều tập, nhờ vào lối kể chuyện hấp dẫn, dễ lôi cuốn khán giả vào những hành trình thú vị, thường khác xa với cuộc sống thường ngày. Những cảnh phim đẹp thường gợi lên trong lòng khán giả mong muốn ghé chân đến thăm những nơi họ từng được xem trong phim. Trên thế giới, có rất nhiều nước đang khai thác tiềm năng của phim ảnh để thu hút khách du lịch. Thực tế cho thấy trong những năm 2001-2004 , số du khách quốc tế đến thăm New Zealand đã tăng 50%, nơi từng quay loạt phim thần thoại « The Lord of the Rings » (Chúa tể các chiếc nhẫn). Còn tại Vương quốc Anh, trong giai đoạn 2011-2014, loạt phim phù thủy « Harry Potter » đã nhân lên hơn gấp đôi số du khách nước ngoài đến thăm các phim trường tại Anh. Các phong cảnh tuyệt đẹp ở Croatia, Iceland hay Bắc Ai Len cũng thu hút đông đảo khách du lịch sau khi các mùa phim « Game of Thrones » (Trò chơi vương quyền) chinh phục khán giả toàn cầu. Trong những năm gần đây, Hàn Quốc là quốc gia châu Á gặt hái nhiều thành quả trong việc thúc đẩy du lịch nhờ các loạt phim truyền hình như « Intaewon Class », Cung nữ « Dae Jang-Geum », « Moon Lovers : Scarlet Heart » (Người tình ánh trăng) và nhất là ba mùa phim « Squid Game » (Trò chơi con mực). Các bộ phim này chẳng những lôi cuốn được nhiều khách du lịch mà còn giúp phổ biến ẩm thực của xứ bình minh yên tĩnh. Còn tại Việt Nam, nhiều phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ nhưng không kém phần thơ mộng tại Quảng Bình, Ninh Bình, Phú Yên đã thuyết phục nhiều đoàn phim quốc tế chọn làm bối cảnh bấm máy quay phim. Sau những bộ phim nổi tiếng như « Người tình » và « Đông Dương » của thập niên 1990, khán giả nước ngoài khám phá phong cảnh Việt Nam dưới một góc nhìn mới qua phim « Kong : Đảo đầu lâu » và gần đây hơn nữa là bộ phim « Hành trình tình yêu của một du khách » (A tourist's guide of Love) do Netflix quay tại Hà Nội, Sài Gòn, Hà Giang và Hội An. Phim này lọt vào danh sách các bộ phim được xem nhiều nhất tại gần 90 quốc gia trên Netflix, nhờ những cảnh quay chỉn chu mà góp phần gầy dựng thêm hình ảnh và uy tín của Việt Nam trong mắt khách du lịch nước ngoài. Tuy nhiên, không phải nơi nào cũng thành công trong việc quảng bá du lịch nhờ vào phim ảnh. Trả lời phỏng vấn RFI ban tiếng Pháp, cô Nawel Chaouni, giảng viên ngành truyền thông, thông tin tại Đại học Clermont Auvergne, cho biết các quốc gia hay vùng miền cần phải có tầm nhìn xa để tránh rơi vào thế thụ động, không đáp ứng kịp thời nhu cầu  của du khách : Đúng vậy, phim ảnh đã góp phần thay đổi nhận thức và giúp quảng bá những điểm đến ít nổi tiếng trước đây. Ban đầu, các địa điểm quay phim chủ yếu được coi là bối cảnh đơn thuần, các đoàn phim thường chọn những nơi vắng người để tiện bề quay phim. Các quốc gia đã mất một thời gian khá dài trước khi nhận thức được về tiềm năng quảng bá du lịch của phim ảnh. Hiện tượng này trở nên rõ nét sau các loạt phim « Trò chơi vương quyền » hoặc « Chúa tể các chiếc nhẫn ». Các chính quyền địa phương lúc bấy giờ mới nhận thấy được cơn sốt mà phim ảnh có thể tạo ra nơi giới hâm mộ, từ đó mà các điểm đến thu hút được thêm nhiều du khách. Quả thật là các chuyên viên làm việc trong ngành du lịch, cần phải phản ứng nhanh. Họ cần phải biết thích nghi với tình huống mới, điều chỉnh cơ cấu cũng như cách tổ chức để đáp ứng nhu cầu trước cơn sốt của người hâm mộ. Qua các nền tảng trực tuyến, một bộ phim có thể thành công rất nhanh chóng nhờ vào mức độ lan truyền trên mạng xã hội. Một loạt phim có thể tạo nên cơn sốt toàn cầu chỉ trong vài tuần, thậm chí chỉ trong vài ngày. Đó là trường hợp của các mùa phim « Emily in Paris » hay « Another Self » Đi tìm chính mình (tựa tiếng Pháp là Le chemin de l'Olivier) trên mạng Netflix. Một cách cụ thể, các hội đồng thành phố cần tổ chức các tour tham quan có hướng dẫn, thiết lập các tấm bảng chỉ dẫn để tạo ra cơ hội cho du khách đi xem những địa điểm từng được quay phim. Và quan trọng hơn hết, cần phải cải thiện cơ sở hậu cần, từ việc mở thêm các nơi lưu trú, tăng cường các dịch vụ ăn uống, vận chuyển, để tránh cho du khách bị thất vọng, xem cảnh phim rất đẹp nhưng đến khi trải nghiệm, lại không hay một chút nào. Về điểm này, có thể nói là loạt phim The White Lotus (Khu nghĩ dưỡng Bạch Liên) đã khiến cho một số điểm đến ở Thái Lan như Phuket, Krabi hay Samui càng thêm đông khách. Một cách tương tự, các mùa phim « Another Self », do được quay tại thị trấn ven biển Ayvalik, phía tây bắc Thổ Nhĩ Kỳ, đã thu hút nhiều khách du lịch nước ngoài, nhưng thành phố nhỏ với 36 ngàn dân này lại không đủ phòng khách sạn để tiếp đón nhiều lượt khách cùng một lúc. Theo cô Nawel Chaouni, giảng viên Đại học Clermont Auvergne, quan hệ tương tác giữa phim ảnh và du lịch góp phần tạo thêm  tầm ảnh hưởng của các nền tảng trực tuyến nhưng đông thời khiến một số điểm đến bị quá tải. "Các nền tảng trực tuyến chuyên sản xuất các loạt phim ăn khách, bây giờ cũng bắt đầu lao vào khai thác du lịch, qua việc tổ chức các tour tham quan theo chủ đề phim ảnh. Đây là một bước ngoặt khá bất ngờ. Các nền tảng trước kia vốn chỉ là đơn vị phân phối phim và nội dung trực tuyến. Giờ đây, các nền tảng này cũng đang trở thành một nhân tố tham gia trực tiếp vào việc phát triển du lịch. Có thể nhận thấy mối quan hệ hợp tác để tạo thêm những hình thức trải nghiệm mới. Giới hâm mộ chia sẻ, bình luận và tạo thêm nội dung để thúc đẩy các cộng đồng trên mạng xã hội. Những cộng đồng này hiện diện ở khắp nơi, được hỗ trợ bởi các nền tảng. Các nền tảng phân phối pim dựa vào các cộng đồng fan đông đảo để cung cấp ban đầu là những sản phẩm « ăn theo » có gắn thương hiệu của phim ảnh, giờ đây chuyển qua khai thác thêm các dịch vụ như bán tour tham quan theo chủ đề phim ảnh, để tạo cơ hội cho người xem muốn trải nghiệm những khoảnh khắc y như trong những bộ phim yêu thích của họ. Quảng bá du lịch qua phim ảnh giống như một  « mỏ vàng »mà nhiều nước muốn khai thác. Tuy nhiên, hiện giờ, quan hệ giữa hai ngành du lịch và điện ảnh, vẫn chỉ dừng lại ở những cái bắt tay ngẫu nhiên. Về điểm này, cần có tính chủ động và một chiến lược dài hạn, một nguồn kinh phí đầu tư bài bản nhằm tạo thêm hiệu quả, quản lý các luồng du khách để tránh bị quá tải.  Chẳng hạn như tại Pháp, hầu như vùng miền nào cũng đều tổ chức thêm các sinh hoạt như chiếu phim miễn phí, liên hoan ca nhạc, triển lãm chuyên đề. Các chương trình ấy thường đề cao di sản văn hóa của từng vùng miền, đồng thời là tủ kính trưng bày để quảng bá thêm cho ngành du lịch, xây dựng hình ảnh đẹp vẫn chưa đủ, mà còn phải biết làm hài lòng du khách nước ngoài, thuyết phục họ nên trở lại, dù chỉ sau một lần đến". 
[Superstrat[ là một trong bốn tiết mục nhảy, múa được giới thiệu đến công chúng và các nhà chuyên nghiệp sáng 15/07/2025 trong khuôn khổ chương trình La belle scène saint-denis (09-18/07) tại Liên hoan Avignon. Tác giả kiêm biên đạo múa Anne Nguyen tiếp tục hành trình tìm nguồn cội của các phong cách nhảy đường phố, trong đó có hip-hop, mà những mối liên hệ giữa văn hóa và bản sắc trong xã hội đương đại ngày nay. Trong [Superstrat[, giai điệu, các giai đoạn, thời kỳ và động tác, cử chỉ “đối thoại” với nhau để đưa khán giả khám phá di sản của cộng đồng người Mỹ gốc Phi. Chủ ý của vở múa được truyền tải đến khán giả qua màn biểu diễn đầy sức thuyết phục và trình độ chuyên môn của nghệ sĩ người Côte d’Ivoire (Bờ Biển Ngà) Mark-Wilfried Kouadio, nghệ danh “Willy Kazzama”. RFI Tiếng Việt đã phỏng vấn Anne Nguyen và Mark-Wilfried Kouadio sau buổi biểu diễn. RFI : Trước tiên xin hỏi Anne Nguyen, tên tác phẩm [Superstrat[ có ý nghĩa như thế nào ? Tác phẩm lấy nguồn cảm hứng từ đâu ? Anne Nguyen : [Superstrat[ là một từ bổ nghĩa cho “substrat” (nền tảng), có nghĩa là những ngôn ngữ nước ngoài đã ảnh hưởng đến ngôn ngữ chính. Ý tưởng của vở diễn là thể hiện toàn bộ ảnh hưởng của các làn sóng di cư đến văn hóa của một đất nước, tiếp theo là những thay đổi về lãnh thổ ảnh hưởng đến cách mà mọi thứ biến đổi, cụ thể trong trường hợp vở [Superstrat[ là thể hiện sự giao thoa, cùng với những điệu nhảy truyền thống của châu Phi đến Hoa Kỳ, châu Mỹ với những điệu nhảy hip hop, sau đó châu Âu cũng học hỏi và cũng có làn sóng nhập cư từ châu Phi. Thực sự là còn cả chặng đường dài để đưa tất cả những nền văn hóa này vào đúng bối cảnh. Những nền văn hóa này vẫn lưu thông với nhau và là một phần của ngôn ngữ mà chúng ta sử dụng ngày nay, bởi vì đó là những ngôn ngữ rất phong phú, chịu ảnh hưởng của rất nhiều quốc gia  có chung lịch sử. RFI : Mỗi sáng tác đều có một câu chuyện. Chị kể câu chuyện của mình như thế nào trong [Superstrat[ khi múa, nhảy là một bộ môn nghệ thuật trừu tượng ? Làm thế nào truyền tải được câu chuyện của mình đến khán giả ? Anne Nguyen : Múa gần như là ngôn ngữ nguyên thủy của cơ thể. Và đối với tôi, sử dụng nhảy và múa giúp tôi giao tiếp với mọi người, vừa đầy cảm xúc, vừa ẩn dụ, triết lý và cũng mang tính xã hội hơn. Điều này còn tùy thuộc vào nơi mà mọi người muốn hiểu sự việc. Dù sao, đối với tôi, nhảy và múa thực sự mang tính phổ quát, truyền thống. Khi tìm hiểu kỹ nguồn gốc của những điệu nhảy này, người ta sẽ thấy những ảnh hưởng truyền thống. Ví dụ tôi bắt đầu với nhảy hip-hop, breakdance, đến từ châu Phi bởi vì từng có chế độ nô lệ ở Mỹ và thường thì chính những người thuộc tầng lớp này của xã hội đã sáng tạo nên những điệu nhảy đường phố đó. Vì vậy, càng quan tâm đến nguồn gốc của điệu nhảy, tôi càng bị thu hút bởi những điệu nhảy truyền thống. Chủ đề của tác phẩm là thực hiện hành trình đi tìm gốc gác đó, khai thác kho tài năng của một vũ công vừa nhảy đường phố, vừa giữ nét truyền thống châu Phi để qua đó tạo nên mối liên hệ giữa truyền thống và hiện đại. Thông điệp thực sự mà tôi muốn truyền tải, đó là chúng ta không phải lựa chọn giữa truyền thống và hiện đại, hay chối bỏ một trong hai. Mà ngược lại, phải lèo lái và tạo ra những điều tạo nên bản sắc, di sản của chúng ta và tự hào về di sản của chúng ta, để từ đó tạo nên điều gì đó với sự hiện đại và kỹ thuật mới… Song song đó cũng phải hiểu rằng có một số điều hơi bảo thủ, hơi bất biến và chúng ta không nên cố gắng biến đổi chúng quá nhiều. Trong [Superstrat[ có một góc nhìn về truyền thống, về hiện đại để đi hướng đến bản sắc hiện đại, cho thấy chúng ta là con người của ngày hôm nay, của những năm 2025. Chúng ta chứa đầy những ảnh hưởng từ tổ tiên, nhưng cũng từ những điều đã được biến đổi trong quá trình di cư, pha trộn dân cư. Chúng ta có thể là tổng hợp của tất cả những điều đó và không được quên quá khứ. RFI : Trong sáng tác của chị có rất nhiều kiểu nhảy, có cũ, có mới, làm thế nào để tạo nên sự hài hòa của những điệu nhảy này trong [Superstrat[ ? Anne Nguyen : Từ khi thành lập đoàn múa năm 2005, tôi đã tạo ra khoảng hai mươi chương trình, đôi khi tôi sử dụng một điệu nhảy duy nhất. Nhưng đúng là ngay cả các điệu nhảy thành thị của người Mỹ gốc Phi cũng đã là sự kết hợp của một số điệu nhảy với nhau vì một điệu nhảy thực ra chỉ là một bước, một chuyển động nhỏ. Sau đó, khi kết hợp một số điệu nhảy từ cùng một khu vực, cùng một thời đại lại với nhau (bởi vì người ta vẫn nhảy chúng) và với âm nhạc thì tạo ra một phong cách, có thể nói như vậy. Ngay cả khi tôi chỉ sử dụng phong cách hip-hop, thực ra ở trong đã có nhiều lịch sử, nguồn gốc khác nhau, cho nên rất đa dạng và rất tinh tế. Ví dụ, trong sáng tác [Superstrat[, tôi nghĩ là vũ công phải thực hiện ít nhất hai mươi điệu nhảy, thậm chí nhiều hơn, có thể từ 20 đến 40 điệu nhảy, kết hợp giữa các điệu nhảy truyền thống và nhảy đường phố Tây Phi và điệu nhảy đường phố của người Mỹ gốc Phi, trong đó có hip-hop. Vì vậy, thực sự rất khó để dàn dựng các vũ điệu đó mà không bị pha trộn và cũng rất khó khi cố tạo không gian cho từng thể loại cùng với ý nghĩa của nó, bởi vì cho thấy được chủ đích đằng sau mỗi điệu nhảy là điều quan trọng. Ngoài ra còn có một cách nữa, đó là lắng nghe tiếng nhạc hoặc âm thanh, cho nên cũng phải đầu tư công sức cho âm nhạc. Tôi luôn cố gắng sử dụng nhảy như một ngôn ngữ, ở cấp độ ẩn dụ. Ví dụ, một điệu nhảy chiến tranh có thể kể điều gì ? Vào thời điểm nào của vở diễn thì có thể đưa vũ điệu chiến tranh vào để thể hiện sự chiếm hữu lãnh thổ hoặc bản sắc của mình ? Hoặc khi nào thì cho vào một điệu nhảy hơi “tán tỉnh” một chút để tạo mối quan hệ với công chúng ? Đó chính là cách xây dựng nhân vật. Tôi tìm tòi trong những chủ đích của các điệu nhảy để kể một chút về hành trình của nhân vật, người đang cố để khán giả hiểu mình và cũng đang cố tìm kiếm bản sắc của mình, người bị giằng xé giữa việc trở về với tổ tiên, khát vọng hướng tới hiện đại, tương lai… mà thực ra là đang phần nào tìm cách hòa giải trong tất cả những yếu tố đó. Đó là cả quá trình kịch tính, đầy cảm xúc, với không gian và mối quan hệ với chính mình. RFI : Câu hỏi tiếp theo được dành cho nghệ sĩ Mark-Wilfried Kouadio, nghệ danh “Willy Kazzama”. Anh là nhân vật duy nhất trong vở diễn. Làm thế nào để truyền tải được ý tưởng của tác giả đến công chúng ? Mark-Wilfried Kouadio : Tôi là nghệ sĩ múa chuyên nghiệp, người Côte d’Ivoire, tôi là việc với Anne Nguyen từ khá lâu. Giữa chúng tôi có sự đồng điệu nên mọi chuyện diễn ra tốt đẹp. Đối với tôi, khá là dễ để thực hiện những gì Anne muốn làm, dù là về nhảy truyền thống hay đương đại châu Phi, có rất nhiều mối liên hệ giữa văn hóa hip-hop, có nghĩa là văn hóa Mỹ gốc Phi. Vì Anne khởi đầu sự nghiệp từ bộ môn này nên có thể tìm được mối liên hệ. Cho nên những gì Anne đề xuất, chúng tôi đưa ra thảo luận để tìm ra giải pháp hay nhất. Châu Phi rất đa dạng về nhảy và múa, đến từ hơn 50 nước. Tôi sinh ra ở Côte d’Ivoire, Tây Phi, khu vực có rất nhiều thể loại nhảy, tôi đề xuất những gì mình biết, sau đó chúng tôi tìm ra những gì phù hợp với ý tưởng của Anne và làm việc cùng nhau. RFI : Như Anne nói, trong [Superstrat[, anh thể hiện từ 20 đến 40 kiểu nhảy, kết hợp những động tác dẻo và khéo léo, uyển chuyển nhưng đầy mạnh mẽ. Anh thể hiện dấu ấn riêng của mình như thế nào trong tác phẩm ? Mark-Wilfried Kouadio : Nhảy đã là một bộ môn thể thao, cần phải làm chủ nhịp tim, dẻo dai, khéo léo. Dấu ấn riêng của tôi trong tác phẩm, đó chính là bản sắc văn hóa châu Phi của mình. Ngay từ lúc nhỏ, tôi đã nhảy, sau đó đi theo con đường chuyên nghiệp, dù cách đây không lâu. Tôi biết những hạn chế về cơ thể của mình, biết cách làm thế nào sử dụng cơ thể của mình cho nên khi Anne yêu cầu thực hiện một động tác, tôi biết phải làm như thế nào, còn nếu không được thì sẽ tìm giải pháp thay thế. Tôi tập luyện nhảy đường phố và một số kiểu nhảy của Côte d’Ivoire và một số nước Tây Phi. Và vì trong nhảy có những động tác tương đồng, có những năng lượng giống nhau cho nên khá là đơn giản khi làm nổi bật những ý tưởng của Anne và truyền tải chúng đến khán giả và những người yêu bộ môn này. RFI : Về âm nhạc, như chị nói ở trên, âm nhạc đóng vai trò quan trọng trong [Superstrat[, rất độc đáo, thể hiện rõ bản sắc châu Phi. Anne Nguyen : Vâng, chính xác. Đó là một sáng tác độc đáo của Grégoire Letouvet và Pierre Demange. Từ bản piano chuẩn bị trước, Grégoire Letouvet đặt những đồ vật nhỏ để điều chỉnh một chút âm thanh, mang hơi hướng điện tử. Còn Pierre Demange, chơi bộ gõ và trống, thì phụ trách phần nhịp điệu, nhất là của Tây Phi và kết hợp một số nhịp điệu mà vũ công Willy Kazzama, người Bờ Biển Nga (Côte d’Ivoire), biết. Ý tưởng ở đây là kết hợp ảnh hưởng của những nhịp điệu truyền thống với những dấu ấn của âm nhạc Mỹ gốc Phi, từng chứng kiến sự xuất hiện của hip-hop vào những năm 1960 và 70, trong khi người ta vẫn nói thời kỳ đó thiên về blues-soul nhiều hơn. Nếu nhìn vào nguồn gốc của tất cả những thể loại này, thì đó chính là những bản nhạc tâm linh của người da đen, được những người nô lệ hát để động viên nhau trên cánh đồng, hoặc Gospel trong nhà thờ. Ngoài ra, thông qua âm nhạc và nhảy, cũng cho thấy thực ra chúng ta không sáng tạo bất cứ thứ gì. Mọi điều được cho là hiện đại, có thể khiến chúng ta nghĩ về một phong cách âm nhạc nào đó, thực ra nếu nghe kỹ, thì chỉ được biến đổi và đều đến từ tổ tiên của chúng ta. Không có gì mất đi, không có gì được tạo ra, tất cả đều chuyển biến, đó là ý tưởng của tác phẩm [Superstrat[. Đối với cá nhân tôi, tôi thấy cần phải nhắc đến hip-hop vào thời điểm này bởi vì hip-hop được đưa vào Thế vận hội Paris 2024. Có rất nhiều cuộc tranh luận về việc liệu hip-hop có phải là một nghệ thuật hay không, có phải là một môn thể thao hay không, hoặc tranh luận về những tên tuổi trong lĩnh vực này. Có thể là phong trào được đặt tên, được hình thành cũng với những mốc thời gian hoặc tên tuổi lớn nhưng thực ra đều có nguồn gốc xa xưa. Cho nên, đối với tôi, cần phải cho thấy điều này, nếu không, người ta luôn áp đặt cho chúng ta những khuôn khổ, những cái tên
Sau thành công không ngờ đến của bộ phim tài liệu “Once Upon a Bridge in Vietnam” ( Ngày xưa có một chiếc cầu ở Việt Nam ), đạo diễn trẻ mang hai dòng máu Pháp Việt François Bibonne sắp tái ngộ khán giả với phần hai của bộ phim "Once Upon a Bridge II". Bibonne hy vọng bộ phim sẽ được trình làng vào tháng 11 năm nay. Ban đầu Bibonne dự định làm một bộ phim về bóng đá Việt Nam, nhưng cuối cùng anh vẫn lồng vào đó âm nhạc, phong cảnh, văn hóa Việt Nam, như là sự tiếp nối của một cuộc hành trình tìm về nguồn.  Phạm vi của "Once Upon a Bridge II" được mở rộng hơn, hành trình trải dài từ Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định đến những vùng xa xôi như Bình Liêu (Quảng Ninh) và Pleiku. Lần này, theo lời François Bibonne, trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ từ Hà Nội, bộ phim sẽ mang tính chất cá nhân hơn, đạo diễn trở thành như là một "nhân vật chính" trong phim: “Khi làm bộ phim đầu tiên, tôi thực sự không muốn mình ở trong đó, tôi chỉ là một người quay phim. Nhưng rồi tôi nhận thấy điều mà mọi người quan tâm đó là bộ phim được hiện thân, nghĩa là có một nhân vật chính, có thể tạo ra mối liên hệ giữa tất cả các cảnh này, vì có rất nhiều chủ đề khác nhau, làm sao có thể diễn đạt, dung hòa tất cả những mối liên hệ này.  Nói chung, đây là sự trở lại với nguồn gốc Việt Nam, thông qua nhân vật tôi, vì bà tôi là người Việt Nam, nên tôi là người Pháp gốc Việt. Và tôi tạo ra mối liên hệ giữa tất cả những câu chuyện nhỏ mà chúng ta tìm thấy trong mọi bộ phim tài liệu, đôi khi với những hình ảnh có tôi xuất hiện trong đó. Tôi cũng sẽ không xuất hiện nhiều đâu.  Nhưng khi tôi làm một đoạn phim giới thiệu, tôi phải đặt mình vào cảnh một chút để kích hoạt câu chuyện, nếu không thì chỉ lồng tiếng thôi. Nhưng thực sự, ngoài bản thân tôi, tôi nghĩ nhân vật chính, đó là Việt Nam.”  Như đã nói ở trên, ban đầu François Bibonne dự định làm một bộ phim tài liệu về bóng đá Việt Nam, nhưng cuối cùng anh quyết định là phim sẽ không bám vào thời sự của môn bóng tròn, mà sẽ là một bộ phim "phi thời gian tính": "Khi tôi đến Việt Nam để thực hiện dự án mới này, thực ra tôi đã bắt đầu theo dõi đội tuyển quốc gia, đã có rất nhiều trận thua vào thời điểm đó. Vì vậy, tôi hơi xuống tinh thần. Tôi vẫn muốn làm bộ phim này, nhưng nói ít hơn về đội tuyển quốc gia và thời gian đó người dân cũng bớt hồ hởi với bóng đá. Thế rồi gần đây, họ đã giành được chức vô địch Đông Nam Á. Họ có một huấn luyện viên mới là người Hàn Quốc và đã gặt hái rất nhiều thành công. Mọi người thực sự tin tưởng vào đội tuyển quốc gia và thực sự đang có một điều gì đó rất tích cực. Bối cảnh rất thuận lợi cho dự án của tôi. Thật ra dầu sao thì tôi không bị ảnh hưởng bởi thời sự, bởi vì tôi làm một bộ phim tài liệu điện ảnh hơn là một bộ phim tài liệu về các vấn đề thời sự, vì vậy có thể nói rằng, những gì tôi làm gần như là phim tài liệu hư cấu, một dự án dài hạn, mà tôi hy vọng sẽ là phi thời gian tính, bất kể các sự kiện hiện tại. Giống như bộ phim trước, đó là một bộ phim mà tôi nghĩ chúng ta cũng có thể xem sau nay, không nhất thiết phụ thuộc vào các sự kiện hiện tại." Trên con đường tìm về nguồn khi thực hiện bộ phim "Once Upon a Bridge II", đạo diễn trẻ Bibonne đã có dịp đến Hải Phòng, thành phố quê hương của người bà: “Tôi chưa từng đến đó, mặc dù thành phố Hải Phòng là nơi bà tôi sinh ra, đúng hơn bà sinh ra ở một ngôi làng nhỏ không xa Hải Phòng, nhưng là trong khu vực đó. Vì vậy, nó vẫn rất mang tính biểu tượng. Đến Hải Phòng là một trải nghiệm với nhiều cảm xúc mạnh mẽ, vì nguồn gốc của tôi là từ đó. Chứ bóng đá không liên quan gì đến bà tôi. Điều thú vị nữa là tìm thấy chính mình, trong một môi trường mà trước đó tôi không biết, và đó là điều tôi muốn khám phá thông qua âm nhạc. Nhưng tôi nghĩ rằng đây là những khám phá về khắp mọi miền đất nước, không nhất thiết phải liên quan trực tiếp đến bà tôi. Tôi đã đến  khá nhiều nơi mà bà nghĩ là đã từng đến, nhưng vì nó cũng rất xa ngay cả trong ký ức của bà, nên tôi không chắc có đúng như thế không. Tôi biết là bà tôi có gia đình ở Hải Phòng, nhưng thực sự rất khó tìm được họ.Tôi thích mọi thứ bên bờ biển, mà Hải Phòng thì cũng bờ biển, cho nên có điều gì đó rất đặc biệt. Rồi có các tòa nhà từ thời thuộc địa Pháp, hải cảng, v.v. Có một nền văn hóa địa phương cũng rất đặc biệt. Ở Pháp, bà tôi ở cũng từng sống ở miền nam bên bờ biển, có lẽ vì vậy bà thích Hải Phòng. Cuộc sống ở đây ít hối hả hơn so với Hà Nội và tôi cũng thực sự thích điều đó.” François Bibonne cho biết trong quá trình làm phim, anh cũng đã đến Pleiku, đến Kontum và đã gặp người sắc tộc thiểu số Ba Na, rồi đến Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh, miền Bắc Việt Nam, gần Trung Quốc. Ở vùng đó, Bibonne đã gặp người dân tộc Sán Chay, họ đã hát cho anh nghe một bài hát rất hay. Có những khám phá, những giao lưu văn hóa và đối với anh bóng đá trở thành như là một cái cớ để dẫn đến những cuộc gặp gỡ đó. Bibonne tiếp tục đưa âm nhạc truyền thống Việt Nam vào "Once Upon a Bridge II", tiếp tục kết nối những nhạc cụ dân tộc với những nhạc cụ phương Tây.  Thực hiện bộ phim tiếp nối “Once Upon a Bridge in Vietnam”, François Bibonne cũng vẫn gặp nhiều khó khăn, nhưng nhờ đã được biết đến nhiều qua bộ phim đầu tay, anh cũng được hỗ trợ nhiều hơn: “Khó khăn đầu tiên là có được sự thoải mái trong một môi trường xa lạ, đó là bóng đá. Vì vậy, tôi đã phải tìm hiểu rất nhiều, thậm chí nói chuyện với bạn bè ở Pháp, hiểu rõ hơn về bóng đá và nắm được những điều cơ bản, v.v. Tiếp đến là vấn đề về kỹ thuật, vì quay phim bóng đá rất phức tạp. Ta không thể quay bằng camera từ khán đài, mà phải cố vào được trong sân để quay cận cảnh các cầu thủ, một thao tác mang tính kỹ thuật rất cao.  Và sau đó, cũng như mọi người Pháp, mọi người nước ngoài, trong cuộc sống hàng ngày ở Việt Nam, luôn có vấn đề về hàng rào ngôn ngữ. Tôi đang học tiếng Việt, ngày càng giỏi hơn, nhưng vẫn chưa đủ để thực hiện các cuộc phỏng vấn.  Ngoài ra còn có vấn đề về ngân sách, hiện giờ tôi phải bỏ tiền túi ra và tôi rất muốn sau này tìm được các nhà tài trợ, nhưng tôi tự tin hơn. Nhờ thành công của bộ phim trước, tôi ngày càng được mọi người biết đến tôi  và tôi hy vọng tìm được một nhà phát hành ở Pháp, có thể là kênh TV5 Monde hay một kênh nào đó. Các nhà báo ở Việt Nam, những người có đầu óc rất cởi mở, sẽ giúp tôi tiếp cận những thứ mà trước đây tôi có thể không có. Thêm vào đó, tôi đã định cư ở Việt Nam trong thời gian dài, trong khi trước đây tôi làm phim trong thời kỳ đại dịch. Vì vậy, bây giờ bối cảnh vẫn thuận lợi hơn.” François Bibonne cho biết: "Tôi đã quay được hai phần ba, gần ba phần tư, những gì tôi muốn. Vì vậy, tôi nghĩ có thể hoàn tất việc quay mọi thứ tôi cần vào khoảng tháng 9 và có thể hoàn thành việc biên tập phim vào khoảng tháng 11. Và biết đâu có thể kịp để gởi nó đến Liên hoan điện ảnh châu Á Vesoul!"  Bộ phim đầu tay "Once Upon a Bridge in Vietnam" của Bibonne đã từng được trình chiếu tại Liên hoan Vesoul năm 2023, tranh giải trong hạng mục Phim tài liệu. Tuy không nhận được giải nào, nhưng qua Liên hoan này mà chàng đạo diễn trẻ mang hai giòng máu Pháp-Việt được công chúng quốc tế biết đến nhiều hơn. "Once Upon a Bridge in Vietnam" đã từng đoạt giải Phim tài liệu ngắn hay nhất tại Liên hoan Phim Los Angeles 2022. Phim còn đã được trình chiếu ở rất nhiều nơi tại Việt Nam, Pháp, Anh và Hoa Kỳ.  "Once Upon a Bridge in Vietnam" đã được phát trên hai nền tảng phát trực tuyến lớn tại Việt Nam FPT Play và Galaxy Play. Anh hy vọng là bộ phim thứ hai cũng sẽ được chiếu trên hai nền tảng đó. Nhưng François Bibonne cho biết ở Pháp, anh vẫn chưa tìm được nhà phân phối cho bộ phim đầu tiên, vì phải đáp ứng rất nhiều yêu cầu. Tuy nhiên, nhà đạo diễn trẻ vẫn không nản chí, tin tưởng là sẽ làm được. 
Tựa đề chữ vàng in trên bìa sách toàn một màu đen. Chỉ cần liếc nhìn qua, giới độc giả ghiền truyện trinh thám đều nhận ra ngay bộ sưu tập « Série Noire » của nhà xuất bản Pháp Gallimard. Năm 2025 đánh dấu đúng 80 năm ngày ra đời của tủ sách nổi tiếng Série Noire, mà bạn đọc ở Pháp thường gọi nôm na là « tiểu thuyết đen ».   Tủ sách « Série Noire » ra đời vào mùa hè năm 1945, theo đề xuất của dịch giả Marcel Duhamel. Ngoài đời là bạn thân của nhà văn Jacques Prévert và thi hào Raymond Queneau, ông Duhamel đã thuyết phục nhà xuất bản Gallimard cho ra mắt một bộ sưu tập hoàn toàn mới thời hậu chiến, để giới thiệu với bạn đọc ở Pháp những tiểu thuyết trinh thám tiêu biểu của Anh-Mỹ qua việc dịch các tác giả trứ danh như Peter Cheyney, Raymond Chandler hay Don Tracy …  Mãi đến 3 năm sau (1948), theo sáng kiến của giám đốc điều hành nhà xuất bản Claude Gallimard, bộ sưu tập này mới bắt đầu phát triển mạnh, tăng số lượng bản in cũng như các tựa sách phát hành mỗi năm. Nhờ vào sự hưởng ứng của bạn đọc, tủ truyện « Série Noire » đã thành công nhanh chóng. Hơn một ngàn đầu sách được xuất bản trong 2 thập niên đầu tiên, mỗi năm sách đều bán được hơn cả triệu bản.  Thành công của thể loại văn học này lúc đầu luôn gắn liền với trào lưu phim trinh thám của Mỹ, còn được gọi là « film noir » chủ yếu nói về các vụ án và tội phạm, thế giới băng đảng và xã hội đen. Trong thời hậu chiến (1945-1952) các rạp chiếu phim Pháp chủ yếu khai thác phim trinh thám do Hollywood sản xuất từ những năm trước, nhưng vì đang có chiến tranh, khán giả Pháp chưa có dịp xem.  Kể từ năm 1953 trở đi, làng phim Pháp mới bắt đầu khai thác mạnh mẽ dòng phim này. Trả lời phỏng vấn RFI ban tiếng Pháp, nhà phê bình kiêm sử gia Alban Cerisier cho biết, ngay từ những năm 1950, tủ sách « Série Noire » đã gợi hứng cho các đạo diễn Pháp thực hiện nhiều bản phóng tác, đưa các bộ tiểu thuyết đen lên màn ảnh rộng, tạo ra một sự hợp tác chặt chẽ, vẫn còn tồn tại cho đến tận ngày nay : « Đúng vậy, đó là một mối quan hệ tuyệt vời, góp phần làm nên tên tuổi và uy tín của bộ sưu tập Série Noire. Mối quan hệ giữa tủ sách trinh thám và màn ảnh lớn đã tồn tại trong nhiều thập niên qua. Khi mới được thành lập, tủ sách này chủ yếu quảng bá các tiểu thuyết “đen” và dòng phim trinh thám theo kiểu Mỹ. Trong giai đoạn này, phải kể đến phim The Maltese Falcon (Chim ưng Malta) với Humphrey Bogart trong vai chính, This gun for hire (Kẻ giết mướn) với Alan Ladd và Veronica Lake. Những thập niên sau đó, có The Unseen (Sát thủ giấu mặt) và nhất là The Big Sleep (Giấc ngủ ngàn thu), dựa theo tiểu thuyết của nhà văn Raymond Chandler qua hai phiên bản, với Humphrey Bogart, cũng như Robert Mitchum trong vai chính.  Thời hậu chiến, làng phim Pháp chủ yếu khai thác phim Mỹ. Năm 1953 đánh dấu một cột mốc quan trọng, khi điện ảnh Pháp trở nên tự lập hơn, bắt đầu chuyển thể các bộ tiểu thuyết thành phim trinh thám. Đó là trường hợp của bộ phim "Touchez pas au grisbi" (tạm dịch Coi chừng chết … vì tiền) của đạo diễn Pháp Jacques Becker. Đây là phiên bản điện ảnh của quyển tiểu thuyết đen cùng tên của Albert Simonin. Bộ phim đánh dấu ngày trở lại của Jean Gabin sau nhiều năm vắng bóng và sự xuất hiện lần đầu tiên của Lino Ventura trên màn ảnh lớn. Trong mắt giới phê bình, "Touchez pas au grisbi” là tác phẩm khởi đầu cho trào lưu quay các bộ phim noir theo kiểu Pháp, hầu hết các tên tuổi lớn sau này đều tham gia như Jeanne Moreau, Jean-Paul Belmondo hay Alain Delon … »  Nhìn lại tủ truyện « Série Noire », trong số cả chục ngàn quyển tiểu thuyết được phát hành, đã có hơn 500 đầu sách đã được chuyển thể lên màn ảnh. Có thể nói là mỗi thập niên đều có những bộ phim ăn khách, phóng tác từ tiểu thuyết trinh thám. Theo sử gia Alban Cerisier, những thập niên sau 1950, đã cho ra đời nhiều tác phẩm quan trọng của những tên tuổi hàng đầu trong làng điện ảnh :  « Kể từ sau những năm 1950, dòng phim trinh thám hình sự đã có một số thay đổi về mặt đề tài để phán ánh những biến chuyển xã hội, nội dung phim cũng mang nhiều tính thời sự hơn. Một trong những gương mặt quan trọng trong giai đoạn này chính là ngôi sao màn bạc Pháp Alain Delon. Ông quan tâm nhiều đến thể loại hình sự cũng như dòng phim đen. Trong vai trò của một nhà sản xuất (nhiều hơn là diễn viên), Alain Delon đã giúp phổ biến thêm nhiều quyển tiểu thuyết qua phim ảnh. Trong giai đoạn này có thể nhắc đến “Mort d'un pourri” (Cái chết của một kẻ hám lợi), tiểu thuyết của Raf Vallet từng được Georges Lautner chuyển thể thành phim trinh thám với Alain Delon trong vai chính.  Thật ra, kể từ những năm 1965 trở đi, dòng phim noir không còn đơn thuần nói về thế giới của những kẻ lừa đảo, những tên côn đồ đâm thuê chém mướn … Những hình tượng ấy dần dần những chỗ lại cho những nhân vật phức tạp hơn về mặt tâm lý, qua tài viết kịch bản và dựng phim của làn sóng đạo diễn với phong cách mới như Truffaut, Godard, hay Melville. Đạo diễn François Truffaut đã tặng cho Jeanne Moreau một vai diễn để đời khi chuyển thể tiểu thuyết “The Bride wore black” (Áo tang ngày cưới) của William Irish, kể lại kế hoạch trả thù của một cô dâu, sau khi chứng kiến cảnh chồng mình bị sát hại ngay trong đám cưới.  Đạo diễn Melville tặng cho Jean Paul Belmondo một vai diễn xuất sắc trong phim "Le Doulos". Trong tiếng lóng, từ này hiểu theo nghĩa đen là cái mũ phớt, còn hiểu theo nghĩa bóng là kẻ chỉ điểm. Sự xuất hiện của Melville, Lautner, hay Truffaut (rất ngưỡng mộ đạo diễn Hitchcock) đã mang đến một luồng sinh khí mới cho thể loại phim trình thám, khi họ phản ánh các chủ đề mang tính thời sự xã hội, đi sâu hơn vào các đề tài tham nhũng, khi mọi giới, nhất là những người có quyền, càng dễ bị đồng tiền chi phối ».  Sau các đề tài chính trị xã hội, tủ truyện Série Noire cũng từng gặt hái khá nhiều thành công khi khai thác mạch truyện gián điệp. Trong một thời gian dài, nhà xuất bản Gallimard được quyền khai thác tủ sách James Bond (sau này mới đến phiên nhà xuất bản Robert Laffon), có lẽ cũng vì thế nhiều đầu sách của điệp viên 007 đã được đăng trong bộ sưu tập tiểu thuyết đen Série Noire. Nhà phê bình Alvan Cerisier giải thích về các trào lưu làm phim : « Các tác giả cũng như dịch giả của tủ truyện Série Noire sống với thời đại của họ. Dĩ nhiên là bộ truyện của Ian Fleming đã có nhiều bản phóng tác sang tiếng Pháp. Về mặt phiên bản điện ảnh, có hai tựa phim James Bond mà các bạn đọc tiếng Pháp tìm thấy trong tủ sách Série Noire. Đó là bộ phim « Diamonds are forever » (Điệp vụ kim cương) với Sean Connery, và sau đó là « Moonraker » (Căn cứ không gian) với Roger Moore. Có thể nói là thành công của James Bond đánh dấu thời kỳ huy hoàng của tiểu thuyết cũng như phim gián điệp. Ngoài ra, phim ảnh có tác động tích cực trong việc phổ biến sách truyện. Tính trung bình, một quyển tiểu thuyết trinh thám được xem là rất ăn khách khi bán được khoảng 100.000 bản. Đến khi được chuyển thể lên màn ảnh lớn, bộ phim có khả năng thu hút hàng triệu lượt người xem và trong số này sẽ có nhiều khán giả tìm đọc tiểu thuyết gốc. Mối quan hệ chặt chẽ ấy vẫn tồn tại cho đến ngày nay.  Việc chuyển thể sách thành kịch bản phim, nhiều hay ít, là tùy theo nhu cầu, chứ chưa bao giờ dừng lại. Chẳng hạn như phim « Zulu » với Orlando Bloom và Forest Whitaker trong vai chính, dựa theo tiểu thuyết của Caryl Férey. Đạo diễn Guillermo del Toro từng thử sức với phim trinh thám khi chuyển thể lên màn ảnh quyển tiểu thuyết đen « Nightmare Alley » (Con hẻm ác mộng) với Bradley Cooper trong vai chính. Ngoài ra, còn phải kể đến dòng truyện trinh thám đến từ vùng đất lạnh như trường hợp của nhà văn người Na Uy JoNesbo từng thành công với « The Snowman » (Sát nhân Người tuyết) với Michael Fassbender. Trong số các nhân vật nổi tiếng thích đọc Série Noire tại Pháp, có các nhà văn Jacques Prévert, Jean Giono, hay nghệ sĩ điêu khắc Giacometti. Có thể nói là chừng nào vẫn còn nhiều bạn đọc ghiền tiểu thuyết trinh thám, thì dòng phim hồi hộp hình sự vẫn còn nhiều kịch bản hay để dựng thành phim chiếu rạp cũng như phim truyền hình ».
loading
Comments