DiscoverTạp chí xã hội
Tạp chí xã hội
Claim Ownership

Tạp chí xã hội

Author: RFI Tiếng Việt

Subscribed: 13Played: 365
Share

Description

Những vấn đề xã hội Việt Nam và trên thế giới qua lăng kính RFI

305 Episodes
Reverse
Sau khi thử nghiệm thành công ở Áo, Thụy Sĩ, Đức, lần đầu tiên một tòa nhà không sử dụng hệ thống sưởi hoặc điều hòa được xây dựng tại Pháp, tại khu phố Confluence ở thành phố miền trung Lyon. Công trình kiến trúc, thích ứng với biến đổi khí hậu, cho phép duy trì nhiệt độ trong khoảng 22 đến 26 độ C quanh năm, dự trù khánh thành vào tháng 12/2025. Công trình được đặt tên là Essentiel 22-26, ám chỉ đến nhiệt độ được duy trì bên trong tòa nhà đã được khởi công xây dựng từ cuối năm 2024, do văn phòng kiến trúc Baumschlager Eberle của Đức thiết kế. Với 6 tầng, tòa nhà được đặt ở khu phố thương mại tại Lyon, gồm 23 căn hộ, được bán với giá cả phải chăng, khoảng 3000 euro/ m2, thuộc sở hữu của Foncière Solidaire du Grand Lyon. Đây được xem là tòa chung cư vận dụng lý thuyết sinh khí hậu đầu tiên tại Pháp, bảo đảm tiện nghi mùa hè và mùa đông cũng như chất lượng không khí trong nhà bằng các giải pháp kiến trúc thuần túy. Tức là tạo những cấu trúc cách nhiệt và giữ nhiệt thụ động, để tự tạo ra hệ thống làm mát và thông gió, giữ nhiệt một cách tự nhiên, thay vì sử dụng các thiết bị cơ học. Để hiểu rõ về nguyên lý hoạt động của công trình kiến trúc này. RFI Tiếng Việt đã phỏng vấn kiến trúc sư Anne Speicher, thuộc văn phòng kiến trúc Baumschlager Eberle, phụ trách thiết kế tòa nhà 22-26 này. Xin cảm ơn bà Anne Speicher. Trước tiên, bà có thể cho biết những nguyên lý cơ bản trong việc thiết kế ra tòa nhà đầu tiên ở Pháp ? Thiết kế của chúng tôi tập trung giải quyết 2 câu hỏi quan trọng : Làm sao để giảm thiểu triệt để tiêu thụ năng lượng cho người ở ? Làm sao để tăng sự tiện nghi đồng thời giảm phát thải carbon ? Để làm được điều đó, công trình này dựa trên 3 nguyên tắc chính. Đầu tiên là tính quán nhiệt (inertie). Chúng tôi sử dụng các vật liệu có khả năng giữ nhiệt, hấp thụ nhiệt và giải phóng nhiệt, cũng như độ ẩm và khí lạnh. Ví dụ như kết cáu của sàn nhà, vốn chiếm 70 % khả năng hấp thụ nhiệt lượng của tòa nhà, và các tường bao quanh;, dày 72 cm, gồm hai lớp gạch, và được hoàn thiện bằng vữa vôi bên ngoài và một số vị trí sử dụng kính ba lớp. Nguyên tắc thứ hai là tính thông gió tự nhiên và thứ ba là hệ thống điều khiển thông minh. Một hệ thống điều khiển sẽ giám sát và duy trì tính cân bằng của tòa nhà, dựa trên các thông số về chất lượng không khí (nồng độ CO2), độ ẩm và nhiệt độ. Các mô phỏng và thử nghiệm cho kết quả khả quan, đó là mức tiêu thụ điện ước tính khoảng 2kw/h cho mỗi m2/ mỗi năm.Đây cũng là tòa nhà duy nhất tại Lyon không vượt quá 28 độ C vào màu hè nhờ khả năng điều hòa tự nhiên. Tòa nhà được đặt tại khu phố Confluence, liệu vị trí này có đặc điểm gì cần phải chú ý khi xây dựng ? Khu Confluence có mật độ dân cư cao, gần đường cao tốc và do đó có nhiều tiếng ồn và ô nhiễm, đồng thời khu nằm trong khu vực có hoạt động địa chấn. Tất cả các yếu tố này đã được tính đến trong thiết kế. Cấu trúc tường dày và vật liệu nặng giúp giảm tiếng ồn hiệu quả hơn do so với các cấu trúc gỗ. Các khu nhà ở được bố trí lùi sâu vào trong, còn khu văn phòng, hay các trường học thì nằm ở phía ngoài để chắn tiếng ồn và bụi. Các yếu tố như hướng của công trình, hướng sáng có được tính đến như thế nào ? Công trình có mặt tiền (façade) khá sâu và có kính ốp ở mặt trong, từ 60-72 cm, tạo thành một « mái hắt » tự nhiên và tạo bóng. Các không gian sinh hoạt chính được bố trí ở phía trong, phía sau các khoảng hiên lõm (loggia), tạo chiều sâu thẩm mỹ, vừa giúp cản nắng trực tiếp. Tại Lyon Confluence, chúng tôi chọn giải pháp che nắng bằng rèm ngoài nhẹ, gần như bằng vải. Loại rèm này cho phép không khí đi qua, tạo nên sự cân bằng giữa ánh sáng dễ chịu và thông gió tự nhiên mà vẫn giữ được tầm nhìn thoáng.  Hệ thống thông thoáng khí tự nhiên hoạt động như thế nào ? Tất cả các cửa sổ đều có phần không trong suốt, được gọi là phần cửa mở tiện nghi (ouvrant de confort), được điều khiển bằng động cơ, kết nối với hệ thống cảm biến đo nồng độ CO2, độ ẩm không khí và nhiệt độ không gian ở, được bố trí trong các căn hộ. Khi nồng độ CO2 tăng, hệ thống sẽ tự đổng mở ô cửa này. Tất cả dữ liệu đó được truyền về hệ thống quản lý kỹ thuật tòa nhà (GTB) – một hệ thống điều khiển trung tâm vận hành theo thuật toán mà nhóm kiến trúc sư tự xây dựng. Cứ mỗi hai phút, dữ liệu được cập nhật và phân tích. Khi hệ thống nhận thấy nồng độ CO₂ tăng cao, nó sẽ tự động kích hoạt các cửa mở tiện nghi, cho phép thông gió chéo giữa các căn hộ, vốn đều được thiết kế xuyên suốt hai hướng, giúp luồng không khí lưu thông dễ dàng. Tuy nhiên, cư dân vẫn có thể can thiệp thủ công, tự tắt mở hệ thống theo ý họ. Nếu cửa được mở trong thời gian dài, nhất là vào các đợt nắng nóng, hệ thống sẽ cảnh báo người dùng, qua ứng dụng hoặc email (hiện vẫn đang nghiên cứu). Ví dụ, « nếu nhiệt độ ngoài trời lên tơi 38 độ C liên tiếp trong ba ngày, thì nên đóng cửa sổ lại ». Tính quán nhiệt của tòa nhà cao, giống như một hang động hoặc một không gian thánh đường cổ, luôn mát mẻ vào mùa hè. Do đó, một vài cửa sổ mở ra trong thời gian ngắn, cũng không ảnh hưởng đáng kể. Bà có thể nói rõ hơn về cấu tạo tường, độ dày và loại vật liệu sử dụng không? Đó có phải là những vật liệu đặc thù không? Kết cấu chính của công trình là khung bê tông cốt thép dạng cột - dầm, cho phép bố trí không gian linh hoạt như bãi đỗ xe, với rất ít tường chịu lực bên trong. Nhờ vậy, tòa nhà có thể dễ dàng thay đổi công năng hoặc bố trí nội thất trong tương lai mà không cần can thiệp lớn vào kết cấu. Phần tường được xây hai lớp gạch, với mạch vữa so le nhau, giúp hạn chế đáng kể sự truyền nhiệt. Bên ngoài được trát vữa vôi. Đây là một vật liệu tự nhiên, có nguồn gốc sinh học (bio-sourcé), trong đó có pha bột vỏ hàu, vừa giúp giảm đáng kể lượng phát thải carbon, vừa điều hòa độ ẩm bên trong công trình. Lớp vôi kép này góp phần duy trì cân bằng thủy - nhiệt (hydrochromie : khả năng của một vật liệu thay đổi màu sắc khi tiếp xúc với nước hoặc độ ẩm) cho toàn bộ khối nhà. Đối với cấu trúc ngang, vẫn là bê tông, nhưng là bê tông phát thải thấp, tận dụng khối lượng và độ trễ nhiệt (inertie thermique) của vật liệu. Không có trần giả, cho phép sàn bê tông hấp thụ và giải phóng nhiệt trực tiếp. Liệu công trình này có thể được nhân rộng trong tương lai ở Pháp hay không ? Ở Áo, Đức, và Thụy Sĩ, các công trình tương tự đã được triển khai cho nhiều loại hình, như văn phòng, trường học… Văn phòng kiến trúc của chúng tôi cũng đang thực hiện một dự án tương tự cho SNCF ở Bordeaux.  Tuy nhiên, tại Pháp, có những đòn bẩy nhưng cũng có những rào cản. Hiện luật của Pháp chưa cho phéo xây dựng nhà ở không có hệ thống sưởi, và mỗi căn hộ phải có ít nhất một bộ tản nhiệt (radiateur), cũng như hệ thống thông gió. Dự án ở Lyon được cấp phép đặc biệt là để thử nghiệm. Liệu người tiêu dùng có phải là một thách thức của công trình này ? Ngoài rào cản pháp lý, thách thức lớn vẫn nằm ở nhận thức của người dùng. Nhiều người muốn tự kiểm soát nhiệt độ nhà ở theo ý muốn. Tại Lyon, các căn hộ của dự án được bán hết trong một tuần. Họ hài lòng về tính tiện lợi của tòa nhà, tự điều chỉnh mọi thứ, như một thiết bị gia dụng thông minh, giúp tiết kiệm năng lượng. Các cuộc khảo sát tại những công trình đã được bàn giao ở những nước khác mà chúng tôi thực hiện cho thấy cư dân đánh giá cao chất lượng không khí trong nhà. Vữa vôi tự nhiên, hấp thụ CO2, duy trì độ ẩm và không gây khô da, khô mũi như khi sử dụng máy điều hòa thông thường. Một số bác sĩ tại Áo còn ghi nhận tỷ lệ bệnh đường hô hấp giảm trong các tòa nhà kiểu này. Liệu chi phí xây dựng có bị đội giá khi kết hợp các yếu tố về môi trường ? Trong dự án tại Bordeaux SNCF, kết quả nghiên cứu cho thấy chi phí đầu tư không chệnh lệch hơn so với các công trình truyền thống. Còn tại dự án ở Confluence ở Lyon, chi phí đã tăng 12% so với dự tính ban đầu. Tuy nhiên, đó là những yêu cầu bổ sung để đáp ứng các quy chuẩn hiện hành. Nhóm nghiên cứu của chúng tôi đã khẳng định hoàn toàn có thể tối ưu, để đạt chi phí cạnh tranh. Trong tương lai, nhiệt độ được dự báo tiếp tục tăng lên, trong trường hợp này, liệu các thiết kế tòa nhà có còn phù hợp? Hiện các công trình thuộc kiểu 22-26, đều được thiết kế dựa trên dữ liệu khí hậu giả định cho năm 2050 và không phải nhiệt độ hiện nay. Tại Bordeaux, chúng tôi đã xét đến kịch bản 2100, để đảm bảo công trình có khả năng thích ứng lâu dài. Chúng tôi bổ sung một số quạt đối lưu để tăng cảm giác mát mà không cần điều hòa, hoặc các tấm sàn bê có khả năng dẫn và tích trữ nhiệt (dalle active), tức là cho phép dòng nhiệt lạnh lưu thông trong sàn mà không cần đầu tư vào hệ thống thông gió cơ học phức tạp. Ngoài ra, tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng, điều thực sự bảo đảm tuổi thọ lâu dài của công trình chính là vẻ đẹp của nó. Chúng ta thường ít nhắc đến yếu tố thẩm mỹ. Chúng tôi muốn là không chỉ người cư dân sống trong tòa nhà phải tự hào, đây là điều chắc chắn, mà còn cả những người đi qua hàng ngày, những cư dân xung quanh. Họ cũng phải hài lòng về mặt thị giác, cảm thấy tòa nhà hài hòa và đẹp đẽ trong môi trường đô thị.
Đồng bằng sông Cửu Long (châu thổ sông Mekong), nằm ở vùng cực nam Việt Nam, cũng là vùng sản xuất nông nghiệp then chốt của đất nước, nhất là lúa gạo, trái cây và thủy sản. Thế nhưng, trong những năm gần đây, đồng bằng sông Cửu Long đang phải đối mặt với tình trạng xâm nhập mặn ngày càng phức tạp, không chỉ tác động đến đời sống con người và sinh thái, mà còn ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, khiến nhà nông phải tìm cách chuyển đổi để thích nghi với tình hình.   Nhưng đâu là những nguyên nhân và thực trạng mặn ở đồng bằng sông Cửu Long ? Để hiểu thêm tình hình, RFI có cuộc trao đổi với tiến sĩ Dương Văn Ni, Khoa Môi trường và Quản lý tài nguyên thiên nhiên, đại học Cần Thơ và Quỹ bảo tồn đồng bằng sông Cửu Long. RFI tiếng Việt : Đâu là nguyên nhân gây ra mặn đối với cây trồng ở đồng bằng sông Cửu Long ?   Tiến sĩ Dương Văn Ni : Về mặn đối với cây trồng ở đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là đối với sản xuất lúa, người ta chia làm hai loại mặn. Thứ nhất là mặn do nước biển tràn vào. Cái mặn này thường xuất hiện trong mùa khô, khi mà nước ngọt từ sông Cửu Long hoặc lượng nước mưa không đủ để đẩy nước mặn, thì mặn xâm nhập từ biển vào. Loại mặn thứ hai là mặn từ trong đất : chúng ta hình dung là phù sa của sông Mekong đi ra ngoài biển biển thì biến dần thành phù sa mặn. Khi phù sa này quay bồi tụ thì hình thành đất mặn. Đó là đất đó đã có sẵn muối trong đó rồi. Nói nôm na, chúng ta phân biệt làm hai loại mặn, mặn do nước biển và mặn có sẵn từ trong đất. RFI tiếng Việt : Người xưa đã thích ứng với chuyện mặn này như thế nào ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Đối với người xưa, khi đến định cư ở đồng bằng sông Cửu Long này, vùng Duyên Hải sát với phía biển, người ta chia chuyện sử dụng nước làm bốn loại. Thứ nhất là loại nước để ăn uống, đa phần người ta dựa vào nước mưa. Dễ thấy nhất khi xuống những vùng như thế này là thấy là người dân trữ nước mưa trong lu để dọc theo nhà. Mình có thể đếm số lu là có thể đoán biết là trong nhà đó có mấy người. Cái nước thứ hai là nước sinh hoạt, ví dụ để người ta tắm giặt … Phổ biến nhất là khi xây nhà, người ta đào cái ao kế bên nhà để trữ nước ngọt, thường gọi là ao rửa ăn. Và trong một vài trường hợp thì người ta đào những cái ao này xa trong ruộng, gọi là những cái đìa, hoặc là người ta đào những cái ao lớn để cho cả cộng đồng sử dụng, như những cái ao chùa hoặc là những cái ao ở những nơi tập thể. Hiện nay một số nơi còn biệt danh đó, ví như ao Bà Hom ở Trà Vinh. Đó là những cái ao rất lớn để giữ nước ngọt cho cả cộng đồng xài. Loại nước thứ ba gọi là nước sản xuất. Người ta dựa vào chất lượng nước và quyết định loại hình sản xuất. Ví dụ như nơi nào mà nước nó quá mặn thì người ta sử dụng để sản xuất muối. Còn nơi nào mà nước mặn trung bình hoặc là mặn vừa thì người ta để nuôi tôm, nuôi cua. Còn nơi nào mà nước không mặn thì người ta mới trồng lúa hoặc người ta kết hợp với nuôi cá đồng. Cái cuối cùng là nước sinh thái, người ta giữ để cho cây cối xanh tươi, để cho cá tép có chỗ sống, và để cho ghe xuồng có thể đi lại được trên kinh rạch, làm cho không khí mát mẻ. Tôi muốn lưu ý là người xưa cũng đã từng ngăn mặn. Nhưng mà người ta chỉ ngăn mặn từ ở dưới sông tràn lên trên ruộng thôi, chứ không ai ngăn mặn trên những con sông hay con rạch, bởi vì ông bà xưa đã từng dặn là có 2 điều rất là tội lỗi, không nên làm : đó là ngăn sông và cấm chợ. RFI tiếng Việt : Tình hình mặn năm 2025 ra sao và theo ông xu thế tương lai thế nào ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Nói về tình hình mặn hiện nay đó thì cái mặn xâm nhập từ biển vào, phần lớn được kiểm soát bởi các công trình như là đê ngăn mặn hoặc là cống đập ngăn mặn. Nhưng mà thực sự thì cái mặn mà không kiểm soát được là cái mặn từ trong đất đi ra, bởi vì do điều kiện địa chất hình thành vùng đất của mình, tầng đất ở bên dưới đã nhiễm mặn rồi. Thành thử khi mà thiếu cái nguồn nước ngọt bổ sung để rửa mặn hay là ém mặn từ bên trên thì cái mặn từ các cái tầng dưới sẽ mau dẫn lên và làm cho mặn trên mặt đất. Xu hướng mặn từ trong đất xì ra càng ngày càng tăng, bởi vì biến đổi khí hậu làm cho lượng nước ngọt càng ngày càng giảm. Về điều này, nhìn chung là theo xu hướng hiện nay cũng như là trong tương lai, diện tích của đất bị ảnh hưởng bởi mặn chỉ có tăng thôi chứ không có giảm. RFI tiếng Việt : Tình hình cụ thể năm nay so với, ví dụ như năm 2023 hay 2024, cái cái mặn này có tăng lên nhiều không ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Thật ra thì cái mặn đã có sẵn trong nước và trong đất. Nó là tự nhiên. Vấn đề khi là đánh giá là năm nay mặn nhiều hơn năm rồi hay là mặn ít hơn năm rồi thì chủ yếu là người ta dựa vào diện tích canh tác bị thiệt hại. Mà ở đây cụ thể là diện tích canh tác lúa. Cái đỉnh mà gọi là bị xâm nhập mặn trầm trọng nhất là năm 2015 và 2016, mặn xâm nhập rất là sâu vào trong đất liền và ảnh hưởng rất nhiều đến diện tích trồng lúa. Có 2 nguyên nhân. Nguyên nhân thứ nhất là mặn xâm nhập sớm, người ta trở tay không kịp. Nhưng nguyên nhân quan trọng nhất là người ta đã lấn, người ta đã đưa cây trồng vật nuôi không phù hợp với nước mặn, mở rộng diện tích ra gần biển quá nhiều trong những năm trước. Và như vậy khi mặn xâm nhập thì sẽ gây ra diện tích thiệt hại càng lớn. Và theo hướng đó thì những năm sau 2016 đến nay, cũng có những năm như 2020, 2022 mặn cũng khá nhiều nhưng mà thiệt hại, chủ yếu là thiệt hại trên diện tích canh tác lúa, không tăng bởi vì người dân đã có kinh nghiệm. Có nghĩa là những diện tích này không còn phù hợp để cho trồng lúa nữa và người ta giảm diện tích lúa cũng như là giảm mùa và vụ xuống. Thay vì hồi xưa trồng 2-3 vụ thì bây giờ người ta chỉ trồng một vụ thôi, do đó né được cái mặn. Hay nói nôm na là người ta có kinh nghiệm để tránh mặn. RFI tiếng Việt : Đâu là những nguyên nhân chính làm cho mặn có thể trở nên trầm trọng hơn? Liệu biến đổi khí hậu có góp phần vào nạn này không ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Nói về nguyên nhân làm cho mặn có thể trầm trọng hơn thì chúng ta có thể liệt kê ra 4 nhóm nguyên nhân chính. Thế nhưng, nguyên nhân đầu tiên vẫn là kiểu sử dụng đất của người nông dân, có nghĩa là người nông dân đã chọn cây trồng vật nuôi đó có tính tới chuyện cây trồng vật nuôi đó có chịu mặn được hay không ? Và quy trình quản lý cây trồng vật nuôi đó có giúp ngăn chặn được tác hại của mặn hay không? Cái thứ hai là chuyện vận hành hệ thống công trình như là đê điều cống đập. Hiện nay cách vận hành đó còn manh mún và chưa đồng bộ, thành thử thí dụ một nơi này thì đóng cống để mà ngăn nước mặn, nhưng mà nơi kia thì lại mở cống, thành thử mặn nó sẽ xâm nhập phía sau, phía trước. Đó là vấn đề thứ hai. Vấn đề thứ ba là nguồn nước ngọt từ sông Mekong. Chúng ta biết là nguồn nước ngọt ở thượng nguồn bây giờ đang bị khai phá rất là nhiều cho sản xuất, nên đôi khi trong mùa nắng thì mình thiếu nguồn nước ngọt để đẩy nước mặn xâm nhập vào đồng bằng đi ra ngoài xa. Và cuối cùng là biến đổi khí hậu, ở đây cụ thể là sự phân bố thất thường lượng nước mưa. Nếu lượng mưa phân bố thất thường, thì tại những vùng chủ yếu rửa mặn từ nước mưa, thì người ta không có đủ nước để rửa cho đất, những nơi đó là ảnh hưởng mặn càng ngày càng tăng nghiêm trọng hơn. RFI tiếng Việt : Mực nước biển dâng do biến đổi khí hậu có phải là một nguyên nhân đẩy nước mặn vào sâu trong đồng bằng sông Cửu Long hơn ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Thật ra nếu nói về chuyện mực nước biển dâng, thì tác động không nhiều bằng mà chuyện lún sụt mặt đất ở trong đất liền, bởi vì vận tốc sụt lún mặt đất ở trong đất liền hiện nay trung cũng khoảng chừng 1-2cm/năm, đặc biệt là có những vùng nhiều hơn, trong khi mực nước biển dâng chỉ có không phẩy mấy cm trong vòng 2-3 năm. Nên thực ra mực nước biển dâng có góp phần gây xâm nhập mặn, nhưng đó là một tiến trình lâu dài, chứ không xuất hiện từng năm, mà vận tốc tăng cũng rất chậm, trong khi sụt lún mặt đất của chúng ta trầm trọng hơn vì tốc độ nhanh hơn, nên làm nước mặn xâm nhập vô đất liền nhiều hơn. RFI tiếng Việt : Vậy sụt lún mặt đất có phải phần nào cũng là do việc người dân hút mạch nước ngầm lên, ví dụ để sử dụng phục vụ tưới tiêu sản xuất ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Sụt lún mặt đất thì chúng ta phải xét trên trên nhiều góc độ. Thứ nhất là chúng ta phải hiểu là đồng bằng của chúng ta hình thành được là do quá trình bồi lấn phù sa nhiều hơn là quá trình xói lở phù sa, nên mới tạo ra được mặt đất. Nếu quá trình bồi lấn phù sa đó nhỏ hơn quá trình sạt lở phù sa thì mặt đất của chúng ta tự nó cũng đã thấp xuống mỗi năm. Tôi cho rằng chuyện thiếu hụt phù sa bù đất cho những vùng đất hiện nay là yếu tố chính, bởi vì nhiều lý do liên quan tới kiểu sử dụng đất của người dân. Ví dụ như hồi trước có nhiều vùng qua mùa nước lũ người ta còn mở đê để lấy nước, phù sa còn bồi lấn trên đồng. Còn hiện nay, người ta quản lý nước chặt chẽ để canh tác suốt năm, phù sa không có cơ hội đi vào đồng ruộng, nên đồng ruộng không được bồi lấn tự nhiên lên, do đó mặt đất càng ngày càng sụt xuống. Cái thứ hai là chuyện trưởng thành của loại đất. Đất ở đồng bằng của chúng ta nó thuộc về đất non trẻ và đối với một đất non trẻ này thì tự nó khi mà nó săn chắc lại thì nó co ngót lại và cũng tạo ra một độ sụt lún tự nhiên. Và nguyên nhân thứ ba thì chắc chắn là do bây giờ người ta lấy quá nhiều nước ngầm. Ngày xưa người ta chỉ lấy để làm nước sinh hoạt và ăn uống trong giai đoạn thiếu nước thôi, còn ngày nay người ta lấy nước ngầm để phục vụ cho sản xuất nữa, thành thử lượng nước ngầm khai thác mỗi nơi phục vụ cho sản xuất rất lớn, gấp mấy chục lần lượng nước cần thiết để sinh hoạt. Đây là cũng là nguyên nhân làm cho mặt đất sụt lún rất nhanh. RFI tiếng Việt : Trường hợp mặn của đồng bằng sông Cửu Long thì có phải là cá biệt trên thế giới hay không ? Hay cũng có một số khu vực trên thế giới cũng có tình trạng giống như đồng bằng sông Cửu Long ? Quỹ bảo tồn đồng bằng sông Cửu Long có thể học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với những khu vực đó không ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Thật sự mà nói tất cả đồng bằng trên thế giới này đều có những thách thức tương tự như đồng bằng sông Cửu Long. Nhưng mà đồng bằng sông Cửu Long thì được xếp một trong 3 đồng bằng chịu tổn thương nhiề
Vụ trộm táo bạo hôm 19/10/2025 tại Louvre, một trong những biểu tượng văn hóa của Pháp tại Paris, bảo tàng nổi tiếng nhất thế giới, được xem là « vụ trộm thế kỷ » gây chấn động công luận trong và ngoài nước Pháp. Đây không chỉ là một mất mát cho giới bảo tàng của Pháp, với những bộ sưu tập hàng đầu thế giới, mà còn đặt ra nhiều câu hỏi về an ninh tại các bảo tàng, nhà thờ, công trình văn hóa … Bộ trưởng Văn Hóa Pháp Rachida Dati cũng thừa nhận rằng bảo tàng Louvre không phải là trường hợp cá biệt, « đã tồn tại những lỗ hổng an ninh và chúng cần được giải quyết ». Quả thực, vấn đề bảo vệ an ninh, tài sản tại các bảo tàng chưa bao giờ lại là chủ đề gây tranh cãi nhiều đến vậy. Trong khi dư luận dậy sóng, đặt lại các câu hỏi về biện pháp bảo vệ an ninh của bảo tàng Louvre nói riêng và cảnh sát Paris nói chung, hàng trăm chuyên gia tích cực điều tra về vụ trộm táo bạo cướp đi 88 triệu euro báu vật của Pháp, thì vào ngày thứ Ba, 28/10, Cục Thông tin, Tình báo và Phân tích Chiến lược về Tội phạm có tổ chức (Sirasco) của Pháp ghi nhận sự gia tăng các vụ trộm đồ tạo tác (các vật phẩm được con người tạo ra, thường mang giá trị khảo cổ) và tác phẩm nghệ thuật của các bảo tàng trong thời gian gần đây. Trung bình, mỗi năm có khoảng 20 vụ trộm cắp tại hơn 1.200 bảo tàng trên toàn nước Pháp. Nhưng theo AFP, báo cáo của Sirasco đã vẽ nên một bức tranh đáng lo ngại, nêu rõ là « các bảo tàng, nhà thờ và cá nhân tại Pháp ngày càng trở thành mục tiêu của tội phạm nhắm vào những báu vật và tác phẩm nghệ thuật quan trọng mà họ sở hữu ». Cục Cảnh sát Tư pháp Quốc gia (DNPJ) lưu ý là nhiều vụ trộm di sản hoặc hiện vật văn hóa khác đã liên tục xảy ra trong những tuần gần đây. 7 vụ trộm nghiêm trọng chỉ trong vòng 2 tháng Ví dụ, vào ngày 20/10, khi cả nước Pháp còn đang kinh ngạc về vụ trộm ở Louvre, thì bảo tàng Langres ở tỉnh Haute-Marne, vùng Grand Est, miền đông bắc, cũng bị trộm đột nhập, nhắm vào các đồng tiền vàng và bạc có từ thế kỷ 18. Trước đó, vào đầu tháng 9, một hiện vật là đồ sứ Trung Quốc, được xếp hạng « bảo vật quốc gia », đã bị đánh cắp khỏi bảo tàng Dubouché ở Limoges. Thiệt hại ước tính lên tới hơn 6,5 triệu euro. Vào ngày 21/10, một công dân Trung Quốc đã bị bắt tại sân bay Barcelona, Tây Ban Nha, với 1 kg vàng nấu chảy : người này bị tình nghi đã tham gia vào vụ trộm gần 6 kilogram vàng tự nhiên (chưa qua tinh chế) tại bảo tàng Lịch sử Tự nhiên ở Paris hồi tháng 09. Hôm 12/10, bảo tàng về tổng thống Pháp Jacques Chirac (nhiệm kỳ 1995-2007) ở Sarran, Corrèze, cũng trở thành mục tiêu. Những kẻ phạm tội nhắm vào các quà tặng ngoại giao mà ông Chirac đã được các nước tặng trên cương vị tổng thống, trong đó có đồng hồ và trang sức. Jean-Baptiste-Félicité, người đứng đầu Văn phòng Trung ương về Chống Buôn bán Tài sản Văn hóa (OCBC), xác nhận trong phiên điều trần trước Ủy ban Văn hóa của Thượng viện Pháp ngày 29/10/2025 : « Chúng tôi thấy có sự gia tăng các vụ nghiêm trọng trong hai tháng qua, tức là tháng 09 và 10. Chúng tôi ghi nhận là có ít nhất 7 bảo tàng đã bị nhắm tới trong những vụ mà các thủ phạm có sử dụng bạo lực, thậm chí là dùng vũ khí ».   Theo nhà chức trách Pháp, kẻ trộm hoặc nhắm vào các tác phẩm nghệ thuật vì giá trị nội tại của chúng : Đây thường là các vụ trộm được tiến hành kiểu theo đơn đặt hàng, nhưng cũng có thể là ăn trộm rồi bán cho các mạng lưới chuyên tẩu tán hàng ăn cắp ; hoặc kẻ trộm nhắm vào kim loại hoặc đá quý, những món hàng có thể chia tách ra từng phần nhỏ hoặc được nung chảy ra để bán lại mà không sợ bị nhà chức trách phát hiện nguồn gốc là sản phẩm bị đánh cắp. Trong bối cảnh bất ổn định chính trị toàn cầu, vàng được coi là « nơi trú ẩn an toàn », khối lượng vàng mua vào và giá vàng đều tăng chóng mặt trong thời gian qua. Cục Thông tin, Tình báo và Phân tích Chiến lược về Tội phạm có tổ chức (Sirasco) lưu ý rằng các hiện vật làm bằng vàng là mục tiêu đặc biệt bị kẻ trộm nhắm tới. Các đồ vật bằng bạc cũng thu hút tội phạm. Về phương pháp hoạt động, các nhóm tội phạm đôi khi sử dụng « các chiến thuật bạo lực » và « có thể thuê người thông qua các dịch vụ nhắn tin được mã hóa » hoặc qua các mạng xã hội. Để tăng cường an ninh tại bảo tàng Louvre, sau « vụ trộm thế kỷ » kéo dài 7 phút, chủ tịch kiêm giám đốc bảo tàng, Laurence Des Cars, đã yêu cầu đặt một đồn cảnh sát bên trong bảo tàng, nhưng cả bộ trưởng Nội Vụ Pháp, Laurent Nuñez, nguyên cảnh sát trưởng Paris, và tân cảnh sát trưởng Paris, Patrice Faure, đều bác bỏ. Hôm 29/10, trước Ủy ban Văn Hóa của Thượng Viện, cảnh sát trưởng Paris, Patrice Faure phát biểu : « Tôi kiên quyết phản đối, vì hai lý do : nếu chúng tôi chấp thuận yêu cầu này, tất cả các bảo tàng khác đều sẽ yêu cầu chúng tôi đặt đồn cảnh sát ở đó. (…) Tôi không nghĩ việc đặt một đồn cảnh sát bên trong (bảo tàng) sẽ là giải pháp lâu dài cho những khó khăn mà bảo tàng Louvre đang gặp phải (…) Và tôi nghĩ việc đó rõ ràng là sẽ vấp phải một số khó khăn, đặc biệt là bởi vì, nhìn chung thì kẻ trộm sẽ không ở lại nơi chúng đã đột nhập mà sẽ cố gắng thoát ra ngoài và mang theo các món đồ đã lấy trộm ». Chính vì vậy, cảnh sát trưởng Paris nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự hiện diện của cảnh sát xung quanh bảo tàng Louvre, bởi trong năm 2025, cảnh sát đã tiến hành can thiệp gần 1100 lần. Bộ trưởng Nội Vụ cũng đã ra chỉ thị cho các tỉnh trưởng tăng cường hệ thống an ninh quanh các cơ sở văn hóa nếu cần. Trong khi đó, Jean-Baptiste Félicité, Văn phòng Trung ương về Chống Buôn bán Tài sản Văn hóa (OCBC), cảnh báo cần tránh khả năng xảy ra « hiệu ứng Đường Maginot » (effet ligne de Maginot), ý nói tới một sự bảo vệ tưởng chừng vững chắc nhưng thực ra lại là vô hiệu, vì chỉ tập trung vào một mối nguy cũ, trong khi kẻ thù hoặc vấn đề thật sự đến từ nơi khác, nói cách khác là một cảm giác an toàn giả tạo do dựa vào một hệ thống bảo vệ lỗi thời. Trộm cắp không chỉ là mối de dọa duy nhất Trả lời chất vấn của Ủy ban Văn hóa của Thượng Viện, ông Jean-François Hébert, tổng cục trưởng Di sản và Kiến trúc thuộc bộ Văn Hóa, giới thiệu khái quát các mối đe dọa mà các bảo tàng Pháp phải đối mặt trong những năm gần đây: « Chúng ta (nước Pháp) thực sự sở hữu những bộ sưu tập phong phú nhất. Ý và nhiều nước châu Âu khác cũng có những bộ sưu tập rất phong phú, nhưng chúng ta chắc chắn nằm trong số những nước có những bộ sưu tập phong phú nhất thế giới. Và những bộ sưu tập này có thể được trông thấy trên khắp đất nước, nhất tại các bảo tàng. (…) Có 1.220 bảo tàng ở Pháp được công nhận là « Musée de France », danh hiệu « bảo tàng Pháp » dành cho các cơ sở đáp ứng một số tiêu chí mà tôi xin phép không đề cập chi tiết ở đây. 61 bảo tàng trong số này thuộc về Nhà nước, mà chúng tôi gọi là các bảo tàng quốc gia. Hầu hết các bảo tàng còn lại, gần 1.200 bảo tàng, thì do chính quyền địa phương quản lý. Và tất cả các bảo tàng, dù là bảo tàng quốc gia hay bảo tàng do chính quyền địa phương quản lý, thì đều có trách nhiệm, không chỉ lưu giữ, bảo tồn, làm giàu hay nghiên cứu, tìm hiểu về các bộ sưu tập của mình, mà còn phải giới thiệu các bộ sưu tập này đến với công chúng, đến càng nhiều người thì càng tốt. Bảo vệ các bộ sưu tập công khỏi những mối đe dọa mà chúng phải đối mặt không phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Tôi nghĩ rằng tất cả chúng ta đều nhận thức được điều đó, nhất là bởi vì các mối đe dọa rất đa dạng. Có thể nói đến hỏa hoạn, chúng ta cũng đừng quên nói đến lũ lụt, các hành vi phá hoại, hay là trộm cắp. Tôi muốn nhắc lại về những hành động đã được truyền thông nói đến rầm rộ, những hành động của những người thường được gọi chung là các nhà hoạt động vì khí hậu. Mọi người có thể quên, nhưng chuyện mới xảy ra cách nay chưa quá lâu, chỉ mới 2 năm trước thôi. Những người này đã cố tình xịt một loạt chất lỏng lên một số kiệt tác trong các bảo tàng của chúng ta để lôi kéo công luận chú ý đến cuộc đấu tranh của họ.   Riêng về vấn đề trộm cắp, trong trường hợp này, nó không chỉ đơn thuần là làm hư hại các tác phẩm nghệ thuật, và mọi người đều đồng ý rằng mối đe dọa đang không ngừng gia tăng kể từ năm 2015 trở đi, khi bắt đầu có nhiều vụ khủng bố diễn ra. Ngoài ra, còn có các cuộc biểu tình đầy bạo lực diễn ra ngay trước cổng các bảo tàng, đã có rất nhiều áp lực đè nặng lên mọi người. Và giờ đây, chúng ta đã thấy rõ ràng là chính các hiện vật, chính các bộ sưu tập, là mục tiêu bị nhắm tới ». Đây cũng là dịp để báo chí Pháp điểm lại những vụ trộm lớn nhắm vào các bảo tàng danh tiếng của Pháp trong quá khứ. Ví dụ theo trang CNEWS, vào ngày 20/05/2010, 5 kiệt tác của các danh họa Pablo Picasso, Henri Matisse, Georges Braque, Amedeo Modigliani và Fernand Léger, với tổng trị giá lên tới khoảng 100 triệu euro, được trưng bày tại Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại ở Paris, đã bị lấy đi ngay giữa ban ngày. Kẻ trộm, một người Croatia-Bosnia có tên là Vjeran Tomic, đã lợi dụng một lỗ hổng bảo mật : các cảm biến chuyển động đã ngừng hoạt động trong 2 tháng. Bị bắt gần một năm rưỡi sau đó, đến năm 2017, « Người Nhện » đã bị kết án 8 năm tù. Mặc dù không có tác phẩm nghệ thuật nào được tìm thấy, nhưng câu chuyện về vụ trộm 5 kiệt tác tại Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại ở Paris này đã truyền cảm hứng cho bộ phim Pháp dài tập « Les règles de l’art » - Các quy tắc về nghệ thuật, của Dominique Baumard, được phát hành trong năm nay. Chính bảo tàng Louvre và kiệt tác nổi tiếng nhất « La Joconde » - Nàng Mona Lisa - hồi năm 1911 cũng từng là nạn nhân của một vụ đánh cắp gây chấn động. Vincenzo Peruggia, một người thợ kính người Ý, tham gia vào việc phục chế tranh ở bảo tàng, đã đánh cắp bức tranh vì điều ông ta gọi là lòng yêu nước, để trả lại « La Joconde » cho nước Ý. May mắn là bảo tàng Louvre đã thu hồi lại được tuyệt phẩm của Leonard De Vinci. Lần này cơ may có lặp lại với bảo tàng Louvre sau « vụ trộm có tổ chức » hôm 19/10 hay không ? Các cuộc điều tra vẫn đang tích cực diễn ra, nhưng trước mắt, nhiều chuyên gia và nhà chức trách nhận định khó có thể thu hồi lại được « nguyên vẹn » những báu vật « vô giá về lịch sử » của Pháp. Trong một bài đăng trên Diễn đàn của báo Le Monde hôm 27/10, 57 người đứng đầu các bảo tàng lớn của Pháp
Hoàng gia Anh hiện được cho là một trong những hoàng gia giàu có nhất châu Âu và sẽ còn có sức sống lâu dài vì sau khi vua Charles lên nối ngôi Nữ hoàng Elizabeth II vào năm 2022, thì có con ngài là Thái tử William còn trẻ. Và William hiện có ba con, hai hoàng tử bé và một công chúa. Như thế, việc nối ngôi cho triều đại của dòng họ Mountbatten-Windsor được đảm bảo. Nhưng thực sự chúng ta có biết nhiều về Hoàng gia Anh ? Thông tín viên Nguyễn Giang, người đã sống ở Anh nhiều năm và theo dõi chủ đề này, cho RFI biết về lịch sử Hoàng Gia Anh, những gì họ sở hữu, điều đặc biệt trong cách chi tiêu và nguyên tắc kế vị : RFI : Ngược về quá khứ lịch sử, Hoàng gia Anh có gốc gác từ đâu ?  TTV Nguyễn Giang : Vâng, xin giải thích dài dòng là chế độ phong kiến tập quyền của Anh đến từ đâu. Đến từ Pháp vào nửa sau thế kỷ 11 và tồn tại đến bây giờ, Hoàng gia, như một định chế chính trị và văn hóa, tồn tại ở Anh liên tục từ thế kỷ 11, không đứt quãng, còn gia tộc nào nắm quyền thì mỗi thời một khác. Chúng ta biết trong lịch sử có các triều đại làm vua chúa ở Anh như Plantagenet (gốc Anjou, Pháp), có nhà Tudor (tức Theodore, xứ Wales), có nhà Stuart (Scotland), và dòng Hanover từ Đức mà người đại diện cuối cùng là Nữ hoàng Victoria. Gia tộc nắm ngai vàng hiện nay có họ gốc Đức là Saxe-Coburg-Gotha, đến năm 1917 thời vua George V thì đổi sang họ Windsor, lấy tên lâu đài Hoàng gia ở gần Luân Đôn. Còn về dòng máu của các thành viên Hoàng gia Anh cũng như châu Âu thì họ thường có hôn nhân pha trộn rất phức tạp. Cụ thể vua Charles hiện nay có ông bà là người Anh, người Đan Mạch, Đức, Hy Lạp và cả Scotland nữa. Còn nói về thể chế và các quy tắc họ tuân theo để bảo tồn một nhà nước có vua thì tất cả bắt đầu từ năm 1066. Năm đó, công tước Guillaume hay William từ xứ Normandy ở vùng bờ biển miền tây bắc nước Pháp đem quân sang đánh vua Harold, người gốc Đan Mạch, ở trận Hastings bên bờ biển và tiến quân về Luân Đôn, giành được ngai vàng Anh.  Từ đó, Anh chính thức có chế độ phong kiến tập quyền theo mô hình Pháp và các đời vua Anh (Kings of England), trên thực tế trong 300 năm tiếp theo vẫn dùng tiếng Pháp ở triều đình, tiếng Anh Trung đại (Middle English) chỉ dùng trong dân. Hoàng gia Anh thực chất là sinh hoạt theo kiểu Pháp và giới quý tộc Anglo-Saxon cũ, thường rất đơn giản, chỉ có ba cấp vua, các thân vương và tộc trưởng (chieftain, gọi là earl- sau đổi thành count-bá tước), cũng cải tổ theo hệ thống kiểu Pháp, đủ 5 tước vị : công - hầu - bá - tử - nam tước theo truyền thống hiệp sỹ (chivalry) của châu Âu. RFI : Trong thời hiện đại, khác với các nước châu Âu đã chuyển sang nền cộng hòa, Anh vẫn còn vua chúa và quý tộc. Vậy thực sự họ làm gì và có vai trò gì trong xã hội ?  TTV Nguyễn Giang : Nhiều nghi lễ ngày nay dòng họ Windsor vẫn giữ nguyên như thế từ thế kỷ 11 và Hoàng gia đứng đầu 600 dòng họ quý tộc gốc, hình thành sau cuộc xâm lăng của William, người chinh phục và được phong tước trong mấy thế kỷ sau đó. Đây là các tước quý tộc thực thụ của giới chúa đất vẫn còn quyền lợi (landed gentry), và được quyền trao lại cho con cháu họ (hereditary titles). Họ khác hẳn với những người bình thường, được tặng các tước sir, lord (baronnes), hiệp sĩ, quý ông quý bà trong danh sách của Hoàng gia công bố mỗi dịp năm mới (New Year’s Honours List). Danh sách này có hàng trăm người thuộc giới doanh nhân, văn nghệ sĩ, nhà hoạt động xã hội và sĩ quan quân đội. Sau nhiều năm phong tặng, con số người có các tước “quý tộc ban thưởng” này hiện ở Anh có trên 30 nghìn, mới đây gồm cả cựu cầu thủ bóng đá David Beckham. Thế nhưng các tước này có giá trị như huân huy chương, bằng khen, và không có quyền thế tập, truyền lại cho con cháu.  RFI : Hiện nay Đế quốc Anh không còn nữa thì vai trò chính trị của Hoàng gia là gì?  TTV Nguyễn Giang : Anh quốc là nền dân chủ có lâu đời trên thế giới nhưng theo thể chế quân chủ lập hiến (constitutional monarchy), và vẫn duy trì Vương triều: dòng họ Windsor. Nhà vua đóng vai trò Nguyên thủ Quốc gia (Head of State) để đại diện cho nước Anh trên thế giới, và phê chuẩn các đạo luật, bổ nhiệm thủ tướng. Ngài cũng là Tổng tư lệnh quân đội và theo truyền thống của Quân đội Anh, các sĩ quan cao nhất của các quân binh chủng đều được nhà vua phong tước quý tộc tượng trưng, còn bản thân vua Charles khi còn là Thái tử được mẹ của ngài, Nữ hoàng Elizabeth II lúc sinh thời, phong tước Nguyên soái (Field Marshall) vào năm 2012. Không quân và Hải quân Anh đều có chữ “Hoàng gia” (Royal) và trên lý thuyết là thuộc về nhà vua.  Thế nhưng, vua Charles III còn có vai trò nữa là “người dẫn dắt quốc gia” (Head of Nation) về mặt văn hóa, là người nắm quyền chủ thể (the Sovereign) duy trì tính truyền thống Anh, và lễ nghi, đem lại sự ổn định và tính kế thừa, đoàn kết quốc dân. Các hoạt động vì cộng đồng, từ thiện nếu làm tốt là được nhận huân huy chương từ Hoàng gia, chứ không phải từ quan chức chính phủ.  RFI : Hoàng gia Anh, cụ thể là vua Charles III và các thành viên Hoàng gia có sở hữu tài sản khắp cả nước hay không và họ quản lý tài sản ra sao?  TTV Nguyễn Giang : Ở đây cần phân biệt hai loại tài sản. Loại thứ nhất tư dinh, điền sản và tiền bạc của riêng Nhà vua và Hoàng gia, thuộc về cá nhân họ. Loại thứ hai là tài sản của vương triều (Crown Estate) và ai làm vua nước Anh thì được sử dụng suốt đời nhưng không phải là tài sản cá nhân nên không thể bán đi bỏ túi.  Xin nói cụ thể, tính đến tháng 5/2025 thì tài sản riêng của Nhà vua Charles III (personal fortune, not including the crown estate) là £640 triệu bảng Anh (trên 850 triệu USD), đưa ông trở thành triệu phú lớn nhưng chưa phải tỷ phú. Đó là trị giá hai khu dinh thự ở Balmoral (Scotland) và Sandringham (Norfolk) kèm đất đai xung quanh, cộng các khoản nhà vua đầu tư vào các quỹ khác nhau, lợi tức từ kinh doanh mà vua giao cho các công ty phụ trách.  Còn tài sản Hoàng triều, gồm các cung điện lớn nhất nước Anh và cũng là trụ sở và nơi ở của vua như Điện Buckingham ở thủ đô và Lâu đài Windsor ở phía Tây Nam Luân Đôn, cùng nhiều điền trang thái ấp như Duchy of Cornwall...ước tính có giá trị 16 tỷ bảng Anh, thực chất là thuộc về Vương quốc Anh, và ai làm vua thì quản trị chứ không phải của riêng của dòng họ Windsor hiện nay. Lâu đài Windsor chẳng hạn có từ thời vua William người Pháp (1066), nay là trụ sở ngoài Luân Đôn của Vua Charles nhưng cũng là dinh thự quốc gia, nơi đón các khách quốc tế, ví dụ như Tổng thống Emmanuel Macron của Pháp mới đây. Ngoài ra, Crown Estate sở hữu và quản trị các “công quốc” (duchies), tức là các khu trang trại sản xuất nông nghiệp, đem lại lợi tức lớn. Tiền đó được chuyển vào một ngân hàng do chính phủ Anh quản lý (Consolidate Fund) và chừng 25% đem ra chi lại cho Hoàng gia để đi lại, bảo dưỡng, trùng tu các cung điện...  Thế nhưng, các tài sản này như đã nói, thuộc về Vương triều, và vua Anh không thể đem cho thuê, bán cho bất cứ ai ở Anh hay ở nước ngoài. Các hoàng tử, công chúa cũng không được hưởng gì từ những tài sản này. Ví dụ còn nhỏ thì họ được ở cùng cha mẹ, tức là vua và hoàng hậu (thời trước là nữ hoàng và phu quân) trong các cung điện đó nhưng họ không có quyền thừa kế. Chỉ vị trưởng nam, hoặc trưởng nữ (như trường hợp công chúa cả Elizabeth kế vị vua cha George V), thì được hưởng tiếp tục quyền lợi ở trong các cung điện, dinh thự này. Những người khác, vẫn là hoàng tử, công chúa thì có thể phải rời đi.  RFI : Về chi tiêu của Hoàng gia thì nhà nước Anh, hay người đóng thuế Anh phải bỏ ra bao nhiêu một năm?  TTV Nguyễn Giang : Số tiền Nhà nước Anh, chi cho hoạt động của nhà vua và Hoàng gia hàng năm là khoảng 86-87 triệu bảng (tương đương 115 triệu USD). Như tôi nói ở trên, tổng tài sản của Hoàng triều (Crown Estate) trị giá 16 tỷ bảng, đem lại lợi tức hàng năm và nhà nước Anh thu tiền đó lại rồi lấy ra 25% chi lại cho Hoàng gia, gọi là Sovereign Grant.  Trong khoản tiền này thì chừng 50-51 triệu bảng chủ yếu để bảo vệ, duy trì, sửa sang các dinh thự, cộng với chi phí đi lại, ví dụ vua Charles đi thăm nước nào đó, ở cương vị Nguyên thủ Quốc gia thì đó là chi phí máy bay, khách sạn... Ví dụ từ năm ngoái tới nay, Hoàng gia có thuê 55 chuyến bay riêng với gần 600.000 bảng Anh, và các chuyến bay theo lịch trình mất 126.000 bảng Anh. Tổng chi phí đi lại của hoàng gia là 4,7 triệu bảng Anh, tăng 500.000 bảng so với năm trước. Trong năm qua, khoản chi lớn nhất là 400.000 bảng cho chuyến đi của Nhà vua và Hoàng hậu tới Úc và Samoa. Nếu chia ra thì để duy trì các hoạt động của Hoàng gia, mỗi người dân Anh hàng năm đóng góp chừng 77 xu Anh.    RFI : Theo anh tìm hiểu thì nguyên tắc truyền ngôi và thừa kế tài sản, các cung điện, dinh thự lớn của Hoàng gia Anh ra sao?  TTV Nguyễn Giang : Phải nói rằng Hoàng gia Anh đứng trên cao nhất nhưng không đứng ngoài các nguyên tắc của quý tộc Anh : hạn chế quyền thừa kế, chỉ cho trưởng nam, hoặc trưởng nữ nếu vua không có con trai. Đây là nguyên tắc ‘primogeniture’, nói rằng trừ một số biệt lệ với quý tộc Scotland cho con gái có quyền thừa kế, chỉ con trai trưởng được thừa kế gia sản đi kèm tước vị. Nếu nhà quý tộc có hai con trai trở lên, các con trai thứ sẽ không nhận được gì.  Với Hoàng gia Anh, khi Nữ hoàng Elizabeth còn sống thì Thái tử Charles là người duy nhất thừa kế ngai vàng cùng các điền sản, tiền bạc từ mẹ. Các hoàng tử thứ Andrew và Edward, cùng công chúa Anne bị loại ra ngoài khoản thừa kế. Nay thì vua Charles sẽ để lại hết cho Thái tử William, còn hoàng tử Harry thì ngoài các khoản tiền hay dinh thự tư nhân mẹ để lại, không được thừa kế cả quyền sống trong các lâu đài của Hoàng gia. Nay đã sang Mỹ sinh sống, vị Hoàng tử này đã trọ ở khách sạn trong lần gần nhất về Luân Đôn tham gia một vụ kiện chống lại báo chí Anh. Tất nhiên ta phải hiểu là Hoàng tử Harry như một công dân bình thường thì vẫn có quyền nhận thừa kế từ cha mẹ (Công nương Diana khi tử nạn năm 1997 ở Paris có để lại tài sản cho hai con trai, William và Harry), nhưng đó là tài sản cá nhân, còn các điền trang thái ấp thuộc Hoàng triều (Crown Estate) thì chỉ được trao cho trưởng nam, hoặc trưởng nữ nếu nhà v
Chiến dịch Swachh Bharat do Thủ tướng Narendra Modi phát động năm 2014 đặt mục tiêu chấm dứt tình trạng đại tiện ngoài trời tại Ấn Độ. Với hơn 110 triệu nhà vệ sinh được xây dựng và tuyên bố “không còn tình trạng đại tiện ngoài trời” vào năm 2019, liệu chương trình này có thực sự thành công? Những rào cản về văn hóa, tôn giáo và bất cập trong bảo trì đang đặt ra câu hỏi lớn về tính bền vững của chiến dịch này. Để nói về vấn đề đi vệ sinh ngoài trời ở Ấn Độ, nhiều chuyên gia nghiên cứu về vệ sinh trích lại câu nói của Ganhdi : “Vệ sinh còn quan trọng hơn cả độc lập”. Từ nhiều thế kỷ qua, Ấn Độ được coi là một trong những quốc gia mà tỷ lệ người dân đi vệ sinh ngoài trời cao nhất thế giới. Vào năm 2014, khoảng 40 % dân số Ấn Độ đi vệ sinh ở ngoài trời, tương đương với hơn nửa tỷ người. Thời điểm đó, nhiều ngôi nhà, trường học hay các hạ tầng được xây dựng mà không có nhà vệ sinh. Tình trạng này chủ yếu xảy ra tại các khu vực nông thôn (65%). Điều này không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng, làm gia tăng các bệnh truyền nhiễm như tiêu chảy, tả, và viêm gan A, mà còn gây tổn thất kinh tế lớn, được ước tính lên tới 6% GDP của Ấn Độ (World Bank, 2014). Hệ thống vệ sinh kém còn làm trầm trọng hơn tình trạng bất bình đẳng giới, khi nhiều khu vực có nhà vệ sinh chỉ dành riêng cho nam giới, khiến phụ nữ và trẻ em gái phải đối mặt với nguy cơ bị quấy rối hoặc tấn công khi đi vệ sinh ngoài trời vào ban đêm. Để giải quyết tình trạng này, thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi đã phát động chiến dịch đầy tham vọng Swachh Bharat (Ấn Độ sạch) vào năm 2014, để cải thiện vệ sinh và xóa bỏ tình trạng đại tiện ngoài trời tại Ấn Độ trong vòng 5 năm. Chương trình đã thúc đẩy việc xây dựng và sử dụng lâu dài cho tất cả các thành viên trong hộ gia đình, cũng như khởi xướng các dự án Quản lý chất thải rắn và lỏng (SLWM) tại nhiều ngôi làng của đất nước. Chương trình cũng tập trung vào can thiệp thay đổi hành vi, nhận thức của người dân có tính đến văn hóa, tập quán, và nhu cầu của địa phương. Trong tuyên bố ngày 2 tháng 10 năm 2019, nhân kỷ niệm 150 năm ngày sinh của Gandhi, thủ tướng Ấn Độ Modi khẳng định không còn tình trạng đại tiện ngoài trời (ODF). « Trong 60 tháng, 600 triệu người đã được tiếp cận nhà vệ sinh, hơn 110 triệu nhà vệ sinh đã được xây dựng. » Theo Bộ Nước và Vệ sinh Ấn Độ (Ministry of Drinking Water and Sanitation, 2019), trong 5 năm, 600 triệu người được tiếp cận nhà vệ sinh. Toàn bộ 36 bang và vùng lãnh thổ của Ấn Độ tuyên bố “không còn tình trạng đại tiện ngoài trời” (ODF – Open Defecation Free) vào năm 2019. Tỷ lệ tiếp cận nhà vệ sinh tăng từ 38% (2014) lên hơn 98% (2019). Tỷ lệ mắc bệnh liên quan đến vệ sinh, đặc biệt là tiêu chảy và bệnh đường ruột cũng giảm đáng kể. Những nhà vệ sinh được xây dựng có thực sự được sử dụng ?  Tuy nhiên, nhiều chuyên gia đặt câu hỏi về tính bền vững và hiệu quả thực tế của những con số này. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng một bộ phận người dân vẫn tiếp tục đại tiện ngoài trời ngay cả khi khu vực của họ đã được công nhận là ODF. Nhà nghiên cứu về Ấn Độ Catherine Bros, giảng viên tại đại học Tours trả lời France Culture, cho biết :    Tác động của chương trình mà chính phủ Ấn Độ đưa ra, thường được đánh giá không lâu sau khi các nhà vệ sinh được xây dựng, và vội vàng đưa ra kết luận rằng chương trình này đã thành công. Nhưng trên thực tế, khi quay trở lại nghiệm thu nhiều năm sau đó, người ta có thể thấy rằng vấn đề đối với các nhà vệ sinh được xây dựng đó là bảo trì. Khi chính quyền hoan nghênh việc đã xây dựng được nhiều nhà vệ sinh, cấp nước cho nhiều ngôi làng, nhưng 7, 8 năm sau, khi quay trở lại, những nhà vệ sinh đó đã bị bỏ hoang, không ai dọn dẹp, đường ống thì vỡ hỏng, tắc nghẽn… Đó chính là mặt khuất của chương trình này ». Tại sao những nhà vệ sinh lại không được sử dụng hay bảo trì ? Vấn đề này còn nhiều nguyên nhân sâu sa. Theo nghiên cứu của Diane Coffey, nhà nhân khẩu học tại đại học Texas, chuyên nghiên cứu về tình trạng vệ sinh ở Ấn Độ, nguyên do đầu tiên là yếu tố văn hoá. Tại nhiều khu vực nông thôn ở Ấn Độ, phân được coi là nguồn gây ô nhiễm chính. Đạo Hin Đu được nhiều người Ấn tin theo, đưa ra những khái niệm về sự thanh tịnh (shuddhata) và sự ô uế (ashuddhata). Việc để phân gần nhà, thậm chí ngay cả trong bể phốt, cũng bị coi là làm ô uế không gian sinh hoạt. Tín ngưỡng này khiến nhiều người muốn đi đại tiện ở ngoài trời, xa nhà, để giữ môi trường xung quanh trong sạch, thanh tịnh. Trong các ngôi nhà tại Ấn Độ thường có khu vực thờ cúng cho tổ tiên và các vị thần. Việc có nhà vệ sinh ở gần được coi là hành động báng bổ, thiếu tôn trọng thần linh. Hệ thống phân cấp bậc xã hội vẫn nặng nề trong xã hội Ấn Tại Ấn Độ, xã hội vẫn bị chia rẽ, phân cấp, dựa trên xuất thân và nghề nghiệp. Yếu tố này cũng có vai trò quan trọng trong nhận thức về vệ sinh và chăm sóc sức khỏe. Cụ thể, xã hội Ấn Độ được chia làm bốn đẳng cấp (Varnas) : Brahmanes - Các thầy tu, trí thức, người dạy học; Kshatriyas - Các chiến binh, nhà lãnh đạo; Vaishyas - Các thương nhân, thợ thủ công; Shudras - Những người lao động, phục vụ. Ngoài 4 nhóm này, là các Dalit (tiện dân), còn được gọi là những “Không thể chạm vào”, được giao những công việc bị coi là “ô uế”, bao gồm công việc dọn dẹp nhà vệ sinh và xử lý chất thải con người. Mặc dù Hiến Pháp Ấn Độ năm 1950, đã huỷ bỏ việc phân tầng giai cấp, nhưng những người Dalit, vẫn tiếp tục bị phân biệt đối xử, coi là những người dưới đáy xã hội. Trong tâm thức của nhiều người Ấn, việc lắp đặt nhà vệ sinh ở trong nhà có nghĩa là cần phải dọn dẹp, và công việc này bị coi là việc hạ đi phẩm giá của những người thuộc tầng lớp cao hơn. Nhiều người từ chối sử dụng nhà vệ sinh, để tránh bị gắn với hình ảnh người Dalit và những người dọn dẹp vệ sinh. Các nhà nghiên cứu cũng nêu ra những thói quen đã hình thành từ nhiều thế hệ. Một số người thích đi đại tiện ngoài trời vì thói quen lâu đời và cảm giác thoải mái. Nhiều người không muốn đi đại tiện trong một không gian hẹp, đặc biệt là đối với những người lớn lên với thói quen đó, thì đi đại tiện ở ngoài tự nhiên “thoáng gió”, không có mùi hôi, thường được coi là ưu điểm so với nhà vệ sinh kín. Chính phủ Ấn Độ đã chi khoảng 28 tỷ đô la cho chương trình Ấn Độ Sạch từ hơn chục năm qua, nhưng Marie-Hélène Zerah chuyên gia về Ấn Độ tại đại học Paris-Cité, trả lời đài phát thanh Pháp, giải thích thêm về những bất cập của chương trình này : « Có những nhà vệ sinh được xây dựng, nhưng lại được sử dụng cho mục đích khác, ví dụ như trở thành nơi chứa đồ. Những gia đình nhận được hỗ trợ tài chính để xây dựng nhà vệ sinh, nhưng lại xây một gian khác và tiếp tục hành vi đại tiện ở ngoài trời như truyền thống. Đó mà vấn đề đầu tiên. Thêm vào đó và tình trạng phân biệt đối xử đối với các gia cấp xã hội vẫn duy trì. Một số nhóm người không được phép sử dụng nhà vệ sinh công cộng, ngay cả trong thành phố. Vấn đề thứ ba là việc đông dân, ngay cả trong những ngôi làng, nên khó có thể xây dựng nhà vệ sinh ở khắp mọi nơi. Thêm vào đó, chính phủ đã chi rất nhiều vào đầu tư xây dựng hạ tầng, nhưng những công trình đó lại không đảm bảo chất lượng. Vấn đề quan trọng để thay đổi nhận thức về văn hóa xã hội, thì lại không được chú trọng. »   Nhiều nghiên cứu, trong đó có học giả Anisha Gupta, đã chỉ ra tình trạng thiếu nhận thức về lợi ích sức khỏe của việc sử dụng nhà vệ sinh. Một số người không biết về mối liên hệ giữa việc đại tiện ngoài trời và sự lây lan các bệnh lây truyền qua đường nước như tiêu chảy hoặc dịch tả. Một số khác thậm chí còn cho rằng có nhà xí sẽ tạo ra khí ga độc hại, gây bệnh. Và các chương trình tuyên truyền thúc đẩy việc sử dụng nhà vệ sinh lại không đề cập đến yếu tố tín ngưỡng văn hóa. Với hơn 10 năm nghiên cứu về vấn đề vệ sinh ở Ấn Độ, nhà nghiên cứu Anisha Gupta trả lời RFI Tiếng Việt bày tỏ quan ngại : “Hiện đã là năm 2025, trong khi chính phủ Ấn Độ đã thông báo chấm dứt tình trạng vệ sinh ngoài trời. Chương trình làm sạch Ấn Độ  nói trên đã chấm dứt, và không còn các hoạt động xây dựng nhà vệ sinh hoặc tuyên truyền phổ biến kiến thức. Do đó tôi e sợ rằng những nhà vệ sinh do chính phủ xây dựng sẽ sớm xuống cấp, không được bảo trì, hoặc không được sử dụng và tình trạng đi vệ sinh ngoài trời vẫn tiếp diễn. Chúng tôi hiện không có nhiều dữ liệu về vấn đề này, nên khó có thể biết chuyện gì đang xảy ra”. Trong nghiên cứu của mình, Anisha Gupta kết luận rằng sự thay đổi hành vi không thể áp đặt bằng biện pháp kỹ thuật hay tuyên truyền ngắn hạn, mà cần chuyển đổi nhận thức sâu về “sạch sẽ” trong khuôn khổ tôn giáo và đẳng cấp. Chỉ khi đó, các chương trình vệ sinh mới đạt được tính bền vững thực sự.
Sau New York, Lisbon hay Barcelona, đến phiên thủ đô nước Áo « tuyên chiến » với các dịch vụ cho thuê nhà ngắn hạn. Noi gương Amsterdam, thủ đô Vienna từ đầu năm nay muốn hạn chế tối đa việc cho du khách thuê nhà. Sở dĩ các thành phố Âu Mỹ phải ban hành những biện pháp triệt để, là vì người dân ngày càng bất bình về tình trạng thiếu nhà ở. Lỗi tại Airbnb ? Theo báo Le Monde, thực tế không đơn giản như vậy vì ngoài Airbnb còn có hiện tượng « gentrification ». Thuật ngữ chuyên ngành gọi hiện tượng nâng cấp trung tâm thành phố là « gentrification ». Từ này bắt nguồn từ chữ « gentry » trong tiếng Anh, chỉ tầng lớp xã hội có trình độ học vấn và thu nhập cao. Quá trình nâng cấp một khu phố thường làm tăng giá sinh hoạt cũng như giá nhà cho thuê. Cư dân sinh sống trước đây tại khu phố, buộc phải di dời về các vùng ngoại ô. Chỉ có thành phần có tiền, trong đó có kiều dân Âu Mỹ hay du khách nước ngoài mới có đủ điều kiện để thuê nhà. Dịch vụ cho thuê nhà ngắn hạn Airbnb càng làm cho tình trạng « dân thiếu nhà ở » càng thêm trầm trọng. Hiện tượng nâng cấp đô thị « gentrification » chẳng có gì là mới và hầu như đang diễn ra tại nhiều thành phố lớn trên thế giới. Một cuộc triển lãm gần đây tại Viện bảo tàng Carnavalet, chuyên về lịch sử Paris cho thấy khu phố Marais ở trung tâm thành phố đã biến đổi rất nhanh chóng trong vòng chưa đầy hai thập niên. Phố Marais đã thay đổi diện mạo, tiệm sách, tiệm giặt ủi hay cửa hàng bán lẻ đã dần dần nhường chỗ lại cho hàng quán sang trọng, các cửa hiệu thời trang đắt tiền. Trong khu vực Marais, đường phố nay đã sạch sẽ xinh xắn hơn, nhưng giá nhà đất cũng thuộc vào hàng đắt đỏ nhất Paris (13.000 euro/mét vuông). Marais cũng trở thành nơi tập trung nhiều nhà cho thuê ngắn hạn theo kiểu Airbnb. Giới chủ nhà có lời hơn khi cho du khách thuê với giá cao trong vài ngày (hay vài tuần) quanh năm suốt tháng,  thay vì cho dân thuê nhà theo hợp đồng dài hạn. Trường hợp của thủ đô Paris không khác gì mấy so với Lisbon hay Barcelona. Riêng tại Hy Lap, nhiều cuộc biểu tình đã diễn ra tại thủ đô Athens trong mùa hè vừa qua nhằm phản đối tình trạng giá thuê nhà đã tăng 15% chỉ trong vòng một năm. Giáo viên Dimitris Petas, trưởng ban tổ chức biểu tình cho biết nguyên nhân  : "Có nhiều lý do giải thích vì sao giá nhà cho thuê tăng mạnh như vậy. Trước hết, nhà nước Hy Lạp không có một chính sách công xây nhà ở cho dân, không có quy định mức trần nhằm hạn chế giá thuê nhà, tăng nhanh trong một thời gian ngắn. Giá nhà cho thuê lên xuống tùy theo mức cung cầu trên thị trường địa ốc. Dịch vụ cho thuê nhà ngắn hạn Airbnb chỉ làm cho vấn đề thiếu nhà ở cho dân, thêm trầm trọng. Các dãy phố ở trung tâm thủ đô giờ đây chỉ dành cho giới giàu có hay du khách nước ngoài có sức mua cao. Chưa kể đến tác động của chương trình thị thực vàng « Golden Visa », cấp thẻ lưu trú dài hạn cho những nhà đầu tư nào có khả năng chi vốn từ 250 ngàn euro trở lên. Tất cả những yếu tố ấy khiến thành phần dân cư truyền thống không còn đủ sức trả tiền nhà tại thủ đô Hy Lạp". Cũng như người dân Hy Lạp, nhiều dân thủ đô Mexico thường tập hợp biểu tình kể từ trung tuần tháng 07/2025, để phản đối về tình trạng thiếu nhà ở triền miên. Theo đài France 24, việc nâng cấp trung tâm thành phố và cho thuê nhà ngắn hạn với giá cao,  dẫn đến tình trạng khan hiếm nhà cho thuê dành cho cư dân sinh sống và làm việc tại Mexico. Thành phần có mức lương trung bình ngày càng khó tìm được nhà cho thuê với giá cả hợp lý. Vào mùa hè năm nay, làn sóng phẫn nộ lại dâng cao tại Mexico khi giá nhà cho thuê vẫn tăng đều đặn, khoảng 8% mỗi năm. Trong khu vực châu Mỹ Latinh, Mexico là một trong những điểm đến hàng đầu với hơn 42 triệu lượt khách du lịch quốc tế trong năm qua. Nước này còn thu hút một cộng đồng kiều dân Bắc Mỹ đông đảo (Hoa Kỳ và Canada). Trong thời gian gần đây, thủ đô Mexico tập hợp nhiều thành phần gọi là « dân du mục kỹ thuật số » (digital nomad), chủ yếu là người Mỹ có khả năng làm việc từ xa, nên chọn Mexico làm nơi lưu trú. Tuy nhiên, sự hiện diện của thành phần có tiền này đang khiến giá sinh hoạt thường ngày, giá hàng tiêu dùng cũng như giá nhà cho thuê, nhanh chóng tăng vọt. Với mức lương trung bình, các hộ gia đình người Mexico sống ở thủ đô không thể nào theo kịp. Trong số này có cô Alicia, sinh viên năm thứ ba ngành kiến trúc ở Mexico cho biết : "Gia đình tôi sống ở phía đông thành phố Mexico. Mỗi ngày để đi từ nhà đến trường đại học, tôi phải mất hơn hai tiếng đồng hồ. Nơi tôi ở, cho dù không phải là nơi sang trọng, nhưng giá cả vẫn trên đà gia tăng, một phần vì các khu phố xung quanh đều đang được cải thiện, nâng cấp. Ở những khu chợ mà tôi thường đi mua sắm, bây giờ có nhiều nhân viên bán hàng nói tiếng Anh, trong khi trước đây đó là những phiên chợ nhỏ, tại những khu vục mà hầu như không có du khách nào lui tới". Tại khu vực trung tâm thành phố, giá nhà cho thuê mỗi tháng đã tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm trước. Theo lời anh Juan là một cư dân ở Alameda, gần phố Tàu Barrio Chino tại Mexico, một số khu vực đã biến đổi với tốc độ chóng mặt nhằm thu hút thành phần có tiền hơn là dành ưu tiên cho người dân sinh sống và làm việc tại chỗ : "Với mức lương hàng tháng hiện nay, tôi sẽ không bao giờ có đủ tiền để mua được một căn hộ cho gia đình tôi. Mức lương trung bình toàn quốc Mexico là khoảng 480 đô la một tháng, trong khi một căn hộ 60 mét vuông được bán với giá 3 triệu rưỡi peso (180.000 đô la Mỹ). Dù có trả góp, tôi sẽ không bao giờ mua được nhà cho các con tôi. Ở nơi tôi ở, các dãy phố đang thay đổi diện mạo, ngày càng có nhiều du khách đến đây lưu trú nhưng không biết tiếng Tây Ban Nha. Trong số cư dân mới, cũng có nhiều kiều dân nước ngoài. Thành phần cư dân cũ có cảm giác họ bị gạt ra bên lề". Nỗi bất bình của cư dân Mexico lại càng gây thêm nhiều tiếng vang khi một số khẩu hiệu biểu tình như « Gringos out » hay « Mexico is for Mexicans » giống như một lời đáp trả chính sách của ông Donald Trump trục xuất di dân, gây ra nhiều căng thẳng giữa hai chính quyền Hoa Kỳ và Mexico. Theo anh Tony, một cư dân người Mexico đã chuyển nhà từ thủ đô về sống ở một tiểu bang lân cận, cộng đồng kiều dân Mỹ sống ở Mexico dù không muốn, cũng bị chỉ trích là đã làm cho vấn đề thiếu nhà ở cho dân thêm trầm trọng : "Cộng đồng kiều dân nước ngoài thường có những công việc được trả lương khá hơn, bằng đô la hoặc euro. Họ chọn định cư ở Mexico vì đời sống cũng như giá sinh hoạt ở đây rẻ hơn nhiều so với nguyên quán của họ. Nhờ có hợp đồng làm việc cho các công ty ngoại quốc, họ có đủ khả năng thuê những căn nhà rộng, dư dã trong chuyện mua sắm và có được một lối sống mà họ không thể nào chi trả nổi, khi còn ở quê nhà. Nhiều người nước ngoài chọn lưu trú ở Mexico chủ yếu để hưởng lợi từ việc có thêm sức mua sắm cao, có lẽ cũng vì thế họ không hẳn nghĩ tới chuyện tiếp thu văn hóa hay hội nhập vào đời sống ở đây". Hiện tại, thành phố Mexico vẫn chưa ra một quy định rõ ràng nào hầu điều chỉnh thị trường nhà cho thuê. Chừng nào chưa có luật về nhà ở dành cho dân được thông qua, các chủ nhà cũng như các nền tảng cho thuê nhà ngắn hạn vẫn trục lợi từ cuộc khủng hoảng nhà ở. Theo đài France 24, tình trạng thiếu nhà cho thuê có thể tăng thêm một nấc vào mùa hè năm 2026, khi Mecico đồng tổ chức với Hoa Kỳ và Canada Cúp Bóng đá Thế giới. Hẳn chắc là giá nhà cho thuê lúc ấy sẽ đạt một mức cao ngất ngưỡng, nếu không nói là giá trên trời.
Những tuần qua ở Anh rộ lên phong trào treo cờ xứ Anh, màu trắng-đỏ, như một biểu hiện của phong trào dân túy, xác lập « nước Anh là của người Anh ». Tại cuộc tuần hành hơn 100 nghìn người ủng hộ phe cực hữu ở Luân Đôn hôm 14/09/2025, nhiều nhóm thanh niên nam người Anh đã khoác lá cờ xứ Anh và quốc kỳ (Union Jack) của Vương quốc Anh lên vai để hô khẩu hiệu phỉ báng Hồi Giáo và chống người nhập cư. Thủ tướng Anh Keir Starmer sau đó đã lên án hành động của họ và lên tiếng rằng « Không thể để quốc kỳ Anh bị chiếm đoạt ». Nhưng lá cờ xứ Anh có khá nhiều thăng trầm trong lịch sử và việc dùng nó làm biểu tượng chính trị đang gây lo ngại cho các cộng đồng nhập cư tại Vương quốc Anh. Thông tín viên Nguyễn Giang tìm hiểu chủ đề này từ những tháng qua. RFI Tiếng Việt : Đầu tiên, xin anh cho biết trước cuộc biểu tình ở Luân Đôn ngày 14/09 thì Anh Quốc đã có hiện tượng treo cờ khắp nơi ở những chỗ không phải là cột cờ, công sở ? TTV. Nguyễn Giang : Đúng là từ hai ba tháng qua, chính xác là giữa mùa hè 2025, những người sống ở Anh như chúng tôi đột nhiên thấy lá cờ England flag - màu trắng có chữ thập của Thánh George màu đỏ, được các nhóm thiên hữu tự tổ chức treo lên các cột đèn, buộc vào thành cầu vượt trên xa lộ để phản đối di dân, phản đối nhiều cờ của cánh tả như cờ cầu vồng ủng hộ người đồng tính, lưỡng tính (LGBT+) được một số hội đồng địa phương treo. Cũng có ý kiến từ phía hữu phản đối điều họ gọi là « ý thức hệ cực tả », áp đặt các giá trị khác với truyền thống Anh, ví dụ như cổ vũ cho phong trào Black Lives Matters, có nguồn gốc từ Mỹ. Điều cần nói rõ là Anh quốc tôn trọng tự do cá nhân và tự do biểu đạt nên ai muốn treo cờ ở vườn nhà riêng, ở cửa sổ nhà riêng thì cứ thoải mái. Tôi thấy ở nơi mình sống thường thì trước các sự kiện thể thao như bóng đá, rugby thì cờ Anh (England), cờ Ireland, cờ Scotland, rồi cả cờ Jamaica, cờ Ý... được người dân treo ở nhà của họ. Tức là cả người Anh và di dân cứ treo cờ của đội tuyển quốc gia mà họ ủng hộ. Dân nghiền bóng đá treo cả cờ các đội bóng như Barcelona (Tây Ban Nha), cờ Đức khi có các trận của Giải Bundesliga (Liên bang Đức) thi đấu. Các trận tranh tài thường được chiếu ở các quán bia và tôi từng đi xem nên thấy có quán chăng cả dãy cờ. Đó là chuyện rất bình thường. Nhưng điều bất thường với hai lá cờ England flag và quốc kỳ Anh (Union Jack) là chúng được ai đó treo khắp các chỗ công cộng nhưng không phải là ở cột cờ, ở công sở, trường học, ở sân bóng, sân rugby. Treo ở công sở thì là chuyện bình thường nhưng đây là hàng loạt lá cờ được các nhóm tự phát trèo lên các cột đèn, trên cây, tạo ra không khí khá căng thẳng. Bởi vì nó không nói lên sự vui mừng hân hoan của các giải thể thao mà mang tính chất đe dọa ai đó không phải người thuộc nhóm sắc tộc Anh gốc, bản địa da trắng. Có ý kiến nào trên báo Anh phân tích về hiện tượng này chưa ? Có khá nhiều. Ví dụ nhà báo Yasmin Alibhai-Brown, cây bút của trang The iPaper cho rằng cờ Thánh George đột nhiên xuất hiện ở khắp nơi không phải là hiện tượng hiền lành, vô hại (harmless), mà khiến những ai không muốn bị ép buộc phải tuân thủ « tình ái quốc kiểu Anh » sẽ thấy họ bị « loại ra khỏi cộng đồng ». Thay vì tạo sự đoàn kết quốc gia thì việc buộc và treo cờ khắp nơi gây cảm giác « chủ nghĩa ái quốc Anh » có tính loại trừ (exclusive) đối với người không thuộc nhóm sắc tộc Anh tức là English. Một số nhà bình luận khác, như Ian Birren cho rằng việc phe cực hữu giành lấy quyền sử dụng lá cờ Anh là biểu hiện của chủ nghĩa sắc tộc và dân tộc Anh (ethnonationalism). Các trang Facebook đã xuất hiện khá nhiều « tấm gương yêu nước » của ai đó sơn chữ thập đỏ và nền trắng lên toàn bộ tường nhà họ, rồi có chỗ họ sơn trên kính hậu của xe hơi, kèm dòng chữ : Love England or Leave It. Thông điệp bài ngoại khá rõ ở đây : Hoặc các người hãy yêu xứ Anh, hoặc biến đi. Mới đây nhất, một người đàn ông Anh còn tự bỏ tiền ra mua hàng trăm lá cờ để treo dọc một xa lộ 8km (đường A1198 ở Cambridgeshire) để « bày tỏ lòng tự hào là người Anh » nhưng báo chí địa phương phản ánh rằng không ít người dân gốc nhập cư cảm thấy lo ngại bị họ cho là « bị áp chế tinh thần ». Về lịch sử và pháp luật thì lá cờ chữ thập đỏ trên nền trắng này có gì đặc biệt và vì sao nó lại được các nhóm cánh hữu Anh sử dụng ? Cũng cần nhắc là trong lịch sử châu Âu thì bốn dân tộc Anh, Scottish, Welsh và Irish trong Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, có bốn vị thánh khác nhau phù hộ họ, theo đức tin Ki Tô giáo: Thánh George của người Anh, Thánh Andrew của người Scotland, Thánh David của người xứ Wales và Thánh Patrick của người Ireland. Tất nhiên các dân tộc khác ở châu Âu cũng có thể tôn thời chung một vị thánh, theo đức tin ngày xưa của họ. Cờ Thánh George (chữ thập đỏ trên nền trắng) không phải là cờ độc quyền của người Anh (Englishmen). Nó cũng không xuất phát từ đất Anh mà là cờ mang tính tôn giáo của những quân đoàn Thập Tự chinh ở châu Âu sang Trung Cận Đông « giành lại đất thánh » chống người Hồi Giáo ở các thế kỷ 10-12. Các vương quốc ở Địa Trung Hải như xứ Sardinia, Genoa đã dùng lá cờ này. Và quốc kỳ của nước Georgia (Gruzia) ở Hắc Hải cũng có mẫu giống hệt. Huyền thoại nói vua Richard Sư tử tâm của Anh được Thánh George hiện ra trước một trận đánh vào thế kỷ 12 ban phước nên ông đã dùng Thập tự Thánh George vẽ lên cờ. Sau đó, một số vua Anh như Edward I đã dùng cờ này, và vì là cờ của vua nên nó trở thành cờ của xứ Anh, còn Scotland, Wales lại có cờ riêng của họ. Thời Nữ hoàng Elizabeth I đã bỏ lá cờ này và sau đó, đến năm 1606 thì triều đình Anh chọn lá cờ Liên hiệp Anh - mà ngày nay là cờ nền xanh dương đậm, có thập tự Thánh George màu đỏ và Thập tự Thánh Andrew màu trắng lồng vào nhau. Đây mới là lá cờ ngày nay được Liên Hiệp Quốc công nhận là quốc kỳ của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Cờ xứ England chỉ tồn tại trong thể thao và một số sự kiện văn hóa. Nó không có trên văn bản hay trên hộ chiếu, bằng lái xe. Cờ của Hoàng gia Anh cũng không có lá cờ England. Trên cờ hoàng gia, xứ Anh được biểu hiện bằng hình sư tử nằm vươn móng, bên cạnh các hình như đàn harp của Bắc Ireland và sư tử đứng của Scotland. Việc lá cờ xứ Anh được đưa từ sân bóng đá, từ lễ hội tôn giáo ra ngoài phố gây tác động thế nào, tiêu cực hay tích cực trong dư luận và với chính quyền ? Chính vì thiếu một biểu tượng rõ rệt cho England, quốc gia đông dân nhất (56 triệu) trong Liên hiệp Vương quốc Anh nên các chính quyền địa phương lo ngại việc những nhóm cực hữu dùng nhiều lá cờ này theo ý riêng sẽ thổi lên tâm lý bài ngoại, không chỉ với người nhập cư mà còn chia rẽ đoàn kết giữa bốn dân tộc bản địa của Vương quốc Anh, như người Irish, người xứ Wales, người Scotland. Như đã nói, họ đều có các vị thánh bảo trợ cho dân tộc của họ, nên nếu người Anh áp đặt cờ Thánh George của Anh là gây mất đoàn kết ngay. Tôi vào các trang Facebook thấy giữa bốn nhóm cư dân bản địa ở Anh đã có tranh cãi. Có người viết, « Này, đừng bắt Scoland thuộc về England nhé. Chúng tôi có vương quốc riêng. » Có người Irish thì phản đối việc gọi dân Bắc Ireland « là một dân tộc - nation », và viết rằng « chúng tôi muốn thống nhất với miền Nam - tức là Cộng hòa Ireland, tránh xa England! ». Chúng ta cần nhớ là xung khắc tôn giáo và dân tộc ở vùng Bắc Ireland chỉ mới chấm dứt nhờ Thỏa thuận Ngày thứ Sáu Tốt Lành (Good Friday Agreement) năm 1997. Còn trước đó là các cộng đồng địa phương có hiềm khích, thậm chí có các vụ đánh bom của Đội quân Cộng hòa Ái Nhĩ Lan (IRA) nhắm vào quân đội, cảnh sát Anh mà họ nói là « quân chiếm đóng ». Việc đề cao chủ nghĩa dân tộc đặc thù của người Anh là không khôn ngoan. Thế nhưng cộng đồng mạng cũng có những phản ứng hài hước. Có người còn vẽ biếm hoạ là cờ xứ Wales bị một đàn cừu trắng trên lưng có vẽ chữ thập Thánh George màu đỏ bước vào, với dòng chữ « Bọn cừu Anh để yên cho xứ Wales nhé ! ». Báo Daily Express vừa đăng là dân làng Henllyes ở xứ Wales phải họp nhau lại tổ chức các nhóm đi xóa hình graffiti cờ Anh ai đó vẽ lên bến xe bus, lên tường nhà của họ. Vì người xứ Wales có cờ riêng và họ phản đối cờ Anh được coi là « quan trọng hơn ». Không lạ khi mà chính phủ Vương quốc Anh phê phán việc dùng quá tải biểu tượng của một trong bốn dân tộc gốc của đảo Anh tức England vì họ cũng thấy phản ứng mạnh của dân ba xứ còn lại từng bị người Anh (English) thống trị. Đây là bằng chứng chủ nghĩa dân tộc không bao giờ là chất xúc tác kết nối xã hội mà chỉ gây chia rẽ. Và rồi có các nhóm nhập cư mới hơn như dân gốc Jamaica, gốc Hồi Giáo, họ cũng treo cờ của họ bên cạnh lá cờ England trên cột trong vườn, hoặc theo báo đăng thì có một gia đình nào đó cũng lên cầu vượt ở xa lộ chăng luôn 10 lá cờ các nước khác nhau, để đáp trả phong trào đề cao một hai lá cờ « thuần túy Anh quốc ». Về phía chính quyền thì có thể thấy rõ là nhà nước Anh chỉ khuyến khích việc treo và dùng lá cờ của cả Vương quốc chứ không khuyến khích cờ xứ Anh. Tất nhiên, các hội đồng địa phương ở England thì có quyền treo cờ chữ thập đỏ nền trắng đó. Còn tại các sự kiện âm nhạc như BBC Proms thì phần cuối luôn có màn phất cờ và người ta phất cờ Union Jack, cùng cờ EU, cờ Pháp, cờ Mỹ. Một người bạn tôi đăng thử hình cờ England vào một nhóm Facebook cộng đồng chính thức, do chính quyền địa phương mở (community page) ở Kent thì chỉ 5 phút sau là bị admin xóa. Lý do là biểu tượng quá rõ thể hiện thông điệp dân tộc chủ nghĩa Anh dễ bị cho là gây chia rẽ cộng đồng dân cư đa sắc tộc. Cuối cùng, là công dân Anh gốc Việt, anh nghĩ gì về vấn đề lá cờ và « chủ nghĩa dân tộc Anh » ? Khi tuyên thệ nhập tịch Anh, gia đình chúng tôi tuyên thệ trung thành với Hoàng gia và tại buổi lễ có lá cờ Liên hiệp Vương quốc Anh, nên sự tôn trọng với lá quốc kỳ Anh đó là điều người nhập cư nào cũng hiểu được và tuân theo. Lá cờ xứ Anh với tôi cũng là một biểu tượng của dân tộc Anh và lịch sử Anh. Chỉ riêng điều đó không có gì sai hay đúng cả. Bản thân tôi quan tâm đến lịch sử và rất thích tìm hiểu về các phù hiệu, biểu tượng quý tộc, phong kiến, hiệp sĩ châu Âu. Đó là những giá trị văn hóa rất hay, nhưng nên để chúng trong sách, trong phim ảnh. Còn đem c
Tại Pháp, sau nhiều tháng điều tra, một uỷ ban của Quốc Hội đã công bố một báo cáo, kết luận rằng TikTok là « một đại dương rác thải », « một mạng xã hội mất kiểm soát đang tấn công giới trẻ ». Báo cáo đưa ra 43 khuyến cáo để đối phó với mạng xã hội này, ví dụ : cấm trẻ vị thành niên dưới 15 tuổi sử dụng TikTok hay « lệnh giới nghiêm mạng » đối với trẻ từ 15 đến 18 tuổi. Báo cáo được công bố ngày 11/09, do hai nghị sĩ Pháp phụ trách, Arthur Delaporte (PS) và Laure Miller (EPR), gồm 2 chương, dài hơn 1000 trang. Để thực hiện báo cáo này, Uỷ ban điều tra của Quốc Hội đã tiến hành các cuộc điều trần, với các bậc phụ huynh có con em là nạn nhân của mạng xã hội, cũng như với các « influencer » - những người có ảnh hưởng trên TikTok để hiểu thuật toán của nền tảng này. Báo cáo chỉ ra rằng các nội dung độc hại lan tràn và được phân phối trên diện rộng. Mô hình kinh doanh và thuật toán của TikTok « được thiết kế để thu hút sự chú ý bằng mọi giá, đặc biệt là từ người dùng trẻ tuổi ». Thuật toán của TikTok, thuộc sở hữu của tập đoàn Trung Quốc ByteDance, không dựa trên sở thích, mà trên những gì người dùng xem lâu nhất, dẫn đến việc ưu tiên các nội dung gây sốc và tiêu cực. Điều này vô tình thúc đẩy các nội dung gây sốc, độc hại, nhất là đối với người dùng trẻ tuổi. Theo các chuyên gia thần kinh học, mô hình kinh doanh và kỹ thuật của TikTok không đặt lợi ích người dùng làm trung tâm, mà phục vụ mục tiêu duy nhất là lợi nhuận. Do đó, ủy ban đề xuất 43 khuyến nghị chính sách, với mục tiêu « giải thoát thanh thiếu niên khỏi cái bẫy TikTok ». Một số đề xuất nổi bật như : Cấm sử dụng mạng xã hội (trừ các ứng dụng nhắn tin) đối với trẻ dưới 15 tuổi; Áp dụng « giờ giới nghiêm kỹ thuật số » từ 22h đến 8h cho người từ 15–18 tuổi; Phát động chiến dịch truyền thông quốc gia về rủi ro mạng xã hội; Đào tạo phụ huynh, tích hợp vào y bạ của trẻ; Xây dựng hành lang pháp lý mới như « tội danh lơ là kỹ thuật số » đối với phụ huynh thiếu trách nhiệm. Báo cáo cũng đề xuất cấm điện thoại trong trường trung học, duy trì chương trình « tạm ngưng điện thoại », và giảm mức độ số hóa trong trường học nhằm bảo vệ sức khỏe tinh thần học sinh. Đọc thêmOat-Zempic, thức uống giảm cân đang gây sốt trên TikTok Trong các phiên điều trần, TikTok khẳng định không đồng tình với các kết luận, cho rằng các vấn đề được nêu là chung cho các mạng xã hội, không riêng TikTok, đồng thời liệt kê hàng loạt tính năng bảo vệ người dùng trẻ như: giới hạn thời gian sử dụng (60 phút/ngày), tắt tin nhắn với người dưới 16 tuổi, hợp tác với Ủy Ban Châu Âu... Tuy nhiên, ủy ban Quốc hội cho rằng các biện pháp tự nguyện là không đủ, trong khi luật « tuổi trưởng thành số » tại Pháp yêu cầu trẻ dưới 15 tuổi phải có sự đồng ý của phụ huynh khi dùng mạng xã hội, được thông qua vào năm 2023, nhưng vẫn chưa có hiệu lực thi hành do vướng mắc pháp lý với quy định châu Âu. Trên thực tế, đây không phải là lần đầu tiên chính phủ Pháp đặt vấn đề với TikTok. Vào năm 2023, một ủy ban của Thượng Viện cũng đã đề cập đến vấn đề an toàn, bảo mật thông tin của mạng xã hội Trung Quốc này, trước những rủi ro về rò rỉ dữ liệu. Để làm rõ những tác hại mà TikTok gây ra với người trẻ ở Pháp, RFI Tiếng Việt đã mời ông Fabrice Lollia, tiến sĩ ngành khoa học thông tin và truyền thông, nhà nghiên cứu cộng tác với,phòng thí nghiệm DICEN Ile de France, Đại học Gustave Eiffel ở Pháp. Xin cảm ơn ông Fabrice Lollia đã dành thời gian chia sẻ cùng quý thính giả của RFI về chủ đề này. Trước tiên, ông có thể cho biết tình hình sử dụng TikTok của giới trẻ Pháp hiện nay như thế nào, và ứng dụng này có vai trò ra sao trong đời sống hằng ngày của họ? Fabrice Lollia :Tại Pháp, báo cáo chỉ ra rằng 40 % số người trẻ từ 11 đến 17 tuổi sử dụng TikTok hàng ngày, 47 % trong độ tuổi 15-24. Thời gian sử dụng trên TikTok trung bình là 1giờ 28 phút mỗi ngày, nhiều hơn cả Instagram. TikTok đã trở thành ứng dụng không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của giới trẻ. Việc sử dụng TikTok không kiểm soát gây ra những rủi ro gì đối với sức khỏe tâm thần và hành vi của thanh thiếu niên? Fabrice Lollia : Nếu phải nói về sức khoẻ tinh thần, nhiều báo cáo đã chỉ ra một sự bùng phát tình trạng lo lắng, trầm cảm ở người trẻ từ năm 2020, đã trở nên trầm trọng hơn do sử dụng TikTok không có chừng mực (…) Tôi muốn đề cập rủi ro của hành vi bắt chước, theo phong trào (xu hướng), đó là điều đáng lo ngại. Khi rơi vào một loại bong bóng này, người ta sẽ tin rằng mình đang làm một việc đúng đắn, có thể dẫn đến nhiều rủi ro khác nhau. Giấc ngủ, sự chú ý, bị ảnh hưởng, vì vấn đề chính nằm ở sự chú ý, tập trung của giới trẻ. Chúng ta đang ở trong một giai đoạn, nơi mà việc tiêu thụ hình ảnh diễn ra mà không có sự suy nghĩ chín chắn. Suy nghĩ của họ không dựa trên những gì ổn định và có chiều sâu. Việc lướt màn hình trong ứng dụng cho phép tiếp cận các hình ảnh, tiêu thụ thông tin nhanh chóng. Điều này khác với Youtube, với những video giải thích trong 30 hoặc 40 phút, tranh luận và đưa ra lập luận. Với TikTok, người dùng tiếp nhận các hình ảnh rất đơn giản và dễ tiêu thụ, và do đó bạn nhanh chóng rơi vào một ma trận, nơi tâm trí và não bộ của bạn quen với việc tiếp nhận thông tin, nhanh chóng và nhiều loại thông tin. Phải chăng thuật toán của TikTok là nguyên nhân gây ra những vấn đề này ? Fabrice Lollia : Hiện không ai rõ cách thức hoạt động cụ thể của thuật toán trên TikTok, nhưng mọi người đều hiểu rằng nền tảng này ưu tiên các video càng ngắn càng tốt, càng cung cấp thông tin gây sốc, càng dễ loan truyền. Không có sự phân cấp trong việc phân phối thông tin, nghĩa là bạn có thể thấy một buổi hòa nhạc jazz và ngay sau đó là các thử thách trên TikTok, thêm vào đó,  chúng ta không biết cái nào là thật hay giả. Vấn đề đặt ra là làm sao để quản lý nội dung trên TikTok. Thuật toán và bong bóng nội dung (bulle de filtre), có thể ảnh hưởng sâu sắc đến người dùng. Vì người xem sẽ chỉ xem một loại nội dung. Có những video hướng dẫn cách tự làm mình bị thương hay những video tra tấn động vật, các hình ảnh man rợ mà  TikTok cho đăng tải, với nội dung bạo lực, được lên xu hướng (được tạo điều kiện để có thêm nhiều người xem). Có những video liên quan đến bệnh lý tâm thần như chứng biếng ăn. Những video này thường có thông điệp tiêu cực, như « Bạn không xấu, bạn chỉ mập », điều này có thể gây ra những tác động tiêu cực đến hình ảnh bản thân của thanh thiếu niên. Khi một ứng dụng, thông qua thuật toán của nó, cho phép người dùng trẻ tiếp cận các video hướng dẫn tự sát, đây là một vấn đề nghiêm trọng. Điều này rất nguy hiểm, đặc biệt là đối với những người chưa ổn định về mặt tâm lý. Những thông điệp tiêu cực này có thể để lại dấu ấn sâu sắc trong tâm trí của các em. 20.48 TikTok không đơn thuần là nền tảng phản ánh những sự tổn thương hay nỗi đau, mà còn góp phần làm trầm trọng thêm vấn đề. Dù đã có các biện pháp pháp lý được đưa ra, đến nay vẫn chưa có biện pháp nào được thực thi. (Luật tháng 7 năm 2023, trong đó đặt ra tuổi trưởng thành là 15, vẫn chưa được áp dụng trên thực tế.) Nội dung trên TikTok ở mỗi quốc gia khác nhau do sự kết hợp giữa thuật toán cá nhân hóa, văn hóa địa phương, quy định pháp lý và chiến lược vận hành của nền tảng. Những vấn đề về sức khoẻ tinh thần được nêu ra trong báo cáo, liệu có phải là vấn đề của riêng nước Pháp ? Fabrice Lollia :Tôi cho rằng đó là những vấn đề quốc tế. Thực tế cho thấy là nhiều quốc gia đã tính đến việc cấm TikTok, nêu ra tác động xấu đối với phát triển tâm lý của người trẻ. Tôi rất hoan nghênh việc ủy ban Quốc Hội của Pháp quan tâm đến vấn đề này, nhưng liệu có thể giải quyết thực sự vấn đề được không ? Tôi nghĩ là rất khó và không đơn giản để thiết lập một lệnh giới nghiêm về mạng. Tuy nhiên, việc kiểm soát các nền tảng số là rất phức tạp. Không dễ gì thiết lập các « rào chắn kỹ thuật số ». Chưa kể làm sao để đưa ra lệnh cấm trẻ dưới 15 tuổi sử dụng mạng này, khi mà ai cũng biết làm thế nào để lách luật. Ngoài ra, còn phải xét đến tính thống nhất trong các chính sách ở châu Âu. 26.50 Vậy theo ông, có giải pháp nào có thể đối phó với những tác động tiêu cực của TikTok ? Fabrice Lollia : Theo tôi, giải pháp cụ thể và thực tiễn nhất là nâng cao nhận thức cho giới trẻ ngay trong trường học, chứ không phải cấm đoán. Một khi giáo dục về mạng xã hội trở thành chương trình học chính thức, không chỉ học sinh mà cả phụ huynh cũng cần được tham gia, vì họ đang thực sự cần được hỗ trợ. Tôi đã theo dõi toàn bộ các buổi điều trần và điều tra của Ủy ban điều tra Quốc hội, phụ huynh thực sự cảm thấy lúng túng và chủ động tìm kiếm sự giúp đỡ. Nhiều người cho rằng « Phụ huynh nên kiểm soát tốt hơn » hay « Tôi sẽ cấm con mình dùng TikTok », nhưng thực tế không đơn giản như vậy. Bạn có thể cấm TikTok ở nhà, nhưng hôm sau trẻ vẫn sẽ tiếp cận nó ở trường. Tốt hơn hết là biết con đang làm gì, hơn là không biết và phải đối mặt với hậu quả sau này. Vì dù sao thì các em cũng sẽ truy cập. Do đó, cần có sự giáo dục, đào tạo, và tích hợp nội dung này vào chương trình học chính thức, không chỉ cho học sinh mà cả phụ huynh. Đó mới là cách làm có hiệu quả thực sự, chứ không phải những biện pháp có tính truyền thông hay hình thức. Tôi cũng muốn nhấn mạnh các biện pháp này không chỉ dành riêng cho TikTok mà cả những mạng xã hội khác, và mạng xã hội không chỉ có tác động tiêu cực mà cả tích cực nữa. Xin cảm ơn ông Fabrice Lollia, tiến sĩ về khoa học thông tin và truyền thông, chuyên về chiến lược an ninh và quản lý khủng hoảng. Ông cũng là tác giả của nhiều bài nghiên cứu về Tiktok, và sức khỏe tinh thần đối với giới trẻ.
Theo khảo sát gần đây nhân kỳ Hội chợ Du lịch Thế giới 2025 tổ chức tại Paris, du lịch bằng máy bay hay bằng tàu thủy đều đang gia tăng. Đối với những điểm đến xa xôi, hàng không vẫn là phương tiện di chuyển phổ biến nhất. Bên cạnh đó, ngành du lịch trên biển thu hút được nhiều khách hàng nhờ có giá cả phải chăng hơn, cho các chuyến đi trong vòng một hoặc hai tuần. Để có thể giảm giá, các hãng du lịch thường khai thác những chiếc du thuyền khổng lồ (từ 3.000 đến 7.000 hành khách), với giá khoảng 1.650 euro cho mỗi người trong vòng 7 ngày, ở hạng trung bình. Đối với các loại du thuyền hạng sang với nhiều dịch vụ cao cấp, số hành khách không đông nhưng giá lại cao hơn nhiều : từ 4.500 cho đến 10.000 euro cho mỗi hành khách.  Tại châu Âu, các tour du lịch bằng thuyền thường ghé qua các nước Hy Lạp, Croatia, Malta, Ý, các quần đảo Tây Ban Nha cũng như miền duyên hải nước Pháp. Tuy nhiên, nhiều thành phố cảng ven bờ Địa Trung Hải đều tìm cách hạn chế tối đa các du thuyền lớn, bị cho là gây nhiều tác hại đến môi trường. Trường hợp gần đây nhất là thành phố Nice, ở miền nam nước Pháp.  Sau Venise (2021) và Barcelona (2023), đến phiên Hội đồng thành phố Nice vào mùa xuân năm 2025 đã ban hành lệnh cấm các thuyền lớn cập bến cảng thành phố. Biện pháp này nhằm mục đích tránh du lịch quá tải, và quan trọng hơn nữa là hạn chế tối đa nạn ô nhiễm do các du thuyền gây ra. Trả lời phỏng vấn RFI ban tiếng Pháp, bà Juliette Chesnel-Le Roux, một dân biểu Đảng Xanh và đồng thời là thành viên Hội đồng thành phố Nice đánh giá đây là một bước tiến quan trọng cho các nhà bảo vệ môi trường :  Juliette Chesnel-Le Roux : Đây là một thắng lợi cho tất cả những người đã nỗ lực đấu tranh bảo vệ môi trường trong nhiều năm qua. Ngoài các loại khí thải có hại cho sức khỏe, nhiên liệu dùng cho động cơ du thuyền lớn còn thường để lại nhiều chất cặn khó xử lý, dễ làm cho nước biển bị ô nhiễm. Loại dầu nhớt dành cho du thuyền hoặc các động cơ nhà máy thuộc vào hàng « nhiên liệu nặng », có hàm lượng lưu huỳnh cao hơn gấp 10 lần so với loại nhiên liệu thông thường dùng trong đời sống thường ngày. Khí thải từ các du thuyền lớn dĩ nhiên sẽ tác động trực tiếp đến đời sống của cư dân sống trong khu vực bến cảng thành phố. Một điều khác nữa cần lưu ý là khi thả neo ở bến cảng, các du thuyền thường không bao giờ tắt các động cơ để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của khách trên thuyền. Và như vậy, những chiếc tàu khổng lồ này khi cập bến cũng gây ô nhiễm không kém gì những lúc đang di chuyển. Do dừng lại ở một chỗ, du thuyền gây ô nhiễm cho các khu vực xung quanh như các bãi cát miền duyên hải. Ngoài ra, Địa Trung Hải là một vùng biển hầu như khép kín, không mở rộng như Đại Tây Dương. Còn theo cô Hélène Granouillac, thành viên sáng lập hiệp hội Terre Bleue (Trái đất xanh), các chiếc du thuyền lớn khi thả mỏ neo ở bến cảng dễ gây thiệt hại cho thảm cỏ biển (posidonia) ở dưới mặt nước. Được gọi nôm na là « cỏ lươn » do có hình dáng thon dài, loại cỏ biển này không giống như rong tảo, vì có hẳn gốc rễ và thân lá. Tuy không mênh mông như « thảo nguyên », nhưng các thảm thực vật dưới nước này, thực chất là nơi trú ẩn và sinh sản cho khá nhiều loài động vật. Do vậy, quyết định của Hội đồng thành phố Nice không cho các thuyền lớn cập bến, thả neo, đã được nhiều người dân địa phương hưởng ứng. Tuy nhiên, thành phố Nice vẫn tiếp đón những chiếc du thuyền cỡ trung bình với tối đa 900 hành khách. Các loại tàu này ít gây ô nhiễm hơn và dành cho thành phần khách du lịch có tiền. Thành phố Nice buộc phải nâng cấp cơ sở hạ tầng, trang bị cho bến cảng những hệ thống cắm điện, để mỗi lần các chiếc du thuyền cập bến, tắt hết mọi động cơ nhưng vẫn có đủ điện để xài. Trong năm nay, Nice dự trù tiếp đón khoảng 120 du thuyền cỡ trung bình, với sức chứa khoảng 700-900 hành khách mỗi chuyến. Hội đồng thành phố Nice cân nhắc để tránh gây thiệt hại cho nền kinh tế địa phương và các công ty du lịch ở miền nam nước Pháp. Không chỉ riêng gì thành phố Nice, mà nhiều điểm đến khác ở vùng Địa Trung Hải cũng không muốn cho các du thuyền lớn ghé thăm. Tại Marseille, một số hiệp hội như Stop Croisière thường xuyên kêu gọi tập hợp tại bến cảng để biểu tình phản đối các công ty khai thác du thuyền, hạn chế dòng khách du lịch ồ ạt đổ vào trung tâm thành phố trong vài giờ, chứ không ngủ lại qua đêm. Các hiệp hội môi trường quy trách nhiệm cho các du thuyền thải 20% lượng khí độc hại, gây ra các chứng bệnh hô hấp.  Theo lời cô Gwennel Menes, một trong những thành viên sáng lập chi nhánh Stop Croisière ở thành phố Marseille, trong hai năm qua, hiệp hội này đã cố gắng thiết lập một hệ thống hạn chế các du thuyền, không chỉ hoạt động tại một thành phố mà còn liên kết phối hợp với nhiều điểm đến khác : Chúng tôi không chỉ kêu gọi hội đồng thành phố Marseille mà còn đề nghị nhiều thành phố khác ngưng tiếp đón các chiếc du thuyền khổng lồ. Dĩ nhiên, nếu có sự tiếp sức của mọi bên, thì đó sẽ là một bước tiến quan trọng. Bởi vì nếu chỉ cấm không cho tàu du lịch ghé cảng Marseillen thì thuyền trưởng vẫn có thể đến thả neo ở một bến cảng khác : rốt cuộc, chúng ta chỉ xê dịch chứ không giải quyết được vấn đề. Vì thế cho nên, hiện nay, chúng tôi đang hợp tác với các nhiều thành phố khác ở Địa Trung Hải như Venise, Barcelona, Palma de Mallorca hay Ajaccio trên đảo Corse để đối phó với ngành công nghiệp du lịch đường biển gây nhiều ô nhiễm. Theo lời ông Jaume Garro, thành viên hiệp hội « Palma 21 », nhờ vào nỗ lực hợp tác trong nhiều tháng của tám nhóm vận động khác nhau, liên minh này đã đạt được thành quả đầu tiên. Chính quyền Palma de Mallorca, thủ phủ của quần đảo Baleares đã áp đặt quota (hạn ngạch) trong việc tiếp đón các du thuyền lớn cũng như số hành khách đi du lịch đường biển. Jaume Garro : Lần đầu tiên, có một thỏa thuận giữa chính quyền địa phương với các công ty khai thác du thuyền. Theo văn bản chính thức, kể từ  nay, Palma de Mallorca chỉ tiếp đón tối đa ba chiếc tàu du lịch hay 8.500 khách đi du thuyền mỗi ngày. Điều đó có nghĩa là nếu có hai chiếc tàu chở hơn 4.000 hành khách mỗi chiếc, thì trong ngày hôm ấy sẽ không có thêm một chiếc tàu thứ ba nào nữa vì như vậy, số hành khách sẽ vượt quá quota. Yêu cầu của chúng tôi khá đơn giản : tôn trọng đời sống của người dân địa phương, qua việc hạn chế tối đa tình trạng du lịch quá tải. Thành công bước đầu của các hiệp hội bảo vệ môi trường, đã cho ra đời một số sáng kiến khác như hiệp hội của ông Guillaume Picard, một cựu thuyền trưởng của ngành vận chuyển đường biển, đang vận động thu thập hàng chục ngàn chữ ký để hạn chế thêm số thuyền lớn bất kể du lịch hay hàng hải, cập bến cảng thành phố Toulon, miền nam nước Pháp. Phong trào hạn chế các du thuyền lớn đang dần lớn mạnh theo sự phát triển của ngành du lịch đường biển. Các hiệp hội bảo vệ môi trường đang lan rộng sang nhiều miền duyên hải khác của nước Pháp như vùng Bretagne hay vùng Normandie, chứ không còn chỉ được khoanh vùng ở Địa Trung Hải.
Hàng năm tại Pháp, có khoảng 240.000 cặp uyên ương tổ chức đám cưới. So với bốn thập niên về trước, con số này đã giảm đi gần một nửa. Nếu như đa số người Pháp vẫn gắn bó với giá trị truyền thống và biểu tượng của hôn nhân, thì ngược lại, các bạn trẻ ở độ tuổi 20-35 sống ở Pháp, càng tỏ ra ngần ngại khi nhắc đến chuyện làm đám cưới. Tờ báo Le Figaro trích dẫn một cuộc khảo sát do công ty tư vấn Ymanci thực hiện hồi đầu tháng 06/2025 cho thấy : 45% giới trẻ dưới 35 tuổi không muốn làm đám cưới vì phí tổn quá cao. Ngoài gánh nặng tài chính, các bạn trẻ cũng lo ngại về vấn đề ly hôn, vì thực tế cho thấy trong hai thập niên gần đây ở Pháp, khoảng một nửa các cặp thành hôn (44% theo số liệu của cơ quan nghiên cứu dân số INED) kết thúc bằng một vụ ly dị. Hiện nay tại Pháp, một cặp uyên ương phải chi trung bình gần 12.000 euro (tức khoảng 5 hoặc 6 tháng lương) để tổ chức đám cưới. Tại các nước Anh-Mỹ, chi phí này còn cao hơn gấp đôi : tính trung bình là 25.000 euro tại Vương quốc Anh hay 35.000 đô la để tổ chức đám cưới tại Hoa Kỳ. Ngoài chi phí tài chính và đôi khi áp lực từ phía gia đình, giới trẻ Pháp thời nay còn phải chịu áp lực vô hình trên các mạng xã hội. Trả lời phỏng vấn RFI ban tiếng Pháp, nhà xã hội học Florence Maillochon, làm việc tại Trung tâm Quốc gia nghiên cứu khoa học CNRS, đồng thời là tác giả quyển sách về hôn nhân tại Pháp ("La passion du mariage" Nhà xuất bản Presse Universitaire de France) đánh giá giới trẻ thời nay trước khi thành hôn phải tính đến chuyện chụp ảnh và thu hình video ngày cưới cho mạng xã hội. Florence Maillochon : "Quả thật là mạng xã hội là nơi mà người dùng thường thể hiện những khía cạnh tốt đẹp nhất của bản thân. Vì thế cho nên, các cặp làm đám cưới thường phải quan tâm đến mọi thứ, không thể nào bỏ sót bất cứ điều gì, kể cả những chi tiết nhỏ nhất. Về mặt tâm lý, ai ai cũng muốn ngày cưới của mình diễn ra một cách hoàn hảo. Điều này đã có từ lâu, nhưng lại phát triển rất mạnh kể từ khi có mạng xã hội. Việc tổ chức đám cưới thường đi đôi với số lượng khách mời. Con số nảy đã tăng đáng kể trong vài thập niên qua. Vào những năm 1980, mỗi đám cưới ở Pháp trung bình có khoảng 70 khách mời. Ngày nay, con số trung bình là khoảng 130. Trên số hàng trăm ngàn đám cưới mỗi năm, chỉ có khoảng 5% là đám cưới lớn, với từ 200 đến 300 khách. Càng có nhiều khách mời, chi phí lễ cưới càng cao. Trước kia, đám cưới ở các vùng nông thôn Pháp chỉ đơn thuần là những bữa ăn gia đình thịnh soạn hơn ngày thường, ngay sau lễ nhà thờ. Việc làm đám cưới, tiệc rượu hay bữa ăn tối, thường được tổ chức tại nhà, hay trong phòng lễ tân tại các huyện xã. Sự khác biệt lớn bây giờ là mọi thứ đều diễn ra ở bên ngoài. Vì vậy, mới sinh ra các nhà cung cấp dịch vụ đám cưới. Có thể nói, tổ chức đám cưới thời nay giống như tổ chức một sự kiện, khó thể bỏ qua cách trình bày, dàn dựng. Để tránh làm hỏng ngày cưới, các gia đình phải chịu đầu tư ngày càng nhiều. Trong một số trường hợp, để hạn chế chi phí, chúng ta có thể giảm bớt số khách mời, tiết kiệm một phần ngân sách, rồi chi nhiều hơn để có được một dịch vụ ăn uống tốt hơn. Dịch vụ ăn uống thường chiếm khoảng 50% chi phí của đám cưới." So với các thế hệ trước, giới trẻ ở Pháp thời nay đã thay đổi quan niệm về hôn nhân và gia đình. Hôn nhân không còn là điều bắt buộc khi giới trẻ có thể sống chung với nhau nhiều năm. Các bạn trẻ dưới 35 tuổi cũng được giáo dục theo nguyên tắc nam nữ bình quyền và họ cũng thường quan niệm rằng hôn thú không phải là minh chứng quan trọng nhất trong tình yêu và việc chi tiêu nhiều để làm đám cưới cũng không bảo đảm hôn nhân sẽ được bền lâu hơn. Tuy nhiên hôn nhân không chỉ đơn thuần là chuyện đời tư của từng cá nhân, mà còn phản ánh nhiều hình tượng khuôn mẫu trong xã hội thời nay. Đó là nhận xét của ông Stéphane Seban, nhà sáng lập Hội chợ Đám cưới Salon du Mariage, thường diễn ra tại Paris vào trung tuần tháng 9 và thu hút 40.000 lượt khách tham quan mỗi năm : Stéphane Seban : "Thực tế cho thấy trong số hàng ngàn khách tham quan Hội chợ Đám cưới tại Paris, cô dâu tương lai thường là người đóng vai trò quan trọng nhất. Cho dù giới trẻ thời nay có tôn trọng sự bình đẳng nam nữ cách mấy, thì trách nhiệm tổ chức ngày cưới vẫn được giao cho các cô. Dĩ nhiên, các chú rể tương lai vẫn được tham khảo vấn ý, nhưng quan niệm truyền thống vẫn dành cho cô dâu một vai trò quan trọng. Các cô dâu tương lai thường rủ mẹ hay nhóm bạn gái (phù dâu) đến thử áo cưới tại các gian hàng triển lãm, các anh chú rể tương lai khi có mặt, cũng không hào hứng nhiệt tình như các cô dâu. Tôi đồng ý với các nhà xã hội học về những khuôn mẫu trong xã hội. Giới trẻ khi đã quyết định thành hôn, thường có quan niệm rất truyền thống về cách thức tổ chức ngày cưới". Nỗi sợ ly hôn và lễ cưới quá tốn kém  Mạng xã hội ảnh hưởng khá nhiều đến cách tổ chức đám cưới như dàn dựng một sự kiện. Và đôi khi cách dàn dựng của "ngày được xem như là hạnh phúc nhất trong đời" lại hơi bắt chước phim xinê hay serie truyền hình. Theo cô Florence Maillochon, tại Pháp trong những năm gần đây, đã xuất hiện trào lưu « Mỹ hóa » một phần do ảnh hưởng của phim ảnh : Florence Maillochon : "Vâng, đại khái có thể nói là tại Pháp gần đây bắt đầu xuất hiện dịch vụ « wedding planner », những người chuyên lên kế hoạch tổ chức tiệc cưới, được trả lương tùy theo gói dịch vụ cũng như chi phí chung của một đám cưới. Đây là một ngành nghề hẳn hoi. Tại Pháp, cần khoảng một trăm giờ làm việc để chuẩn bị chu đáo một đám cưới lớn. Một đám cưới trung bình với giá 12.000 euro có thể không cần đến wedding planner, nhưng một đám cưới lớn với mức giá từ 25.000 đến 30.000 euro trở lên, thì nên có thêm người lên kế hoạch lễ cưới. Lương của một wedding planner là từ 2.500 đến 4.000 euro cho mỗi tiệc cưới, tức khoảng 10% hoặc 15% tổng chi phí. Đây rõ ràng là một trào lưu đến từ Mỹ, cách dàn dựng sự kiện cần đến những người có trình độ chuyên môn cao hơn." Một cách tương tự, các buổi tiệc chia tay thời độc thân là một trào lưu đến từ Anh-Mỹ chứ không phải là của Pháp. Thực ra đó chỉ là một hiện tượng phát sinh trong những thập niên gần đây. Các bạn trẻ ở Pháp luôn ngạc nhiên khi họ nghe tôi nói vậy, nhưng thực ra các buổi « tiệc độc thân » trở nên thịnh hành chủ yếu là qua phim truyện. Ở đây, chúng ta không « chôn vùi » mà cũng không từ giã cuộc sống độc thân hiểu theo nghĩa đen. Chúng ta chỉ từ giã cuộc sống độc thân, hiểu theo nghĩa giấy tờ hành chính, bởi vì hầu hết các cặp đôi ở phương Tây thường sống chung với nhau một thời gian trước khi quyết định thành hôn. Quá trình chuyên nghiệp hóa cũng đã tác động đến nhiều dịch vụ khác, kể cả các nhà làm mai mối cũng như dịch vụ ngõ lời « cầu hôn » hầu tạo sự ngạc nhiên bất ngờ nơi cô dâu tương lai, nhưng cũng vì thế mà ngày càng giống như kịch bản những bộ phim tình cảm. Chi phí trung bình của một đám cưới tương đương với 5 tháng lương ở Pháp có thể làm cho giới trẻ mới vào đời bị mất hứng, nhưng so với độ tuổi trung niên có thể là một bước khởi đầu mới. Về điểm này, ông Stéphane Seban, giám đốc điều hành Hội chợ Đám cưới tại Paris nhận xét : Stéphane Seban : Quả thật là hôn nhân vẫn còn có nhiều ý nghĩa trong mắt những người chọn làm lễ cưới. Người Pháp kết hôn ngày càng muộn, khoảng 35 tuổi đối với phụ nữ và 39 tuổi đối với phái nam. Việc kết hôn muộn cũng có nhiều ưu điểm : đời sống kinh tế đã vững chải, cô dâu hay chú rể tương lai đều đã từng trải. Bên cạnh đó, những cuộc tái giá hay thành hôn lần thứ nhì cũng có một vị trí quan trọng không kém trong xã hội. Đó là trường hợp của những người kết hôn ở tuổi 45 hoặc 50, đã từng có một đời vợ hay một đời chồng. Tuy thất bại trong hôn nhân lần đầu, họ vẫn không mất niềm tin trong giá trị của hôn nhân. Trái với giới trẻ, thành phần « tái hôn » có thể có những nỗi lo khác, nhưng chi phí làm đám cưới không phải là một rào cản. Dù gì đi nữa, trong mọi trường hợp, các cặp muốn kết hôn cũng nên nhớ rằng, chi phí đám cưới thường hay vượt quá từ 20% đến 30% các dự tính ban đầu. Theo quan sát của tôi, một cặp muốn chi 10.000 euro cho đám cưới của mình, sẽ phải trả từ 12.000 đến 13.000 euro. Thực tế cho thấy, dù có tính toán cách mấy, vẫn có một số chi tiết mà ta không thể kiểm soát được. Những chi tiết bất chợt ấy thường xẩy ra trước ngày cưới và điều đó có thể làm tăng hóa đơn. Vì vậy, tôi thường khuyên các cặp sắp cưới nhau là nên tiết kiệm một khoản tiền để có thể ứng phó với những rủi ro ngoài dự kiến. Cho dù nhiều bạn trẻ không biết chắc rằng hôn nhân của họ có bền lâu hay chăng, nhưng khi đến ngày cưới, họ vẫn nhiệt tình tận tâm, như thể đời người chỉ có một lần.
Ngày 16 tháng 8 năm 2025, đánh dấu một trăm ngày Đức Lêô XIV được bầu làm giáo hoàng. Nếu phải thực hiện một bản sơ kết 100 ngày đầu trong vai trò người đứng đầu Giáo hội Công giáo, giới quan sát ghi nhận sẽ khó thống kê được nhiều, thậm chí có thể nói ngài là một vị giáo hoàng trầm lặng, như một người Mỹ thầm lặng. Chưa có chuyến đi xa nào ra khỏi thành Vatican, ngoại trừ việc lặp lại truyền thống của các giáo hoàng, đi nghỉ hè ở Castel Gandolfo, trong tháng Bảy và tháng Tám. Không có phát biểu gây chú ý của báo chí. Không có cử chỉ nào gây sốt trong công chúng. Phải chăng, cái bóng quá lớn của những vị tiền nhiệm gần nhất của ngài, Gioan Phao-lô II, Bênêđíctô XVI và Phanxicô, đang che phủ những ngày đầu của vị giáo hoàng đến từ Chicago ? Chậm mà chắc ... Người Roma khi nói về các giáo hoàng thường có nhận xét, « sau một vị giáo hoàng mập, là một vị giáo hoàng ốm ». Đức Lêô XIV là người mảnh khảnh nhưng mang dáng dấp thể thao năng động. Ngài sẽ bước sang tuổi 70 vào ngày 14 tháng Chín tới. Người ta có thể nói vui là ngài đang bị phủ bóng, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, của những vị tiền nhiệm. Một vị giáo hoàng trí thức như Bênêđíctô XVI, hay những vị « to lớn » về ngoại hình và sức ảnh hưởng trong giáo hội về mục vụ như Gioan Phao-lô II và Phanxicô. Tuy nhiên, « mọi sự đều có thời », Sách Giảng Viên trong Kinh Thánh đã nói. Đức Lêô XIV đã không vội vã thúc đẩy triều đại của mình. Hay theo Nicolas Sénèze, nguyên thông tín viên của nhật báo Công giáo La Croix tại Roma, khi trả lời phỏng vấn trên đài TV5Monde, « Đức Lêô XIV là người rất thận trọng và 100 ngày đầu tiên của ông diễn ra khá hoàn hảo, mà hình ảnh cuộc gặp gỡ với giới trẻ trong khuôn khổ của Năm Thánh giành cho giới trẻ ở ngoại thành Roma là một minh chứng. Về cơ bản, người ta nhận thấy ông có một sự tiếp nối, không muốn cắt đứt ngay với những vị tiền nhiệm hay áp đặt dấu ấn riêng của mình. » Thực vậy, Đức Lêô XIV được bầu lên trong bối cảnh Giáo hội chia rẽ. Ngài được kỳ vọng là một vị giáo hoàng đoàn kết, thậm chí hòa giải. Đức Lêô XIV phân phối lời nói và cử chỉ của mình một cách tiết kiệm và tỉ mỉ, cẩn thận trấn an những người theo truyền thống mà không làm mất lòng những người cấp tiến vốn nhạy cảm với con đường cởi mở do người tiền nhiệm khởi xướng. Vị giáo hoàng mới tìm cách kết hợp sự hiện đại của Đức Lêô XIII, lòng nhiệt thành của Đức Gioan Phaolô II, chiều sâu tâm linh của Đức Bênêđictô XVI, và sự quan tâm đến những người dễ bị tổn thương nhất của Đức Phanxicô. Sự thận trọng này thể hiện qua việc ngài dành thời gian để quan sát, suy nghĩ và lắng nghe. Bài xã luận trên nhật báo La Libre của Bỉ, vào ngày hôm sau của Thánh lễ kết thúc Năm Thánh giành cho Giới Trẻ, đã nhận xét bài giảng của Đức Lêô XIV trước một triệu bạn trẻ đến từ khắp nơi trên thế giới là không mang màu sắc chính trị, nhưng đầy chiều kích tâm linh, chỉn chu và đòi hỏi. Điều đó cho thấy sự lựa chọn của một người biết lắng nghe trong một thế giới ồn ào, giáo hội đầy áp lực. Sau một Phanxicô đơn giản và đầy ý chí là một Lêô thanh thản và lặng yên. Hồng y người Bỉ, Mathieu Dominique, tổng hợp sau cuộc bầu cử “Khi bầu chọn Đức Lêô XIV, chúng tôi muốn tổ chức những không gian mà Đức Phanxicô đã mở ra cho Giáo hội”. Có vẻ như đức giáo hoàng đã lắng nghe những người đã chọn ngài. Cũng như nhiều người, Nicolas Sénèze cho biết : « Tôi trông chờ tông huấn đầu tiên của Đức Lêô XIV trong tháng Chín sắp tới, được dự đoán là sẽ liên quan đến các vấn đề xã hội, nhất là về trí tuệ nhân tạo (AI) cũng như là hệ quả của Trí tuệ nhân tạo đối với việc làm, xã hội v.v... Điều này cho thấy, Đức Lêô XIV vừa đặt mình theo truyền thống Giáo hội vừa đối diện trước những vấn đề rất thời sự ». Tiếp tục hay đoạn tuyệt với người tiền nhiệm ? Điều đầu tiên được nhận thấy là ngài mặc lại chiếc áo choàng mosette truyền thống, một áo choàng đỏ ngắn phủ ngoài áo chùng, trong lần đầu ra mắt công chúng sau khi được bầu làm giáo hoàng vốn bị người tiền nhiệm bỏ lại. Ngài trở về căn hộ của giáo hoàng sau kỳ nghỉ tại Castel Gandolfo, dinh thự mùa hè của các giáo hoàng, nơi mà Đức Phanxicô đã không sử dụng. Đó phải chăng là sự đoạn tuyệt với người tiền nhiệm ? Theo Nicolas Sénèze, « sự đoạn tuyệt theo nghĩa là đương kim giáo hoàng có nhiều khác biệt so với người tiền nhiệm, nhất là trong những lễ nghi khởi đầu nhiệm vụ giáo hoàng. Nhưng vẫn có sự tiếp tục trong việc cải tổ giáo triều Roma theo chiều hướng hiệp hành (synodalité) tức là không nhằm dân chủ hóa việc lãnh đạo trong giáo hội bằng việc có sự cộng tác chặt chẽ giữa hàng giáo sỹ và giáo dân. Sự tiếp nối này còn thể hiện trong đường lối ngoại giao của Vatican trong các vấn đề quốc tế, cách riêng vấn đề Ukraina. Theo đó, Tòa thánh sẵn sàng làm trung gian hòa giải cho cuộc chiến ở Ukraina bằng các biện pháp hòa bình nhằm kết thúc xung đột. Tuy nhiên, vẫn chưa có sự can thiệp mang tính đột phá của Tòa Thánh cho vấn đề hòa bình ở Ukraine so với người tiền nhiệm. » Việc cải tổ giáo triều Roma Đó là sự tiếp nối bắt buộc. Vẫn theo Nicolas Sénèze, việc cải tổ này đã bắt đầu từ thời Đức Bênêđictô XVI khi những vụ việc bê bối trong nội bộ Vatican buộc người đứng đầu Tòa Thánh phải ra những quyết định cải tổ. Nhiệm kỳ của Đức Phanxicô đã đặt những dấu ấn mạnh mẽ và ấn tượng cho việc cải tổ đầy khó khăn này. Qua việc sắp xếp lại bộ máy và thay đổi một số nhân sự. Và vì thế, Đức Lêô XIV cũng sẽ tiếp tục con đường cải tổ giáo triều Roma và Giáo hội theo đường hướng mở rộng những gì đã làm của những người tiền nhiệm. Những cải tổ này thể hiện qua những bổ nhiệm nhân sự đứng đầu các cơ quan của Tòa Thánh, mà cho đến nay mới chỉ có một bổ nhiệm duy nhất Đức giám mục Thibault Verny, Tổng giám mục Chambéry (Pháp) đứng đầu Ủy ban Giáo hoàng Bảo vệ trẻ vị thành niên, thay thế hồng y Sean O’Malley, đã bước sang tuổi 81. Cuộc cải tổ đầy khó khăn mà hai người tiền nhiệm của ngài đã cảm nhận và thẳng thắn đón nhận hay chính giáo hoàng cũng hay đùa với các thành viên trong giáo triều « Giáo hoàng qua đời, nhưng giáo triều vẫn còn ». Hướng tới sự hiệp nhất Giáo hội Sự chia rẽ sâu sắc trong Giáo hội là điều rõ ràng mà Đức Lêô XIV phải đương đầu. Trong 100 ngày đầu tiên, Giáo hoàng đã có những cử chỉ mang tính biểu tượng nhằm thu hút những nhóm chia rẽ trở lại với Giáo hội. Nhất là những nhóm có tư tưởng bảo thủ, những người thường cảm thấy bị Đức Phanxicô bỏ qua hoặc hiểu lầm. Đức Lêô XIV đã có động thái tiếp cận những người thường bất đồng quan điểm với Đức cố giáo hoàng. Và trong thánh lễ nhậm chức, Đức Lêô XIV đã nói về nhu cầu « một Giáo hội thống nhất, một dấu chỉ của sự hiệp nhất và hiệp thông ». Một câu hỏi khác liên quan, đó là việc cho phép dâng lễ bằng tiếng La-tinh. Điều này gây ra sau khi Đức Phanxicô ban hành văn kiện cấm ngặt việc dâng lễ bằng tiếng La tinh. Và linh mục nào muốn làm lễ bằng tiếng La-tinh thì phải có phép của Giám mục địa phận. Điều mà Đức Bênêđíctô đã cho phép bất cứ linh mục nào muốn đều có thể. Đức Lêô chưa có văn bản chính thức, nhưng đã dung hòa bằng cách trở lại với thời điểm của Đức Gioan Phaolô II, tức là cho phép các Giám mục địa phận quyết định việc này trong lãnh thổ của mình. Vai trò là « người xây dựng cầu nối » quốc tế Vượt qua sự chia rẽ không chỉ là trọng tâm của Lêô đối với Giáo hội; mà còn là phương châm xuyên suốt trong việc giải quyết những thách thức lớn mà thế giới đang phải đối mặt. Ví dụ, Đức Giáo hoàng mới đã đảm nhận vai trò « xây dựng cầu nối » trong xung đột Ukraina – Nga, cả trong cuộc gặp với Tổng thống Volodymyr Zelensky tại Vatican lẫn cuộc điện đàm với Tổng thống Vladimir Putin. Ngài cũng đóng vai trò tích cực trong cuộc chiến ở Gaza, thường xuyên kêu gọi hòa bình trong bài diễn văn đọc tại Kinh Truyền Tin Chúa Nhật. Và trong khi thế giới dường như đang bị cuốn vào một cuộc chạy đua vũ trang về AI, Đức Giáo hoàng Lêô đang định vị mình là một chuyên gia luân lý về chủ đề này, có thể hy vọng sẽ truyền cảm hứng cho một khuôn khổ đạo đức nào đó được quốc tế công nhận. Ngay cả Phó Tổng thống Hoa Kỳ J.D. Vance cũng cho rằng sự hướng dẫn của Đức Giáo hoàng về AI sẽ là một trong những « điều sâu sắc và tích cực nhất » mà Đức Giáo hoàng Lêô có thể mang lại. Tuy chưa có chuyến công du nào, nhưng các chức vụ của Tòa Thánh đang thực hiện đúng chức năng của mình. Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, đã có những chuyến đi và những phát biểu thay mặt giáo hoàng trong những sự kiện quốc tế. Ngoại trưởng Tòa Thánh, Đức tổng giám mục Paul Richard Gallager đã đi Ấn Độ nơi có cộng đồng Ki-tô giáo đa dạng và đông đảo không kém Trung Quốc. Ngài cũng đã đi Cu Ba, Venezuela và Nicaragua trong các vấn đề không chỉ tôn giáo mà cả chính trị vốn hòa trộn và đặc trưng của khu vực này. Còn tại Trung Đông, Hồng Y Pierbattista Pizzaballa vẫn tiếp tục lập trường của Tòa Thánh từ thời Đức Phanxicô trong các vấn đề hòa bình và ngưng bắn giữa Israel và Palestin. Và Việt Nam Liên quan đến Việt Nam, các ủy ban song phương nghiên cứu việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước vẫn đang tiếp tục làm việc. Ngày 30/6/2025, Phó chủ tịch nước Việt Nam Võ Thị Ánh Xuân đã có chuyến thăm Vatican. Bà đã có cuộc tiếp kiến Đức Lêô XIV và có cuộc hội đàm với Đức Tổng giám mục Paul Richard Gallager, ngoại trưởng Tòa Thánh. Năm 2027, Đức giáo hoàng sẽ đi Seoul trong khuôn khổ của Tuần lễ Đại hội giới trẻ Thế giới từ ngày 1-8/8. Giới quan sát có thể hy vọng một chuyến ghé thăm Việt Nam của Vị giáo hoàng người Mỹ. Sự thận trọng cần thiết trong một thế giới bấp bênh « Hãy khao khát những điều vĩ đại ! » Đức Leo XIV đã nói với một triệu bạn trẻ tụ họp tại Roma vào đầu tháng Tám trong khuôn khổ Năm Thánh Hy Vọng giành cho giới trẻ. Người Công giáo hy vọng điều tương tự từ vị giáo hoàng này, người mà hiện tại vẫn thong thả và yên lặng, ẩn sau một nụ cười bí ẩn. Có một câu ngạn ngữ Ý « Qui va piano va sano », nghĩa là « Ai đi chậm thì đi khỏe ». Nhưng câu nói này có phần thứ ba luôn bị lãng quên : « ... et va lontano.. » Nghĩa là, « Và sẽ đi xa hơn ». Điều tương tự mà Lão Tử dạy các học trò của mình là « Cuộc hành trình ngàn dặm nào cũng phải bắt đầu từ những
Từ năm 1947, vào ngày 2 tháng 6 hàng năm, nước Ý tổ chức Festa della Repubblica – Lễ Cộng Hòa. Một ngày mà sự kiện của nó cũng phản ánh tình hình chính trị và kinh tế ở Bỉ. Cộng hòa Ý ra đời như thế nào ? Và sự kiện này có mối liên hệ và điểm tương đồng đặc biệt nào với đất nước bằng phẳng bên kia dãy Alpes ? Cộng hòa Ý được thành lập vào năm 1947 sau cuộc bỏ phiếu trưng cầu dân ý ngày 2 tháng 6 năm 1946. Một bầu cử lịch sử ở Ý vì ba lý do : • Đây là cuộc bầu cử đầu tiên kể từ 1924, năm Benito Mussolino đã giành chiến thắng trong cuộc bỏ phiếu và thiết lập chế độ độc tài ; • Đây là lần đầu tiên phụ nữ Ý được bỏ phiếu ; • Việc bỏ phiếu không phải là quyền, như ở Bỉ, mà là nghĩa vụ. Phải nói rằng ngoài việc bỏ phiếu để bầu ra đại diện của mình, các công dân Ý phải trả lời một câu hỏi quan trọng vào năm 1946 : Chế độ quân chủ nên được duy trì hay nền Cộng hòa được thành lập ? Một sự chia rẽ bắc-nam giữa những người theo chủ nghĩa cộng hòa và quân chủ, giống như Câu hỏi Hoàng gia Vào thời điểm đó, phải mất hơn một tuần để công bố kết quả đầu tiên. Nhưng vì có đơn kháng cáo, phải đến ngày 18 tháng 6, mười sáu ngày sau, kết quả cuối cùng mới được công bố : Phiếu « thuận » cho nền Cộng hòa đã thắng. Nhưng cuộc trưng cầu dân ý này cho thấy một nước Ý bị chia rẽ trầm trọng về mặt địa lý. Trung bình, có 54% số phiếu bầu ủng hộ nền Cộng hòa. Nhưng hai phần ba dân miền Bắc đã bỏ phiếu cho nền Cộng hòa, và ở miền Nam, tình hình hoàn toàn ngược lại : hai phần ba cử tri ủng hộ chế độ quân chủ. Nói cách khác, Milano và Torino là những người theo chủ nghĩa cộng hòa, Napoli và Palermo là những người theo chủ nghĩa quân chủ, và ở Roma, miền Trung, tỷ lệ này là 50/50. Một sự chia rẽ Bắc – Nam ở Ý tương tự như sự chia rẽ sẽ xảy ra bốn năm sau đó ở Bỉ, có lợi hoặc có hại cho Vua Leopold III. Kết quả của cuộc trưng cầu dân ý ở Bỉ hoàn toàn ngược lại : Miền Bắc, Flanders, chủ yếu ủng hộ Nhà vua, và miền Nam, Wallonie thì phần lớn phản đối. Điểm chung của cả hai tình huống này là nguyên nhân của các cuộc trưng cầu dân ý này đều bắt nguồn từ Thế chiến thứ hai. Marie-José, Công chúa Bỉ, hoàng hậu cuối cùng của nước Ý Ngoài sự chia rẽ Bắc – Nam ở đất nước này được tiết lộ bởi cuộc trưng cầu dân ý tại Ý ủng hộ nền Cộng hòa, lịch sử ghi nhận rằng hoàng hậu cuối cùng của Ý là người Bỉ : Marie-José, em gái của vua Leopold III và do đó là dì của vua Baudouin và vua Albert II. Bà kết hôn với Umberto, người đã trở thành Vua của nước Ý vào ngày 9 tháng 5 năm 1946 sau khi cha ông thoái vị. Marie-José được gọi là hoàng hậu tháng Năm vì cặp đôi này chỉ trị vì nước Ý trong vòng có một tháng, vì sau khi kết quả bỏ phiếu được công bố, cả hai đều phải lưu vong. Một điều khoản hiến pháp của nước Cộng hòa Ý đã cấm họ quay trở lại đất nước một cách rõ ràng. Mãi đến năm 2002, luật lưu vong này liên quan đến họ và con cháu của họ mới được bãi bỏ. Việc ban hành luật lưu vong chống lại Nhà vua và hoàng gia cho thấy sự phẫn nộ thực sự đối với họ vì chế độ quân chủ Ý đã thỏa hiệp với chủ nghĩa phát xít : cha của Umberto, Vittorio Emanuele III, đã chấp nhận việc thành lập chế độ độc tài phát xít. Dù miễn cưỡng, ông đã ký tuyên bố chiến tranh chống lại Pháp và các nước Đồng minh khác, và sau đó ông đã ký các luật chống lại người Do Thái. Tất nhiên, vào tháng 9 năm 1943, ông đã loại bỏ Mussolini, nhưng điều này là cơ hội, ít nhất là vào thời điểm mà Đồng minh đã chiếm đảo Sicilia và miền nam nước Ý và cuộc chiến tranh giữa đồng minh với Đức đã đến hồi kết thúc. Việc Vittorio Emanuele thoái vị để ủng hộ con trai mình vài tuần trước cuộc trưng cầu dân ý nhằm mục đích cứu vãn chế độ quân chủ, nhưng điều đó là không đủ. Sự lựa chọn một nước Cộng hòa Ý được đưa ra trong bối cảnh các hiệp ước chấm dứt chiến tranh : Ý đã bị đồng hóa với một quốc gia bại trận trong Thế chiến Thứ hai, tức là một quốc gia đồng minh với Đức Quốc xã. Sự trì trệ kinh tế của miền Nam đất nước so với sự giàu có của miền Bắc : một tình hình không thay đổi kể từ khi Ý thống nhất Kết quả tương phản của cuộc trưng cầu dân ý đã không thay đổi trong gần 80 năm. Nó minh họa cho sự chia rẽ giữa miền Bắc và miền Nam nước Ý vẫn còn rất hiện hữu cho đến ngày nay. Một câu thành ngữ cũ đã tóm tắt vấn đề này : "Milano lavora, Roma mangia, Napoli dorme" nghĩa là : "Làm Milano, ăn Roma và ngủ Napoli." Sự khinh thường của miền Bắc đối với miền Nam gợi nhớ đến tình hình của nước Bỉ. Nhưng trong các số liệu thực tế, khoảng cách giữa GDP của miền Bắc nước Ý và miền Nam vẫn lớn hơn nhiều so với khoảng cách giữa hai vùng Flanders và Wallonie của Bỉ. Trong khi Wallonie đã trải qua sự suy thoái, thì nơi này đã từng đi đầu trong cuộc Cách mạng Công nghiệp, một cuộc cách mạng mà miền Nam nước Ý chưa từng trải qua. Sự chia rẽ Bắc - Nam dai dẳng này đã tồn tại kể từ khi nước Ý thống nhất, kéo dài từ năm 1860 đến năm 1870, khi Vương quốc Ý được thành lập trong 76 năm. Do đó, nước Ý đã sống dưới chế độ cộng hòa lâu hơn chế độ quân chủ, vì Cộng hòa Ý sẽ kỷ niệm 80 năm thành lập vào năm tới 2026. Nước Ý ngày nay, trưng cầu dân ý và ý nghĩa chính trị Trong khi dân Ý vừa mừng kỷ niệm thành công của cuộc trưng cầu dân ý thay đổi chế độ năm xưa, thì họ lại phải đến phòng phiếu vào ngày 8 và 9 tháng sáu này để cho một cuộc trưng cầu khác. Ở Ý, các cuộc bỏ phiếu thường diễn ra trong hai ngày Chủ Nhật và thứ Hai. Lần này họ phải trả lời 5 câu hỏi, trong đó có một câu về việc giảm thời gian cư trú từ 10 năm xuống còn 5 năm cho những người ngoại quốc muốn xin nhập tịch Ý (quyền công dân). Và 4 câu còn lại liên quan đến công ăn việc làm thiết thực của người lao động như sa thải hay bồi thường trong trường hợp sa thải (luật lao động). Đây là cuộc đi bỏ phiếu không đụng chạm tới tương lai của chiếc ghế thủ tướng nên chính thủ tướng Ý, Giorgia Meloni tuyên bố không đi bỏ phiếu. Bà đã trả lời như vậy với các nhà báo ngay bên lề cuộc lễ mừng kỷ niệm ngày Cộng Hòa hôm mồng 2 tháng 6. Ngay cả các đảng đối lập ở Ý cũng không tận dụng cơ hội này để thu hút cử tri cho những kỳ bầu cử trong tương lai. Sự thờ ơ của người dân Ý trong cuộc trưng cầu dân ý lần này đã được Danilo Paolini phân tích trên nhật báo Avvenire : “Đã đến lúc phải xem xét đến sự bất mãn của người Ý đối với việc tham gia dân chủ”. Nếu như sau cuộc trưng cầu dân ý năm 1946, phe bảo hoàng (đa số ở miền Nam) không đồng ý với kết quả sát sao giữa đồng ý và không đồng ý, đã dùng vũ lực tấn công phe ủng hộ chế độ cộng hòa. Nhất là họ đã thảm sát những người cộng sản ở Napoli. Miền Nam nước Ý lúc đó thực sự rơi vào tình trạng hỗn loạn. Đặc biệt tại Napoli, nơi được coi là thủ đô của miền nam nơi có nhiều người ủng hộ phe bảo hoàng. Nhưng rồi, nước Ý đã không rơi vào tình trạng nội chiến hay vị vua cuối cùng của Ý được ra nước ngoài sống lưu vong mà không phải lên máy chém. Các vấn đề của cuộc trưng cầu dân ý đã được giải quyết bằng luật pháp và thương lượng giữa các đảng chính trị. Nên nhớ là nước Ý thừa hưởng truyền thống nghị viện và hệ thống luật pháp từ thời La Mã cổ. Trở lại với hiện tại, sự thờ ơ của người dân Ý với một vấn đề quốc gia như luật lao động và quyền công dân. Chỉ có 30% cử tri Ý đi bỏ phiếu, tức vừa đạt ngưỡng tối thiểu để một cuộc bầu cử được gọi là thành công. Tức là các đảng chính trị cũng thỏa mãn vì họ không bỏ lỡ mục tiêu. Còn 70% số cử tri không đi bỏ phiếu cũng là một sự lựa chọn hoàn toàn hợp pháp nhưng để hiểu được tại sao trước thái độ này là điều khó vì đó là cách để họ chỉ trích cách thức diễn đạt của các câu hỏi hoặc không đồng tình về các chủ đề đã chọn, thay vì thờ ơ, ngờ vực, sợ hãi hoặc mong muốn làm cho sáng kiến thất bại. Cuộc trưng cầu dân ý 1946, không chỉ đánh dấu sự ra đời của nước Cộng Hòa Ý mà còn giải quyết triệt để cuộc khủng hoảng hiến pháp của nước Ý thời hậu phát xít. Ngày nay, vì quá dễ dàng trong việc thu thập chữ ký để tổ chức hay hủy bỏ một cuộc trưng cầu (ngưỡng quy định theo Hiến Pháp Ý là 500.000) vì việc thu thập có thể qua hình thức trực tuyến. Có lẽ chỉ cần có ý chí chính trị người ta sẽ thực hiện được. Và như thế việc thay đổi một điều luật trở nên quá dễ dàng !? Việc các đảng phái chính trị dùng người dân như một lực lượng “từ bên dưới” để thay đổi luật pháp mà không dùng đến Quốc hội như nơi thảo luận chân thực và cũng là nơi đưa ra các quyết định chung. Và nếu các đối thủ chính trị bị đánh ngã nơi đấu trường này thì sẽ rất là vinh dự. (Nguồn RTBF)
Từ năm 1954-1974, khoảng 44.000 người hồi hương từ Đông Dương được đón ở Pháp. Hơn 6.000 người bị “nhốt” trong bốn “trung tâm” trên nền doanh trại cũ, bị quản lý kiểu quân đội, đặc biệt là Sainte-Livrade-sur-Lot và Noyant d’Allier. Họ bị xâm phạm quyền tự do cá nhân, không được ra ngoài nếu không được phép. Họ sống bấp bênh, co cụm và bị đối xử dè chừng. 70 năm chịu bất công, 20 năm đấu tranh, cuối cùng những người hồi hương Đông Dương đã được bù đắp. Trong ba ngày từ 15 đến 17/08/2025, hiệp hội CEP-CAFI (Collectif des Eurasiens pour la préservation du Cafi de Sainte-Livrade) tổ chức lễ tưởng niệm tại trại Sainte-Livrade-sur-Lot và thông tin cho con cháu, người thân về dự luật Quốc gia công nhận những người hồi hương từ Đông Dương và bồi thường thiệt hại do họ và gia đình bị tiếp đón tệ bạc và phải sống trong điều kiện khắc khổ trên lãnh thổ Pháp, đặc biệt là ở ba trại Bias, Sainte-Livrade-sur-Lot và Noyant-d’Allier. Dự luật liên đảng, do dân biểu đảng Xã Hội Olivier Faure đề xuất, đã được thông qua ở Hạ Viện ngày 03/06/2025 và chờ được Thượng Viện thông qua, dự kiến tháng 10, sau đó sẽ được ban hành bằng sắc lệnh. Để cha mẹ và những người hồi hương Đông Dương không còn là “những người cuối cùng bị Nhà nước Pháp lãng quên”, thế hệ con cháu đã mất hơn 20 năm đấu tranh, trong đó có ông Daniel Freche, hiện là chủ tịch hội CEP-CAFI. Năm 10 tuổi, ông đến Pháp cùng mẹ và các anh chị em vì cha ông là người Việt nên không thể đi cùng. Ông sống gần 20 năm trong trại, chuyển từ Bias đến Noyant d’Allier và cuối cùng là Sainte-Livrade-sur-Lot. Trả lời RFI Tiếng Việt ngày 02/07/2025, ông cho rằng “muộn còn hơn không” và giải thích tại sao “thắng lợi” này lại phải chờ lâu đến như vậy. RFI : Dân biểu Olivier Faure nói : Những người hồi hương Đông Dương “là những người cuối cùng bị lập pháp của Pháp lãng quên”. Phát biểu này có ý nghĩa như thế nào ? Tại sao đến bây giờ mới có một dự luật về người hồi hương Đông Dương ? Ông Daniel Freche : Dân biểu Olivier Faure không biết chuyện này. Tại sao gặp ông ? Tại vì ông cũng là con cái người hồi hương Đông Dương, cha mẹ cũng làm bên Pháp. Thứ hai là mấy người đó là qua đây (Pháp) có gia đình nên đoàn tụ với gia đình liền. Còn chúng tôi qua đây không có gia đình nào nên bắt buộc phải ở trong trại. Lúc mọi chuyện đã xong, tại sao lại đi gặp ông Faure ? Tại vì chúng tôi biết ông cũng là người hồi hương Đông Dương. Những người này hiểu chuyện hơn những người Pháp khác, cho nên gặp ông, cắt nghĩa câu chuyện cho ông biết. Gặp ông, cắt nghĩa cho ông tại sao 70 năm sau mới hỏi. Tại vì trước đây, cha mẹ chúng tôi không đòi hỏi gì hết. Nghèo thì nghèo, ở theo cách nghèo thôi, mà cần nhất là lo mấy đứa con cháu ra trưởng thành, có việc làm, có tương lai. Lúc đó họ lo lắng cho chúng tôi ăn học đàng hoàng. Rồi chúng tôi ra trường, đi làm, tới lúc đó mới suy nghĩ lại : Tại sao cũng là người Pháp, có quốc tịch Pháp, qua bên đây cũng đi theo Pháp, làm cho Pháp mà không được hưởng gì hết ? Còn những người “boat people” ngày trước, qua đây được người ta lo lắng đàng hoàng tử tế từ đầu tới cuối, tới khi họ ra khỏi trại thì thôi. Nhưng tại sao để cho những người hồi hương Đông Dương ở trong trại ? Chuyện đó, đối với chúng tôi, là không đúng. Đọc thêm"Lính thợ Đông Dương" : Những người lính thầm lặng tại Pháp trong Thế Chiến II Cho nên phải cắt nghĩa cho ông Faure hiểu. Chúng tôi muốn hỏi ông có thể làm gì để những người hồi hương Đông Dương được bù đắp sau mấy chục năm. Ông mới hiểu chuyện và nói rằng bắt buộc phải làm một luật khác vì luật về người Harki (1) đã được thông qua nên không được. Và ông đồng ý thảo dự luật về những người hồi hương Đông Dương. Lúc đó chúng tôi nói bây giờ nếu làm được chúng tôi cũng cảm ơn nhiều lắm. Tại vì nếu làm được thì không phải là cho chúng tô,i mà trước hết là cho cha mẹ chúng tôi, vì chúng tôi muốn ghi công họ. Ông Faure cho biết thế nào cũng làm được vì chuyện đó là đúng. Tại sao mình ở một đất nước tự do, bình đẳng, bác ái mà lại không làm được việc đó ? RFI : Dân biểu Nicolas Ray cũng phát biểu : “Nhà nước Pháp lẽ ra đã phải đón nhận (những người hồi hương Đông Dương) một cách xứng đáng hơn”. Những người hồi hương Đông Dương là ai ? Họ phải sống trong điều kiện như thế nào sau khi đến Pháp ? Ông Daniel Freche : Ông Nicolas Ray là người Pháp, chứ không phải người ở Đông Dương về. Ông đến gặp mọi người ở trại Noyant d’Allier, ông biết là người ta sống cũng không giống người khác, không được sống đàng hoàng. Ông quan tâm đến những người trong trại, bởi vì những người đó chỉ có lo ăn, lo đi làm, lo tương lai cho con cái. Người Việt Nam mình là như vậy, ở Noyant hay ở Sainte-Livrade đều giống nhau hết. Bên Noyant d'Allier cũng chịu hoàn cảnh như chúng tôi, trong khi nhiều người ở Noyant còn có cha mẹ, có bố, còn ở trại Sainte-Livrade là những người không có bố, chỉ có mỗi mẹ hoặc không cha mẹ, cho nên đâu có được ra khỏi trại sớm được, bắt buộc phải nuôi con. Chừng nào con lớn lên, tới lúc đó mới được ra. Nhưng đến lúc được ra rồi, đâu có đi đâu, bởi vì 20 năm sau, 30 năm sau, 50 năm sau, người ta vẫn giữ thói quen sống giống bên Việt Nam, ăn uống, nấu nướng, muốn đi qua đi lại nói chuyện như người Việt Nam mình. Nếu ra ngoài thì người ta đâu được sống giống như vậy. Người ta sợ mất thói quen sinh hoạt. Ít người muốn rời khỏi trại đó, cho nên những người lớn tuổi ở lại. Ông Nicola Ray nói rằng nếu đối đãi với người Pháp không đàng hoàng thì ông phải làm. Ông nói ông là người Pháp, ông không thể nào để những người hồi hương Đông Dương sống như vậy được. Ông cũng tìm hiểu để nói với ông Olivier Faure là phải giúp ra một luật về vấn đề này. Luật này rất lớn vì đây là lần đầu tiên có một luật như vậy kể từ 1954 tới bây giờ, có nghĩa là 70 năm sau. Đáng lẽ luật phải được ra trước đó nhưng giờ có luật này, chúng tôi mừng lắm. RFI : “Điều bất công kéo dài đã 70 năm”. “Thắng lợi” này có ý nghĩa như thế nào với những người hồi hương từ Đông Dương và hiện giờ là gia đình, con cháu của họ ?  Ông Daniel Freche : Chúng tôi cần nhất luật này là cho cha mẹ chúng tôi, sự công nhận của Nhà nước cho cha mẹ chúng tôi. Cái đó là cần nhất. Thứ hai là phải đền ơn những người, từ mấy chục năm nay, phải sống cực khổ, chứ không sướng gì. Qua bên đây (Pháp) mà không biết tiếng Pháp, đâu có làm được gì, chỉ lo cho con thôi. Cho tới lớn, ăn học xong thì mấy người con đó đi làm có tiền, rồi mới lo cho gia đình. Mẹ của chúng tôi ở Sainte-Livrade làm như thế. Thành ra chúng tôi nói bây giờ chính phủ phải đền ơn dùm 70 năm đó, chúng tôi sống trong cảnh khó khăn đó, nên phải bồi thường. Nếu những người đã mất, giống như cha mẹ chúng tôi đã mất, thì bây giờ phải đền cho mấy đứa nhỏ. Tại họ cũng ở trong trại nó. Bồi thường, đó chỉ là khoản sửa chữa vậy thôi, chứ thực ra cũng không đáng gì : Người ta ở đó 70 năm, họ lại còn là người Pháp nữa. Thành ra bây giờ chúng tôi nói đền bù, điều đó là cũng đúng. Đọc thêmChiến tranh Đông Dương : Vị đắng ngày trở về Thứ hai, phải có một chỗ gọi là “nơi tưởng niệm” (lieu de mémoire). Đây là việc cần nhất. Tại sao ? Tại vì cha mẹ chúng tôi mất hết, chết cũng chỗ đó, chôn cũng chỗ đó. Cho nên bây giờ chúng tôi muốn làm một ngôi đền thật lớn cho cha mẹ. Họ đâu có muốn được ghi công đâu, nhưng nhờ có luật, lập được nơi tưởng niệm. Cho nên chỗ đó lớn lắm. Bây giờ những người con muốn về thăm mộ, về thăm quê hương nơi hồi nhỏ mình ở, nhớ lại hồi đó ăn uống làm sao, bạn bè mình ra sao, chơi như thế nào…, những câu chuyện đó, mình kể lại cho những người bạn, những người bạn Pháp muốn xuống tìm hiểu tại sao 70 năm sau mới làm chuyện đó. Bây giờ cũng phải cắt nghĩa cho họ biết : Mình là người Việt Nam chứ không phải là người Pháp, cái gì cũng đòi hỏi. RFI : Luật đã được thông qua ở Hạ Viện ngày 03/06/2025 và được đưa lên thảo luận ở Thượng Viện. Xin ông cho biết các bước tiếp theo sẽ như thế nào ? Ông Daniel Freche : Luật đã được thông qua ở Hạ Viện ngày 03/06, tất cả nghị sĩ đã đồng lòng thông qua. Đó là một chiến thắng lớn cho chúng tôi tại vì làm cho các dân biểu thông qua được luật đó. Đọc thêmPháp và Chiến tranh Đông Dương : “Lối thoát danh dự” hay “ô nhục” Thứ hai là hiện giờ, luật đã thông qua ở Hạ Viện rồi nhưng chưa xong tại vì còn phải được thông qua ở Thượng Viện, tháng 10 họp lại, mới bỏ phiếu luật đó, sau đó được đưa trở lại Hạ Viện để thông qua và chính phủ ban hành sắc lệnh để bồi thường cho những người hồi hương Đông Dương. Ít nhất là cũng phải ba bốn tháng nữa. Chúng tôi đợi 70 năm rồi, bây giờ thêm ba, bốn tháng nữa, đối với chúng tôi là không nhiều. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn ông Daniel Freche, chủ tịch hội CEP-CAFI. (1) Luật ngày 23/02/2022 về việc Quốc gia công nhận những người Harki và những người khác hồi hương từ Algérie lại không có những người hồi hương từ Đông Dương. Người harki, người Hồi giáo Algérie được tuyển dụng làm lực lượng hỗ trợ cho quân đội Pháp trong Chiến tranh Algérie (1954-1962). Ngoài CEP-CAFI còn có hội ARINA (l’Association des Rapatriés d’Indochine de Noyant d’Allier (Arina) và FNR (Fédération Nationale des Rapatriés) 
Cũng như nhiều ngành khác, ngành du lịch đang chuyển đổi sâu sắc nhờ sự phát triển của trí tuệ nhân tạo AI. Thị trường AI toàn cầu ứng dụng vào du lịch, trị giá 2,95 tỷ đô la vào năm 2024, đến năm 2030 có thể đạt 13,38 tỷ đô la, theo ước tính của công ty MarketsandMarkets. Trợ lý ảo được hỗ trợ bởi công nghệ AI sẽ đảm nhiệm mọi quy trình liên quan đến du lịch, mang đến những trải nghiệm cực kỳ cá nhân hóa, đồng thời tối ưu hóa chi phí cho khách du lịch. Nhờ công nghệ học máy ( machine learning ) và phân tích dự đoán, trợ lý ảo nay có thể đề xuất các lựa chọn chuyến bay, chỗ ở và phương tiện di chuyển tốt nhất. Không chỉ dựa vào một mô hình duy nhất, trí tuệ nhân tạo đang định hình một mô hình gọi là du lịch kết hợp (hybrid), tức là mô hình mà trong đó đổi mới công nghệ và trải nghiệm của con người kết hợp với nhau để đáp ứng những kỳ vọng đa dạng của du khách. Các công ty du lịch hiện đang tận dụng khối lượng dữ liệu khổng lồ để xác định xu hướng, cải thiện hiệu quả hoạt động và cung cấp các dịch vụ được thiết kế riêng, chẳng hạn như định giá linh hoạt và các chương trình khuyến mãi được cá nhân hóa, nhờ vào công nghệ học máy.  Trợ lý ảo, sử dụng ngôn ngữ tự nhiên (NLP), tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao tiếp giữa du khách và nhà cung cấp dịch vụ bằng cách phản hồi nhanh chóng các yêu cầu. Các OTA (đại lý du lịch trực tuyến) đang thử nghiệm công cụ tìm kiếm bằng giọng nói (hội thoại ) để làm cho tương tác trở nên tự nhiên, trôi chảy và trực quan hơn, gần như là một cuộc trò chuyện thực sự giữa con người.  Triển lãm công nghệ VivaTech 2025 tại Paris lần đầu tiên đã dành hẳn một khu vực cho các công ty du lịch, giới thiệu những ứng dụng công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ trí tuệ nhân tạo, trong ngành này. Tootbus, một công ty con chuyên về các tour tham quan của công ty giao thông công cộng Paris RATP Dev, đã cho ra mắt Tootie, hướng dẫn viên du lịch đàm thoại được hỗ trợ bởi AI. Công ty quản lý du lịch Navan thì giới thiệu toàn bộ ứng dụng AI “tất cả trong một”, hỗ trợ khách du lịch trong suốt chuyến đi và hỗ trợ các giám đốc tài chính trong việc quản lý chi phí đi công tác của nhân viên.  Cũng tại triển lãm Vivatech, công ty lữ hành TUI France đã trình làng một trợ lý ảo sử dụng trí tuệ nhân tạo để hỗ trợ trực tiếp cho nhân viên bán hàng tại các đại lý của công ty. Công cụ AI này, hiểu được ngôn ngữ tự nhiên, sẽ giúp truy xuất thông tin để tối ưu hóa trải nghiệm của khách hàng. Cho đến nay, việc tìm kiếm và so sánh các sản phẩm tốn rất nhiều thời gian, đòi hỏi nhân viên đại lý phải tự thu thập thông tin từ nhiều nguồn.  Với công cụ mới này, dựa trên các câu hỏi bằng ngôn ngữ tự nhiên, nhân viên đại lý sẽ có thể nhận được mô tả phòng đầy đủ, hành trình chi tiết cho các tour du lịch, thông tin về chỗ ở, thậm chí cả thủ tục du lịch (hộ chiếu, tiêm chủng). Nhờ đó, đại lý có thể tạo bảng so sánh nhiều sản phẩm chỉ trong vài giây.  Với tác nhân tăng cường này, TUI France đang giới thiệu một khía cạnh mới trong việc xây dựng yêu cầu của khách hàng, đó là tìm kiếm trải nghiệm. Ra mắt chính thức vào tháng 12, tính năng này cho phép các tác nhân tìm kiếm chuyến đi dựa trên các tiêu chí trải nghiệm cụ thể, ngay cả khi khách hàng chưa chọn một điểm đến nào.  Trả lời RFI Việt ngữ tại triển lãm Vivatech, ông Julien Lange, Giám đốc Digital Factory của công ty TUI France, giải thích:  “Tìm kiếm trải nghiệm là nền tảng mà chúng tôi đã xây dựng tại công ty TUI France. Nhân viên đại lý du lịch hỏi khách hàng về trải nghiệm mà họ mong muốn. Thay vì chọn điểm đến, trước hết chúng tôi xem xét cách thức đáp ứng những mong muốn của khách hàng. Ví dụ, một khách hàng nói: "Trải nghiệm mà tôi mong muốn trong kỳ nghỉ của mình là băng qua sa mạc trên lưng lạc đà và sau đó lái xe 4x4." Chúng tôi nhập yêu cầu này bằng ngôn ngữ tự nhiên và hiển thị danh sách các sản phẩm của TUI France, chẳng hạn như các trung tâm nghỉ dưỡng có cung cấp loại hình du ngoạn hoặc tour du lịch như mong muốn của khách, mà không cần phải thông qua các công cụ tìm kiếm khác nhau.  Chúng tôi đã tạo ra một đại lý ảo, mới được đưa ra sử dụng gần đây. Ta có thể trao đổi với đại lý ảo này bằng ngôn ngữ tự nhiên hoặc đăng nhập các mong muốn du lịch. Chúng tôi có thể sử dụng lại trải nghiệm tìm kiếm, nhưng thay vì chỉ có hình thu nhỏ của sản phẩm, sẽ có phần mô tả sản phẩm bằng giọng nói. Ta có thể yêu cầu những thông tin chi tiết hơn, so sánh sản phẩm, như vậy các nhân viên đại lý du lịch không phải tìm kiếm trên nhiều cổng thông tin khác nhau mà vẫn có thông tin ngay lập tức và có thể phản hồi khách hàng ngay lập tức.  Chúng tôi cũng có thể tiến xa hơn, tức là nếu khách hàng muốn biết ngay các thủ tục xuất nhập cảnh là gì? Cần phải tiêm những loại vắc-xin nào? Chúng tôi có thông tin trực tiếp từ những nguồn đáng tin cậy, chẳng hạn như trang mạng của bộ Ngoại giao Pháp diplomatie.gouv, cộng với những thông tin chúng tôi có riêng. Một khi có đầy đủ những thông tin đó, nhân viên đại lý du lịch sẽ trao đổi với khách hàng. Nếu khách hàng muốn có tất cả thông tin chi tiết đó, chúng tôi sẽ gửi qua email cho khách hàng.”  Nói chung, trợ lý ảo sử dụng trí tuệ nhân tạo là một trợ thủ rất đắc lực cho các nhân viên đại lý du lịch của TUI France, cung cấp một lựa chọn ban đầu về các sản phẩm có thể phù hợp với trải nghiệm mà khách hàng mong đợi. Tuy nhiên, công cụ này còn cần phải được bổ sung các dữ liệu khác, như giá cả và tình trạng sẵn có của các sản phẩm. Ông Julien Lange cho biết:  “Nhân viên đại lý du lịch nói chung nắm rất rành các trung tâm nghỉ dưỡng như Lookéa hay Marmara của công ty TUI France. Tour du lịch thì phức tạp hơn một chút. Tour du lịch thì có rất nhiều và cung cấp rất nhiều thứ, chúng tôi không thể có đầy đủ những thông tin chi tiết. Trước tiên, nhân viên đại lý du lịch sẽ đưa ra những đề xuất dựa trên những gì họ biết, nhưng sau đó họ có thể đi xa hơn bằng cách đăng nhập yêu cầu của khách hàng và xem có những sản phẩm gì khác.  Cho  nên, xét về khả năng tìm kiếm và độ chính xác, khách hàng sẽ cảm thấy chúng tôi thực sự đáp ứng yêu cầu của họ. Tất cả những gì liên quan đến thủ tục xuất nhập cảnh, tiêm chủng, chúng tôi cung cấp cho khách hàng thông tin đầy đủ nhất có thể, dựa trên những cơ sở dữ liệu, mà chúng tôi phải cập nhật mỗi ngày. Vì vậy, nếu sản phẩm mới ra mắt, chúng tôi sẽ có chúng trong hệ thống ngay ngày hôm sau. Như vậy chúng tôi luôn có những dữ liệu mới cho mỗi sản phẩm.  Hiện giờ chúng tôi vẫn chưa có tất cả dữ liệu về giá cả và tình trạng sẵn có của các sản phẩm. Nhưng chúng tôi sẽ sớm có những dữ liệu đó. Một khách hàng có thể đến một đại lý du lịch và nói: "Tôi đang muốn đi đâu đó, nhưng chưa biết nơi nào. Tôi thực sự muốn đi du lịch trong sa mạc và ngủ qua đêm trong lều trại. Ngân sách của tôi là 4.000 euro cho hai người. Đại lý của các ông những sản phẩm gì cho tháng 7?". Sau khi được cung cấp những thông tin đó, hệ thống sẽ có thể đề xuất các sản phẩm, có thể là các trung tâm nghỉ dưỡng Lookéa, Marmara, hoặc là các tour du lịch New Frontiers.  Nhân viên đại lý ảo hiện đã có mặt tại toàn bộ  207 đại lý của TUI France. Những dữ liệu về giá cả và tình trạng sẵn có sẽ được bổ sung trước cuối tháng 9. Tôi cam kết như vậy!”  Trí tuệ nhân tạo còn được sử dụng để tự động hóa việc sản xuất những video quảng cáo du lịch đưa khách hàng đi thẳng vào trải nghiệm mà họ mong muốn. Đó chính là sáng kiến của một công ty khởi nghiệp mang tên Projo, được sáng lập dưới sự bảo trợ của công ty TUI. Trả lời RFI Việt ngữ tại triển lãm Vivatech 2025, ông Fabien Roques, sáng lập viên của Projo, cho biết: “Chúng tôi sản xuất video tự động cho ngành du lịch. Cụ thể là chúng tôi dựa trên video giới thiệu du lịch được phát trên trang mạng của công ty lữ hành để chuyển thành nhiều video khác nhau thích ứng với mọi đường hướng truyền thông của công ty đó. Đó có thể là phim quảng cáo trên các mạng xã hội, các trang bán hàng với một đoạn video trình bày những sản phẩm du lịch. Ví dụ, một nhân viên tiếp thị, chẳng hạn như trong công ty TUI, truy cập giao diện Projo. Projo sẽ tự động trích xuất nội dung từ trang bán hàng đã chọn để tạo ra sản phẩm du lịch. Từ những sản phẩm đó, nó sẽ kích hoạt việc sản xuất tự động một hoặc nhiều video với các định dạng đã được chọn.  Sau đó, trên giao diện chỉnh sửa Projo, ta có thể thực hiện các điều chỉnh nếu muốn, như thay thế, cắt bỏ một cảnh quay, hoặc điều chỉnh giọng nói, rồi xuất video này và sử dụng trên bất kỳ kênh truyền thông nào.  Hiện giờ, nguồn nội dung video chính mà chúng tôi sử dụng trong quá trình chỉnh sửa là cái mà chúng tôi gọi là cơ sở dữ liệu stock. Đây là những cơ sở dữ liệu có rất nhiều ảnh và video, và trí tuệ nhân tạo của chúng tôi sẽ tìm kiếm nội dung phù hợp với chuyến đi. Với những video được sản xuất thông qua Projo, chúng tôi có thể thực sự đưa khách hàng vào thẳng trải nghiệm du lịch của họ.  Chúng tôi đã thấy sự gia tăng đáng kể về tỷ lệ nhấp chuột trên các chiến dịch quảng cáo sử dụng video, thu hút khách hàng nhiều hơn so với nội dung cố định. Đây là những video nhắm mục tiêu nhiều hơn, nghĩa là chúng tôi sẽ có thể thực sự tạo ra một loạt video cho mỗi sản phẩm du lịch, điều mà trước đây không hẳn là dễ dàng.  Chúng ta có thể hình dung ra một loại sản phẩm mang tính cá nhân hơn, ví dụ, một cặp đôi muốn đến Tanzania vào tháng 6, chúng ta sẽ có thể gửi cho họ một video tương ứng với trải nghiệm mà họ mong muốn. Nếu đó là một chuyến đi khá lãng mạn, sẽ có video giải thích cho họ nên đem theo những gì trong vali. Có rất nhiều thông tin mà chúng ta có thể truyền tải thông qua video, thú vị hơn nhiều so với việc chỉ gửi một tệp PDF. Chúng ta sẽ đưa cặp ấy thẳng vào trải nghiệm và đưa ra những lời khuyên thiết thực cho chuyến đi.” Tại Hoa Kỳ, các công ty du lịch đã và đang tích hợp các đại lý ảo như Open Source Operator. Xu hướng này dự kiến sẽ nhanh chóng lan rộng sang châu Âu, làm thay đổi sâu sắc cách thức tổ chức du lịch. Tuy nhiên, AI sẽ không thay thế con người mà đang trở thành một đối tác chủ chốt, cải thiện tính linh hoạt, cá nhân hóa và tính bền vững của trải nghiệm. Tương lai của du lịch sẽ dự
Triển lãm hàng không và không gian Le Bourget, Paris (16 -22/06/205) một lần nữa là dịp để các công ty chế tạo máy bay giới thiệu những dự án máy bay “sạch”, tức là phát ra ít khí thải carbon gây hiệu ứng lồng kính, trong bối cảnh ngành hàng không toàn thế giới đang nỗ lực giảm thiểu tác hại đến khí hậu trên hành tinh của chúng ta.  Dragonfly: " Sạch, êm, bền" Trong số các dự án đầy tham vọng đó, có máy bay chạy bằng hydrogen như chiếc Dragonfly của Blue Spirit Aero, một công ty khởi nghiệp của Pháp, được thành lập vào năm 2020, đặt cơ sở tại khu vực Paris và Toulouse. Dragonfly là loại máy bay bốn chỗ ngồi, ban đầu dành cho các trường dạy lái phi cơ, có 12 động cơ điện, mỗi động cơ chạy bằng pin nhiên liệu hydro. Thật ra trước khi đến Le Bourget, Dragonfly, được quảng cáo là "sạch, êm, bền", đã chính thức " ra mắt thế giới" ngày 10/06/2025, tại sân bay Le Mans. Olivier Savin, người sáng lập Blue Spirit Aero, nhấn mạnh "đây là chiếc máy bay chạy bằng hydrogen đầu tiên được thiết kế từ đầu", không giống như hàng chục dự án tương tự khác đang được tiến hành trên khắp thế giới. Ông nói: "Tất cả các đối thủ cạnh tranh của tôi, vì sự tiện lợi, đều lấy một chiếc máy bay hiện có và loại bỏ động cơ thông thường để chuyển sang động cơ điện và nhiên liệu hydrogen. Tôi tin rằng điều đó không hiệu quả".  Chuyến bay thử nghiệm đầu tiên của Dragonfly được lên kế hoạch "trong những tháng tới" và ông Savin hy vọng máy bay có thể sẽ được cấp chứng nhận trong những 2027-2028, và ngay sau đó sẽ được thương mại hóa. Nhà sáng lập Blue Spirit Aero cho biết: "Chúng tôi vẫn đang tìm kiếm các nhà đầu tư". Chiếc máy bay nhỏ này sẽ có thể bay 700 km với tốc độ 230km/giờ. Nó có khả năng bay cho dù có đến 8 động cơ không hoạt động. Blue Spirit Aero ban đầu nhắm đến thị trường các trường đào tạo phi công chuyên nghiệp. Theo ông Savin, "600.000 phi công sẽ phải được đào tạo trong 20 năm tới. Vì vậy, cần phải tăng số lượng máy bay có sẵn cho các trường đào tạo và những chiếc máy bay mới này phải thân thiện với môi trường". Về lâu dài, Blue Spirit Aero có kế hoạch giải quyết vấn đề vận tải khu vực bằng máy bay 6 chỗ ngồi có tầm bay 1.000 km, hoặc thậm chí là máy bay 14 chỗ ngồi. Cũng tại Triển lãm Le Bourget 2025, LoganAir, hãng hàng không khu vực lớn nhất của Scotland, đã thông báo thiết lập quan hệ đối tác đầy tham vọng với ZeroAvia, một công ty chuyên về động cơ đẩy hydrogen-điện, đưa công nghệ này vào đội máy bay của LoganAir, đánh dấu một bước tiến đáng kể hướng tới các chuyến bay thương mại không phát thải khí carbon. Dự án chủ lực bao gồm việc sử dụng kiểu máy bay Cessna Caravan làm nền tảng thử nghiệm cho hệ thống đẩy ZA600 của ZeroAvia, một động cơ 600 kilowatt được thiết kế cho máy bay chở từ 10 đến 20 hành khách. Tham vọng của Airbus: ZEROe Những doanh nghiệp lớn hơn nhiều, như tập đoàn chế tạo máy bay châu Âu Airbus, từ lâu cũng đã theo đuổi dự án máy bay hydrogen mang tên ZEROe. Trả lời RFI Việt ngữ từ Triển lãm Le Bourget, ông Karim Mokaddem, trưởng bộ phận Nghiên cứu và Phát triển về máy bay tương lai của Airbus, cho biết: “Động cơ điện được cung cấp năng lượng từ các electron. Các electron này tạo ra điện cho động cơ điện, tạo ra lực đẩy điện không phát thải, giống như trong một chiếc ô tô điện. Với hydrogen, điểm khác biệt là các electron này không được tạo ra từ  pin như trong ô tô điện, mà được tạo ra bởi cái được gọi là pin nhiên liệu. Pin nhiên liệu này được cung cấp năng lượng bởi hydrogen, và từ hydrogen này, nó tạo ra điện, đi trực tiếp vào động cơ điện và tạo ra hệ thống đẩy điện.  Nguyên tắc là như thế. Tại sao chúng ta không sử dụng pin? Bởi vì mật độ năng lượng trên một đơn vị khối lượng của pin hiện nay có không cho phép vận chuyển một số lượng lớn hành khách trên một quãng đường rất xa. Nếu muốn làm điều này cho ngành hàng không, chúng ta buộc phải sử dụng các hệ thống dựa trên hydrogen và pin nhiên liệu.  Hydrogen là một loại nhiên liệu trong số những nhiên liệu tổng hợp. Chúng ta có thể sản xuất nó từ nước hay từ ​​nhiên liệu hóa thạch. Nhưng ý định của chúng tôi là tạo ra một loại hydrogen sạch nhất có thể, một dây chuyền sản xuất hydrogen lành mạnh. Điều đặc biệt duy nhất là nó không chứa carbon. Đó là hydrogen xanh. Tôi thường nói là nhiên liệu tiệm cận, nghĩa là khi không còn gì nữa, chúng ta vẫn có thể sản xuất nhiên liệu này từ Mặt trời và nước.  Ngày nay, lý tưởng nhất để được khả thi về mặt thương mại là máy bay có kích thước bằng một chiếc A320. Tham vọng cuối cùng của chúng tôi là như thế. Lúc đầu, chúng tôi đặt mục tiêu chế tạo một chiếc máy bay 100 chỗ ngồi và tầm bay chỉ dưới 1.800 km.”  Ban đầu Airbus dự kiến là máy bay ZEROe sẽ ra đời vào năm 2035, nhưng cuối cùng họ đã phải lùi lại thời hạn thêm 5 hoặc 10 năm nữa. Ông Karim Mokaddem giải thích lý do: “Chúng tôi đã làm việc rất nhiều về loại máy bay không phát thải này dựa trên việc sử dụng hydrogen, nhưng nay chúng tôi nhận ra rằng hệ sinh thái kinh doanh để triển khai việc sử dụng hydrogen cho máy bay mất nhiều thời gian hơn dự kiến, vì vậy chúng tôi tạm hoãn dự án này.  Thực ra, vấn đề chính là thời gian cần thiết để thiết lập hệ sinh thái. Cách đây 15 hoặc 20 năm, thị trường xe hơi cũng đã trải qua tình huống tương tự với pin. Không có đủ pin, không có trạm sạc. Mọi người đều trông cậy nhiều vào nhiên liệu hóa thạch hơn là khử ô nhiễm cho cho xe hơi. Và rồi đến một thời điểm nhất định, đã có một bước ngoặt như chúng ta đang trải qua ngày hôm nay, có nghĩa là có thêm nhiều động điện cho xe hơi và các trạm sạc pin ngày càng nhiều, và hệ sinh thái của thế giới pin điện đã phát triển. Điều tương tự sẽ xảy ra với hydrogen, nhưng sẽ mất nhiều thời gian hơn một chút để cỗ máy kinh tế này khởi động.  Chúng tôi sẽ tranh thủ thời gian này để phát triển một loại máy bay khả thi hơn về mặt thương mại, có thể chở nhiều hành khách hơn trên những quãng đường dài hơn và dựa trên pin nhiên liệu sử dụng hydrogen. Một loại máy bay khác biệt và có thể cho phép chúng tôi có vị thế tốt hơn trên thị trường so với vị thế mà ban đầu chúng tôi cho là sẽ có vào năm 2035” Những máy bay ít tiêu tốn nhiên liệu Tuy dự án ZEROe phải cần thêm từ 10 đến 10 năm, Airbrus vẫn nuôi tham vọng đứng đầu thế giới về phi carbon hóa ngành hàng không. Ngoài máy bay hydronen, tập đoàn châu Âu còn có những dự án máy bay tiêu tốn nhiên liệu ít hơn, theo lời ông Kasim Mokaddem:  « Airbus có cam kết rất mạnh mẽ là đạt được trung hòa carbon vào năm 2050. Và để đạt được điều đó, hydrogen sẽ không phải là yếu tố chính, vì hydrogen sẽ có rất ít tác động đến lượng khí thải CO2 vào năm 2050. Sẽ có tác động lớn chính là sản phẩm mà chúng tôi gọi là thế hệ máy bay một lối đi mới, tức là dòng máy bay sẽ thay thế dòng máy bay A320 hiện nay, mà chúng tôi muốn giảm mức tiêu thụ nhiên liệu từ 25 đến 30% và chúng tôi muốn sử dụng càng nhiều càng tốt nhiên liệu tổng hợp không phải là hydrogen, mà là nhiên liệu tổng hợp trong đó carbon bên trong là carbon được tái chế, do đó có lợi hơn. Và vì vậy, ngày nay chúng tôi làm việc rất nhiều về loại máy bay này. Chúng tôi đang hướng tới mục tiêu đưa nó vào sử dụng trong khoảng thời gian từ năm 2035 đến năm 2040. Chiếc máy bay này sẽ có tác động rất lớn đến cam kết của chúng tôi đạt được trung hòa carbon vào năm 2050. Nó sẽ dựa trên các vật liệu nhẹ hơn nhiều, hệ thống động cơ hiệu quả hơn nhiều và với đôi cánh hoàn toàn khác so với những gì hiện có. Loại máy bay mới này, cùng với việc đổi mới đội máy bay hiện nay bằng những chiếc máy bay hiện đại hơn, sẽ cho phép chúng tôi tiến tới mức trung hòa carbon vào năm 2050, trước khi tiến tới bước tiếp theo là mức phát thải bằng không.  Airbus có một kế hoạch phi cacbon hóa rất rõ ràng, mà chúng tôi đang triển khai. Kế hoạch này có hai thời hạn: đầu tiên là năm 2050, đạt mức trung hòa carbon, và sau năm 2050 là hướng tới máy bay không phát thải.  Chúng tôi sẽ sử dụng vật liệu composite nhiều nhất có thể. Chúng tôi đã sử dụng vật liệu composite trên chiếc A350 và đang hướng đến thế hệ tiếp theo có nhiều vật liệu composite hơn trên cánh máy bay và, tại sao không, trên các bộ phận khác của thân máy bay, như vậy sẽ làm giảm đáng kể trọng lượng và sẽ có tác động đáng kể đến hiệu suất của máy bay.
Năm 1980, nhà xã hội học người Mỹ Ronald L. Morris, trong tác phẩm đề tựa « Wait until Dark: Jazz and Underworld » (tạm dịch là Khi màn đêm buông xuống : Jazz và Thế giới ngầm), từng khẳng định nhạc Jazz trong giai đoạn Lệnh cấm (1920-1933) sẽ không còn là Jazz nếu không có sự che chở của các băng đảng tội phạm. Theo ông, Jazz chịu rất nhiều ảnh hưởng từ mafia. Storyville, New Orleans : Nền tảng đầu tiên của mối liên hệ Jazz - Mafia Mối liên hệ này được hình thành tại Storyville, New Orleans vào cuối thế kỷ XIX. Đó là thời điểm làn sóng di cư người Ý diễn ra mạnh mẽ : Trong vòng 20 năm, 1880 – 1900, hơn 650 ngàn người Ý và Sicilia đổ vào nước Mỹ, quốc gia vừa thoát khỏi cảnh Nội Chiến. Họ băng Đại Tây Dương, mơ về một nước Mỹ thịnh vượng và cởi mở. Không chỉ có người Ý, trên các cầu cảng còn có người Ireland, và hàng triệu di dân đến từ Đông Âu, phần lớn là người Do Thái. Họ chạy trốn cảnh nghèo đói, thoát cảnh chiến tranh hay sự truy bức. Nhưng giấc mộng đó nhanh chóng tan vỡ khi phải đối mặt với thực tế nghiệt ngã : Nạn kỳ thị chủng tộc và chủ nghĩa bản địa. Bị hắt hủi, bị gạt ra bên lề xã hội, thất nghiệp, không được học hành, những di dân gốc Ý, Do Thái hay châu Phi sống chen chúc trong những khu phố nghèo tại các thành phố cảng lớn như Lower East Side ở New York hay như khu Vieux-Carré tại New Orleans. Các băng đảng tội phạm lần lượt xuất hiện : Mano nera, mafia, cosa nostra…. Không được tiếp cận các ngành kinh doanh hợp pháp, những nhóm tội phạm này mở rộng các hoạt động ngầm về đêm, thâu tóm các lĩnh vực giải trí và sân khấu, giang tay đón nhận những người nghệ sĩ lang thang, đặt nên nền tảng đầu tiên cho mối liên hệ giữa Jazz và Mafia trong nhiều thập niên sau đó của thế kỷ XX. Nhạc sĩ dương cầm Earl Hines, từng giải thích : « Các thành viên mafia đã nhanh chóng tìm thấy trong âm nhạc một lớp vỏ bọc tuyệt vời cho những mánh lới được thực hiện trong hậu trường, từ các trò cờ bạc trái phép, buôn thuốc phiện, cho đến cả mãi dâm. » Steven Jezo – Vannier, tác giả tập sách « Music Connection. Les parrains de la musique américaine au XXè siècle » (tạm dịch là Kết nối âm nhạc. Những người bảo trợ cho âm nhạc Mỹ thế kỷ XX), cho biết, vào năm 1902, người ta ước tính ở Storyville, đã có đến 85 sàn nhảy, gần 800 quán rượu và 230 nhà chứa, nơi hoạt động của khoảng 1.500 gái làng chơi. Ba phần tư các chủ sở hữu những cơ sở này đều là trùm các băng đảng với những cái tên Joe Segretta, Henry Matranga, Peter Ciacco hay Pete Lala, với câu lạc bộ nổi tiếng Big 25, sàn diễn đầu tiên của Joe Oliver – người sau này trở thành King Oliver. Đó cũng là nơi xuất thân của nhiều tên tuổi khác trong làng nhạc Jazz như Jelly Roll Morton, Kid Ory, Buddy Bolden, Louis Amstrong hay Cab Calloway… 1920 : Thời điểm quyết định cho cuộc hội ngộ Jazz - Mafia Theo nhà sử học Ronald L. Morris, cuộc hội ngộ mang tính quyết định giữa giới nhạc sĩ Jazz và Mafia là vào những năm 1920. Đây là thời điểm chính quyền tổng thống Woodrow Wilson ban hành Lệnh Cấm Rượu (1920-1933), bị cáo buộc là nguồn cội của mọi tệ nạn xã hội, khiến các quán rượu và tụ điểm hội hè bị đóng cửa, kết thúc thời kỳ hoàng kim một thế hệ Mafia tại New Orleans. Các nhóm tội phạm cùng những người chơi nhạc Jazz rời Storyville đi về phía bắc đến New York, Chicago, Kansas City… Họ sắp xếp lại hoạt động về đêm dọc theo các tuyến đường buôn rượu với sự tiếp tay của giới chức địa phương, và nhiều nghị sĩ Mỹ. Một thế hệ mới các ông trùm băng đảng gốc Ý, Do Thái hay Ireland ra đời, trong số này phải kể đến Al Capone, Alcatraz hay Dutch Schulz…    Đam mê mãnh liệt nhạc Jazz cùng với sự táo bạo trong cách tổ chức và quản lý thế giới ngầm, thế hệ tội phạm mới này đã tái hiện các đêm nhạc với những câu lạc bộ tiện nghi, vui nhộn hơn, mở cửa cho tất cả các thành phần, và do vậy, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ mới của thời kỳ hậu chiến. Tại các cơ sở mới này, nhạc cũ lỗi thời nhường chỗ cho Jazz thống trị với sự xuất hiện của những nhạc sĩ trẻ tài năng : Sydney Bechet, Bessie Smith, Earl Hines, Duke Ellington… Trong một chương trình trên đài France Culture (15/05/2024), Jacques B. Hesse, nhạc sĩ đại vĩ cầm, dịch giả tập sách của nhà xã hội Ronald L. Morris, giải thích : « Luận điểm của Ronald L. Morris rất đơn giản. Ông ấy nói rằng giới tội phạm đã góp phần phát triển nhạc Jazz không chỉ bằng cách cung cấp cho các nhạc sĩ Mỹ sự bảo vệ về mặt xã hội và pháp lý, họ còn trả phí luật sư cho các vụ ly hôn, viện phí và tang lễ cho người thân của các nhạc sĩ. Họ còn giúp các nhạc sĩ mua xe trả góp, với mức hoàn trả từ 5 đến 7 đô la một tuần. » Jazz – Mafia : Mối quan hệ ràng buộc Steven Jazo-Vannier trong tập sách viết : « Mối liên kết lâu dài này được hung đúc, neo giữ sâu đậm cứ như một sự phụ thuộc lẫn nhau, hợp nhất hai mặt của một thế giới về đêm (…) ».  Jacques B. Hesse nhắc tiếp nhận định của Ronald L. Morris : « Bằng cách sử dụng các dàn nhạc có hợp đồng dài hạn từ một đến ba năm trong các hộp đêm và câu lạc bộ nhạc Jazz của mình, các băng đảng Mafia đã khuyến khích sự trưởng thành trong phong cách riêng của từng dàn nhạc, phân biệt phong cách của Duke Ellington với phong cách của Cab Calloway ». Thế nên, mới có giai thoại rằng, Al Capone, một trong những trùm Mafia lớn, đam mê âm nhạc, có cảm tình đặc biệt với một nhạc sĩ : Fats Waller. Trong tập sách Music Connection, Steven Jazo-Vannier thuật lại rằng, người nghệ sĩ dương cầm, kiêm ca sĩ này, một đêm, vào cuối buổi trình diễn, người ta bịt mắt ông dẫn đến một nơi bí mật. Khi đến nơi, ông thấy một cây đàn piano, họ đẩy ông về phía cây đàn rồi bảo « Hãy đến chơi đàn đi ! ». Ông không biết nơi đó là ở đâu, nhưng khi nghe tiếng cười giữa đám đông, ông nhận ra tiếng cười nổi tiếng của Al Capone, người đã chọn Fats Waller chơi nhạc cho đêm tiệc của mình với bạn bè và khách mời. Mafia cung cấp việc làm, và sự bảo vệ nhưng cũng rất chiếm hữu. Ca sĩ Lena Horne, bắt đầu ca hát rất sớm tại Cotton Club, với mức lương nghèo đói : 25 đô la một tuần. Hợp đồng trọn đời ngăn cản cô rời Cotton Club. Mọi nỗ lực thương lượng của cô kết thúc trong bạo lực. Để giải thoát cho cô, gia đình ra một quyết định táo bạo : Bắt cóc cô và bỏ trốn ngay giữa đêm cho đến tận Philadelphia. Tại đây, Lena Horne bắt đầu sự nghiệp mới và sau này trở thành nữ diễn viên người Mỹ gốc Phi đầu tiên ký hợp đồng với MGM. Sự im lặng Nếu như phần lớn giới nghệ sĩ gìn giữ một quy tắc bất thành văn : Ba Không – Không nghe, Không thấy, Không nói – để đổi lấy sự bảo trợ của Mafia, thì Frank Sinatra, nhân vật hiếm có công khai thừa nhận về mối liên hệ với tay trùm Lucky Luciano, đến từ cùng một làng với gia đình Sinatra ở Sicilia. Thế giới Jazz muôn sắc muôn mầu, vô vàn giai thoại. Danh sách các nhạc sĩ bị lệ thuộc vào Mafia dài vô tận, trong số này nhiều gương mặt điển hình từ Louis Amstrong, Dexter Gordon, Stan Getz, cho đến Billie Holiday hay Chet Baker… Các băng đảng Mafia không chỉ sở hữu các hộp đêm, phòng nhạc nổi tiếng, mà sau này họ còn trở thành các nhà tuyển dụng, nhà quản lý và sản xuất các nhạc sĩ, sở hữu họ, những người nhạc sĩ và âm nhạc của họ. Mafia thâm nhập vào mọi cấp độ sáng tạo âm nhạc có lợi nhuận. Đối với Earl Hines, trong những năm 1940 chẳng còn chút nghi ngờ, « các băng đảng đã làm cho ngành kinh doanh âm nhạc phát đạt » hơn bao giờ hết !   (Nguồn France Musique, France Culture)
Thương hiệu thời trang cao cấp Phan Huy gần đây mang đến Paris một buổi trình diễn thời trang đầy sáng tạo và độc đáo, bên lề Tuần lễ thời trang Haute Couture Paris Thu Đông (07-10/07/2025) với những hương sắc của đồng quê, những hương vị dân gian, của nông thôn Việt Nam, nhưng không hề thiếu đi tính chất haute couture, tính cao cấp, về mặt kỹ thuật thủ công tinh xảo đến từng chi tiết. Các bộ trang phục của Phan Huy được giới mộ điệu thời trang ở Paris biết đến trong những năm vừa qua, nhưng đây là lần đầu tiên nhà thiết kế người Việt đến Paris để giới thiệu về bộ sưu tập với tựa đề « Trưa hè oi ả », được trình diễn tại Palais de Tokyo vào ngày 07/07 vừa qua. Những chất liệu sáng tạo đến từ bản sắc Á Đông, nhưng không bị gò bó bởi những hình ảnh truyền thống, mà hòa quyện, lan tỏa tính truyền thống, trong thế giới thời trang mang tính hiện đại, của tương lai. Nhân sự kiện này, RFI đã có dịp trao đổi với nhà thiết kế 26 tuổi về thời trang và hành trình đưa tên tuổi của anh đến các sự kiện quốc tế. RFI : Xin cảm ơn nhà thiết kế Phan Huy đã dành thời gian chia sẻ với RFI. Trước khi nói về bộ sưu tập mới nhất và về thương hiệu của mình, Huy có thể giới thiệu về cách mà mình đã đến với thời trang và sáng lập ra thương hiệu của riêng mình ? Phan Huy : Cũng giống như bao nhiêu bạn sinh viên hoặc những người bắt đầu vào ngành thời trang, tôi đã học Đại học kiến trúc thành phố Hồ Chí Minh chuyên ngành thiết kế thời trang và trong quá trình học thì cũng tích góp những kinh nghiệm về thực tế cũng như về học tập, và sau đó đã bắt đầu thực hiện bộ sưu tập tốt nghiệp của mình. Điều rất là may mắn cho tôi là bộ sưu tập tốt nghiệp được rất nhiều người chú ý và có thể dùng từ là hơi bùng nổ mạng xã hội ở Việt Nam và đó là một tiền đề rất tốt và tôi rất trân trọng, vì ngay từ khi bắt đầu, đã có rất là nhiều khách hàng đến với Huy và từ đó tôi sáng lập ra công ty thiết kế thời trang Phan Huy.  RFI : Sau gần 3 năm thành lập, triết lý sáng tạo thời trang của Phan Huy là gì ? Phan Huy : Khi tôi thực hiện các thiết kế của mình thì tôi luôn nghĩ đến một cái chữ, đó là Purism -  chủ nghĩa thuần khiết. Thuần khiết ở đây là thuần khiết trong ý tưởng, cũng như trong chất liệu, hay là thuần khiết về tất cả mọi mặt mà tôi muốn hướng đến.  Tôi cũng muốn những thiết kế của mình mang một cái cảm xúc rất là thuần khiết, với những hình ảnh thiết kế ra có thể khiến cho mọi người nhìn thấy và yêu thích nó, từ ý tưởng đến mặt thẩm mỹ trong mỗi thiết kế của mình.  Tôi luôn tin là thời trang cũng là một môn nghệ thuật và điều quan trọng nhất của một bộ môn nghệ thuật chính là truyền tải được một cái cảm xúc đến cho khán giả cũng như đến cho người mặc. Nói thật là tôi cũng đã rất nhiều lần cảm thấy xúc động khi nhìn thấy những thiết kế vì vẻ đẹp của nó. Cho nên tôi cũng muốn tạo ra những cái thiết kế như vậy để khi khách hàng của mình hoặc những khán giả của mình xem, họ nhìn thấy và họ cảm thấy có những cảm xúc rất là lớn trong lòng.  RFI : Sau 5 bộ sưu tập trước, hầu hết đều lấy cảm hứng về thiên nhiên, với những chất liệu quen thuộc đối với Việt Nam, thì về bộ sưu tập mới nhất của Phan Huy, khán giả tại Palais de Tokyo có thể thấy qua 36 bộ trang phục là những hình ảnh quen thuộc, từ những chiếc nón lá che mưa, từ những chiếc quạt lá dứa hay là từ lưới đánh cá hay những tờ lá chuối khô, tất cả những chất liệu đó đến từ nông thôn Việt Nam, từ những cái màu sắc của đồng quê Việt Nam. Bạn có thể chia sẻ thêm về những lựa chọn của mình ?   Phan Huy : Những bộ sưu tập khác của tôi đa số đều đều lấy cảm hứng từ Việt Nam, thì lần này tôi sẽ lấy những cảm hứng khiến nó hiện đại hơn. Bộ sưu tập tốt nghiệp của tôi, diễn tả một cảnh đồng quê và quay trở lại tuổi thơ. Khi chế tác bộ sưu tập đó, tôi nhận được những phản hồi rất là xúc động. Có những anh chị ở  nước ngoài nhắn là đã xa quê Việt Nam rất lâu, và khi nhìn bộ sưu tập của Huy, người ta thấy được tuổi thơ của họ và cảm thấy rất là nhớ Việt Nam, nhớ cảnh đồng quê và điều đó thôi thúc bản thân làm một bộ sưu tập tiếp theo có thể mang một cái ý tưởng tương tự như bộ sưu tập tốt nghiệp, ngoài cảnh hoàng hôn trên cảnh đồng. Đó là một hình ảnh Huy rất là yêu, là những buổi trưa hè, lúc nhỏ, mình ngủ dậy mình được ông bà mình đánh thức dậy và mình nằm trên võng đong đưa và mình cảm nhận mọi thứ xung quanh rất là chân thật, rất là dễ thương.  Từ hình ảnh nón lá, từ những vật dụng rất nhỏ trong gian bếp, trong sân vườn hay là trên cảnh đồng, Huy nghĩ đa số người Việt Nam đều có thể cảm nhận được một cách sâu sắc, vì đó là tuổi thơ của hầu hết của những người Việt Nam. Đó là ý tưởng để tôi làm ra bộ sưu tập và tôi cảm thấy rất hạnh phúc khi biết điều này có thể mang lại rất nhiều cảm xúc cho rất nhiều người tha hương, hoặc cho những người ngay trên chính Việt Nam nhưng muốn nhìn lại tuổi thơ.  RFI : Trong quá trình sáng tạo đấy, có chất liệu nào mà mình cảm thấy khó xử lý trong thiết kế nhưng mà vẫn quyết tâm khai thác không ?  Phan Huy : Trong bộ sưu tập lần này, tôi đã chọn những nước đi mạo hiểm hơn. Bên cạnh yếu tố về xử lý chất liệu là thế mạnh của thương hiệu, tôi muốn phát triển thêm về kỹ thuật may đo. Trên một trang phục, thường chúng ta sẽ cần rất là nhiều những đường ben, đường gập để tạo ra được một form dáng ôm sát vào cơ thể của người phụ nữ.  Nhưng tôi đã chọn cách là sẽ triệt hết tất cả những đường ben đó, và điều này yêu cầu một cái kỹ thuật cao hơn, vì mình phải dựng một cái form dáng rất là chắc chắn như là điêu khắc trong cơ thể người phụ nữ, sau đó đặt một tấm vải lụa hoặc những chất liệu rất mềm lên trên và người thợ phải vuốt thủ công rất là nhẹ nhàng và tạo hình nó để không có một đường ben hay là một đường cắt nào trên đó.  Đọc thêmSteven Đoàn : Nhà tạo mẫu đưa thời trang Việt đến thảm đỏ LHP Cannes RFI :  Phan Huy có thể chia sẻ với quý thính giả một kỹ thuật hay công nghệ nào mà Phan Huy sử dụng để tái hiện những chất liệu đấy ?   Phan Huy : Trong bộ sưu tập lần này, tôi cũng đã tạo nên một số chất liệu mới bằng cách thủ công. Ví dụ, có một thiết kế mà tôi đã dùng những cái hạt cườm để đan vào nhau giống như kỹ thuật đan lát của truyền thống của Việt Nam nhưng sử dụng nó một cách sáng tạo hơn, thời trang hơn, đó là mình dùng những hạt cườm và đan nó thành một chất liệu mới. Tôi đã dành gần 3 tháng để tạo ra được thiết kế đó.  RFI :  Khi lựa chọn là thiết kế không chỉ cho thị trường Việt Nam mà hướng đến cả thị trường quốc tế, thì trong các bộ trang phục của mình, Phan Huy có phải điều chỉnh bất cứ điều gì về hình dáng chất liệu hay cách kể chuyện về thời trang, ngôn ngữ kể chuyện thời trang của mình có gì phải thay đổi không ?  Phan Huy : Đối với thương hiệu Phan Huy, hiện tại khách hàng của Phan Huy đến từ rất nhiều nơi trên thế giới. Ví dụ như là Qatar, Dubai, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất hoặc các thị trường như Mỹ, New York, hay là châu Âu và cả châu Á như là Hồng Kông hoặc Singapore. Trong quá trình hành nghề và tiếp xúc với rất nhiều khách hàng đến từ mọi nơi, tất nhiên mỗi nước có những đặc trưng khác nhau mà mình cần phải linh động điều chỉnh cho phù hợp. Ví dụ như những nước đến từ Trung Đông thì họ sẽ cần sự kín đáo hơn.  Trong quá trình thực hiện, Huy sẽ cần thêm những vải lót, những chất liệu lót hoặc cách đính của mình nó sẽ phải che phủ như thế nào để họ có thể thoải mái khi mặc. Ví dụ như khách hàng ở New York, Mỹ hoặc Châu Âu thì thường họ rất thích những thiết kế có tính sáng tạo cao và họ chưa bao giờ được thấy, chưa bao giờ được thử ở các thiết kế, nhà thiết kế khác.  RFI : Vậy thì đối với thị trường ở Pháp và Paris nói riêng, đâu là những điểm mà Phan Huy chú ý đến ?  Phan Huy : Thật sự thị trường châu Âu là một thị trường khó tính, vì đây chính là một cái nôi của thời trang. Có rất nhiều nhà thiết kế đến từ khắp nơi, đến đây để trình diễn bộ sưu tập của họ. Cho nên tất nhiên, sự hoàn thiện về trang phục cũng như thiết kế phải luôn luôn song hành và sáng tạo, phải luôn luôn đảm bảo chất lượng tốt nhất. Do đó, khi thiết kế và trình diễn ở Paris, tôi luôn lo lắng cũng như là tập trung cố gắng. Ngoài ra, mình cần phải có tính sáng tạo và signature (tính riêng biệt) trong thiết kế, rất là đặc trưng để mọi người có thể nhận diện được thương hiệu giữa rất nhiều các thương hiệu đến đây để trình diễn.  Thứ hai là về mặt kỹ thuật và việc hoàn thiện các trang phục, tôi cũng luôn cố gắng để cho mọi thứ được đẹp nhất, chỉnh chu nhất và cũng luôn cố gắng học hỏi từ những nhà thiết kế có những cái đường cắt may rất là đẹp, hoặc là những cách tạo phong cách rất đẹp đến từ Pháp hay là đến từ mọi nơi trên thế giới.  RFI : Qua bộ sưu tập vừa rồi và qua cách tiếp cận thời trang của Phan Huy, bạn có đã từng đặt ra câu hỏi là làm sao mình có thể cân bằng giữa việc giữ gìn bản sắc văn hóa và để tạo ra những cái thiết kế mang tính quốc tế, nhưng vẫn phù hợp với xu hướng toàn cầu hay không ? Phan Huy : Khi mọi người nhìn vào trang phục của tôi thì có thể cảm nhận được tính truyền thống, nhưng nó không cũ mà có sự sáng tạo. Có một nhận định của một vị khách mà tôi cảm thấy rất là hay: “Khi nhìn vào các thiết kế của Huy thì cảm giác như là cái sự hòa hợp giữa hai phong cách và tính truyền thống của Việt Nam. Nó giống như là một người con gái đến từ tương lai và quay trở về quá khứ, quay trở về thời gian và có những tinh hoa của bản sắc Việt Nam để mang đến với tương lai và dùng những kỹ thuật của tương lai để tạo ra những trang phục”.  RFI : Trên chặng đường thời trang của Phan Huy, đâu là thách thức, là khó khăn lớn nhất mà bạn đã, đang và có thể là sẽ gặp phải ?  Phan Huy : Thực ra chặng đường đến với thời trang của tôi khá yên bình. Để nói về những khó khăn mà tôi đã gặp phải thì tôi nghĩ đây là những khó khăn chung mà nhà thiết kế nào cũng có thể sẽ phải đương đầu. Ví dụ như là yếu tố kinh doanh, tiếp cận khách hàng, có những khoảng thời gian, tôi cũng sẽ rất là loay hoay về việc kinh doanh của mình.  Mình phải cân bằng được làm sao để có nguồn thu cho thương hiệu thì mới có thể sáng tạo những bộ sưu tập tiếp theo. Hoặc là những khó khăn về lực lượng sản xuất của mình. Những
Lãnh đạo của Phật giáo Tây Tạng Đạt Lai Lạt Ma đã mừng thọ 90 tuổi hôm 06/07 vừa qua và tuyên bố sẽ tái sinh, tiếp nối truyền thống hàng ngàn năm ở Tây Tạng trong một thế giới tự do, xoá bỏ những nghi ngờ rằng ngài sẽ là vị Đạt Lai Lạt Ma cuối cùng. Việc chọn người tiếp nối Đạt Lai Lạt Ma, một vấn đề tâm linh trong Phật Giáo Tây Tạng, đã trở thành vấn đề chính trị khi Trung Quốc “phi tôn giáo” muốn can thiệp, tự chọn người kế vị. Với tên khai sinh là Tenzin Gyatso, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 là vị lãnh đạo Phật giáo Tây Tạng hưởng thọ lâu nhất từ 600 năm qua, qua các đời Đạt Lai Lạt Ma. Tự mô tả mình là một “nhà tu hành đơn thuần,” Đạt Lai Lạt Ma được hàng triệu tín đồ tin theo, tôn thờ ông như là một vị Phật sống, là người bảo hộ cho vùng đất thiêng. Ông đã phải sống lưu vong, rời khỏi quê hương vào những năm 1950, khi Trung Quốc tiến hành cuộc đàn áp quân sự, nhằm kiểm soát khu vực này. Đạt Lai Lạt Ma trở thành biểu tượng của khát vọng tự do, của hòa bình, dù bị Bắc Kinh coi là kẻ ly khai. Vài ngày trước khi bước sang tuổi 90, ông đã dập tắt những đồn đoán cho rằng mình là vị Đạt Lai Lạt Ma cuối cùng, tuyên bố sẽ có người kế nhiệm khi ông qua đời. Văn phòng của Đức Đạt Lai Lạt Ma chỉ đạo việc tìm kiếm và công nhận người kế nhiệm theo truyền thống lâu đời trong Phật giáo Tây Tạng.  Trong Phật Giáo Tây Tạng, tái sinh những tulku là những cao tăng giác ngộ, và họ lựa chọn quyết định tái sinh để tiếp tục phụng sự chúng sinh. Sau khi chết, tâm thức sẽ chuyển sang một thân xác mới. Đối với Đạt Lai Lạt Ma và Ban Thiền Lạt Ma (Panchen Lama), hai cao tăng có chức vị cao nhất, việc tái sinh của họ được quy định rõ ràng. Để tìm ra người được tái sinh, đầu tiên phải dựa trên những dấu hiệu, những điều đã được tiên tri, những điềm báo và một loạt bài kiểm tra, ví dụ như xem đứa trẻ có phản ứng với những vật dụng của người tiền nhiệm hay không. Liên quan đến sự can thiệp của Trung Quốc, cách nay 30 năm, vào năm 1995, Đạt Lai Lạt Ma đã công nhận Gedhun Choekyi Nyima là hiện thân của Ban Thiền Lạt Ma thứ 11. Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau, hiện thân của cao tăng này, lúc đó 6 tuổi, đã bị bắt cóc, và từ đó cho đến nay vẫn chưa rõ tung tích. Vụ việc được cho là do chính phủ Cộng Sản Trung Quốc đứng đằng sau. Bởi vài tháng sau vụ "bắt cóc" này, Bắc Kinh đã "tìm ra" hiện thân của Panchen Lama, Gyaltsen Norbu, qua một quá trình được cho là không minh bạch, và về phe chính phủ Trung Quốc. Vị Lạt Ma này không được phía Tây Tạng và Đạt Lai Lạt Ma hiện tại công nhận.  Nếu như tuyên bố sẽ tái sinh của Đạt Lai Lạt Ma được tín đồ hoan nghênh thì, nhiều người lo sợ rằng khi Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 qua đời, Bắc Kinh sẽ tận dụng này để "kiểm soát đức tin", dẫn đến nguy cơ xảy ra kịch bản : một Đạt Lai Lạt Ma thứ 15 được chỉ định theo phương cách truyền thống của Tây Tạng và một người khác được Trung Quốc chỉ định. Để tìm hiểu về truyền thống tái sinh này, cũng như những vấn đề địa chính trị trước sự can thiệp của Trung Quốc, trong mục tạp chí xã hội tuần này, RFI Tiếng Việt đã mời các chuyên gia về Tây Tạng, bà Katia Buffetrille, nhà nhân chủng học, tại trường École Pratique des Hautes Études, và Nicola Schneider, nhà nghiên cứu tại Viện nghiên cứu Văn Minh Á Đông (Centre de recherche sur les civilisations de l’Asie orientale). Cả hai đã nghiên cứu về Tây Tạng từ hơn hai chục năm qua, với nhiều công trình nghiên cứu về nhân chủng học, cũng như tôn giáo. RFI : Đạt Lai Lạt Ma chiếm vị trí như thế nào trong phật giáo Tây Tạng, và tầm quan trọng của tuyên bố về việc ngài sẽ tái sinh được đánh giá như thế nào ? Nicola Schneider : Vào năm 2011, khi người dân Tây Tạng bầu chọn người đứng đầu chính phủ lưu vong và Đạt Lai Lạt Ma quyết định rút khỏi chính trường, trao toàn bộ quyền cho chính phủ này. Trước đó, ông vừa là lãnh tụ tinh thần, vừa là lãnh đạo về mặt chính trị. Năm đó, ông cũng đã tuyên bố khi 90 tuổi sẽ quyết định liệu có tái sinh hay không. Trong suốt thời gian này, hầu hết người Tây Tạng và các tín đồ đều mong muốn ông tái sinh. Đó chính là điều mà ông đã tuyên bố.  Katia Bufetrille : Đối với người dân Tây Tạng, Đạt Lai Lạt Ma được coi là hiện thân của Quan Thế Âm Bồ Tát, của lòng từ bi. Có thể nói, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã minh chứng cho lòng từ bi, nhân ái đó trong suốt cuộc đời mình. Vấn đề tái sinh của ngài không chỉ liên quan đến người dân Tây Tạng, đến Phật tử nói chung, hay liên quan đến tín ngưỡng, bởi vấn đề thuần tuý về tôn giáo đang trở trành vấn đề chính trị do sự can dự của Trung Quốc vào việc chọn người kế nhiệm. Dù đã từ bỏ chính trị, sức hút của Đạt Lai Lạt Mai, đã đi nhiều nơi và gặp nhiều lãnh đạo các nước, dù muốn hay không vẫn bị đặt trên bàn cờ chính trị.  Nicola Schneider : Có thể nói Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 là một trường hợp đặc biệt. Không phải tất cả các đời Đạt Lai Lạt Ma đều có tầm ảnh hưởng quốc tế như ông, dĩ nhiên là vì trước đây thế giới chưa toàn cầu hóa mạnh mẽ như hiện nay. Riêng ảnh hưởng vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, thông qua việc lên tiếng vì hòa bình, lòng từ bi, các giá trị đạo đức mang tính phổ quát, đã vượt ra ngoài phạm vi cộng đồng người Tây Tạng. Ngày nay, hào quang của ông không chỉ trong thế giới Phật giáo, bao gồm cả các quốc gia như Việt Nam, mà còn lan rộng hơn thế nữa. Có thể nói ông là một nhân vật mang tính toàn cầu, thậm chí vượt ra ngoài khuôn khổ của riêng Phật giáo. RFI : Việc Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 rút khỏi chính trường, ủy quyền cho chính phủ Tây Tạng lưu vong liệu có phải là cách để dần tách tôn giáo khỏi chính trị ? Katia Buffetrille :  Đó là một quyết định có chủ đích, nhằm xây dựng một nền dân chủ cho người Tây Tạng. Ông cho rằng mô hình cũ không còn phù hợp, đặc biệt trong hoàn cảnh lưu vong. Điều đáng nói là ông không hề được giáo dục theo tư tưởng dân chủ phương Tây, nhưng lại là người chủ động thúc đẩy dân chủ. Dù ngay từ đầu ông đã phải đối mặt với nhiều chống đối trong nội bộ, nhưng ông vẫn kiên định.  Nicola Schneider : Dù chính quyền Tây Tạng lưu vong đã trải qua quá trình thế tục hóa, yếu tố tôn giáo vẫn còn hiện diện trong cơ cấu chính trị. Quốc Hội  Tây Tạng không giống mô hình nghị viện kiểu phương Tây, như ở Pháp, nơi đại biểu được bầu theo đảng phái hoặc khu vực bầu cử thông thường. Tại đây, Quốc Hội gồm cả đại biểu thế tục, được bầu theo ba vùng văn hóa lớn của Tây Tạng: Ü-Tsang (Tây Tạng trung tâm), Kham và Amdo (Tây Tạng phía đông), và 10 đại biểu đến từ các trường phái Phật giáo lớn, phần lớn là tăng sĩ. Trong tổng số 45 nghị sĩ, đây là một thiểu số. Một số người cho rằng điều này cho thấy ảnh hưởng tôn giáo vẫn tồn tại, thậm chí chỉ trích đó là tàn dư của chế độ thần quyền. Nhưng quan điểm này không phổ biến. Nhiều người Tây Tạng lập luận rằng việc có các tăng sĩ trong Quốc Hội là cần thiết: họ không vướng bận đời sống gia đình, có thể dốc toàn tâm toàn lực cho Tây Tạng.  Đọc thêmTìm người kế vị Đạt Lai Lạt Ma: Cuộc đấu sinh tử với Bắc Kinh vì "tự do cho Tây Tạng" RFI : Trung Quốc, đã nhiều lần nhấn mạnh sự tái sinh của Đạt Lai Lạt Ma phải được Bắc Kinh chấp thuận và người tái sinh phải ở trên lãnh thổ Trung Quốc, cho rằng việc tái sinh là vấn đề chủ quyền của nhà nước, việc nội bộ của Bắc Kinh. Vào năm 1995, chính phủ Trung Quốc đã bổ nhiệm một Đức Ban Thiền Lạt Ma trái ngược với Đức Đạt Lai Lạt Ma được công nhận hiện nay. Cụ thể, Bắc Kinh đã tìm cách biến việc tái sinh thành công cụ chính trị, kiểm soát tâm linh Tây Tạng như thế nào ? Nicola Schneider :  Trung Quốc tin rằng nếu kiểm soát được người kế nhiệm Đạt Lai Lạt Ma, họ sẽ gia tăng ảnh hưởng. Nhưng đó là điều phi lý, bởi Trung Quốc là một chính quyền Cộng sản, vốn theo chủ nghĩa vô thần. Một nhà nước vô thần sao lại đặt ra luật lệ về tái sinh, tức là những quy định tôn giáo, và áp đặt chúng lên một dân tộc không phải người Trung Hoa, có văn hóa và tín ngưỡng riêng biệt? Trung Quốc ngày nay đã tự tạo ra một bộ quy tắc riêng để xác định hóa thân tiếp theo của Đạt Lai Lạt Ma. Họ biện minh điều này dựa trên tiền lệ lịch sử. Đúng là từng có một số trường hợp trong quá khứ, nhưng đó không phải là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa như ngày nay. Đó là thời nhà Thanh, triều đại của người Mãn, vốn không phải người Trung Quốc. Người dân Tây Tạng vẫn luôn nhấn mạnh, cũng như Đạt Lai Lạt Ma đang cố gắng truyền đạt trên trường quốc tế rằng quyền quyết định tái sinh phải thuộc về người Tây Tạng, bởi đây là Phật giáo của họ, là văn hóa và bản sắc của họ. Không ai từ bên ngoài có thể áp đặt điều đó.  Katia Buffetrille : Chính quyền Trung Quốc đã sử dụng “Chiếc bình vàng”, một nghi thức do hoàng đế Mãn Thanh Càn Long thiết lập vào thế kỷ 18 để chọn ra một ứng viên Đạt Lai Lạt Ma thông qua hình thức bốc thăm. Tuy nhiên, theo một nhân chứng từng có mặt tại đền Jokhang vào thời điểm đó và sau này đã trốn thoát, việc bốc thăm không hề minh bạch, vì một trong các thẻ bốc có gắn que dài hơn, giúp dễ dàng nhận ra. Điều này đặt ra nghi vấn nghiêm trọng về tính công bằng và hợp pháp của nghi thức. Sự can thiệp của Trung Quốc rất mạnh mẽ, như việc Bảo tàng Guimet (Paris), bảo tàng nghệ thuật châu Á lớn nhất châu Âu, đã loại bỏ từ “Tây Tạng” khỏi các triển lãm, thay bằng cụm mơ hồ như “Himalaya và vùng đất Tuyết” trong một cuộc trưng bày về nhà Đường. Nhiều người cho rằng việc này nhằm chiều theo yêu cầu của Bắc Kinh. Đây là điều nghiêm trọng, vì nó cho thấy Trung Quốc đang ảnh hưởng đến cách kể lại lịch sử và văn hóa, ngay cả tại các bảo tàng quốc gia. Chiến lược này không chỉ giới hạn ở châu Âu : tại Việt Nam, Nepal và Bhutan, Bắc Kinh cũng gây áp lực để các nước này dùng từ “Xizang”(phiên âm Hán ngữ của “Tây Tạng”) thay vì “Tibet”, giống như thể ta gọi “France” là “Faguo” theo cách Trung Quốc, trong khi rõ ràng đó không phải là cách gọi của người bản địa. RFI : Tại một thế giới ngày càng bị chia rẽ, các nước tranh nhau giành ảnh hưởng, vai trò của người kế nhiệm Đạt Lai Lạt Ma sẽ ra sao ? Truyền thống tái sinh và vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 15 có thể được duy trì, hay sẽ chấm dứt vòng luân hồi ? Nicola Schneider : Việc tái sinh của Đạt Lai Lạt Ma ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống người Tây Tạng. Tuy nhiên, sau khi một Đạt Lai Lạt Ma qua đời, quá trì
Với ngòi bút thấm đẫm chất thơ trong từng câu văn, Nguyễn Phan Quế Mai đã đưa hai sáng tác đầu tay của mình ra thế giới qua hai cuốn The Mountains Sing và Dust Child, được viết bằng tiếng Anh và được dịch ra hơn 20 thứ tiếng. Lối kể chuyện giản dị nhưng có chiều sâu nhân văn của nữ tác giả người Việt, trong việc khơi dậy ký ức tập thể về chiến tranh Việt Nam đã được đánh giá cao trên văn đàn quốc tế. “Nếu những câu chuyện của chúng ta còn được kể lại, thì ta sẽ không chết dù thân xác có tan biến khỏi mặt đất này.” Đó là những dòng đầu tiên trong cuốn The Mountains Sing (Sơn Ca) của tác giả Nguyễn Phan Quế Mai nhắc nhớ rằng: ký ức là một hình thức tồn tại. Khi những câu chuyện còn được lắng nghe, quá khứ vẫn có thể sống tiếp, chính văn chương, là cây cầu kết nối hai điều đó. Trong hai cuốn tiểu thuyết đầu tay của The Mountains Sing (Sơn Ca) và Dust Child (Bí mật dưới tán cây bồ đề), được viết bằng tiếng Anh, Nguyễn Phan Quế Mai trao lại tiếng nói cho những con người từng bị lịch sử bỏ quên: những phụ nữ, nông dân, trẻ em lai, cựu chiến binh. Chị viết về những vết thương mà chiến tranh để lại, nhưng đồng thời cũng viết về những mảng ký ức của những cá nhân, đại diện cho cả tập thể, được truyền lại, viết về sức mạnh của lòng kiên cường và hành trình đi tìm công lý. Về cuốn Sơn Ca, một câu chuyện nhiều lớp nhiều tầng, kể về nhiều thế hệ gia đình nhà họ Trần, Oprah Magazine nhận xét nữ tác giả người Việt, là một « thi sĩ gợi dậy lịch sử và định mệnh qua một thiên truyện lấp lánh ánh sáng, vang vọng qua nhiều thế hệ, nơi một gia đình đối diện với những vết hằn tinh thần còn in đậm sau chiến tranh. » Đọc thêmNhững gương mặt Việt Nam nổi bật trên văn đàn người Mỹ gốc Á Trang Washington Post đưa cuốn The Mountains Sing vào danh sách các tác phẩm không thể bỏ lỡ, vì « mang khí chất của một bậc thầy kể chuyện, trầm tĩnh, chặt chẽ, nhưng vẫn chất chứa hồn thơ, đầy nhạy cảm, tinh tế, và vang vọng ».  The New York Time thì coi đó là « một bản trường ca gia đình ám ảnh, nơi những tiếng nói từng bị lịch sử bỏ quên, đặc biệt là tiếng nói của những người mẹ, người chị, được đặt ở vị trí trung tâm, với tất cả vẻ đẹp mong manh và sức mạnh bền bỉ ».  Cuốn Sơn ca, bản dịch sang tiếng Pháp Pour que les montages chantent vừa đoạt giải Tiểu thuyết hay nhất Do độc giả của NXB Points bình chọn. Ngoài ra, cuốn thứ hai Dust Child - Là où fleurissent les cendres, vế số phận của những đứa con lai tại Việt Nam, cũng đoạt giải Tác phẩm Văn học nước ngoài được đánh giá cao nhất trong 12 tháng qua tại Pháp, trong khuôn khổ giải Créteil en Poche 2025, hội sách diễn ra vào cuối tuần vừa qua tại vùng ngoại ô Paris. Hôm 28/06, RFI Tiếng Việt rất hân hạnh, được trò chuyện với nhà văn, nhà thơ, tiến sĩ Nguyễn Phan Quế Mai, để cùng nhìn lại hành trình sáng tác của chị, khám phá những đề tài mà chị đề cập đến, từ góc nhìn của những người nhỏ bé nhất. Trước tiên, điều gì đã thôi thúc chị bắt đầu viết văn, và tại sao chị lại chọn sáng tác cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình bằng tiếng Anh chứ không phải tiếng mẹ đẻ?  Nguyễn Phan Quế Mai :Tôi viết hai cuốn tiểu thuyết này trong chương trình thạc sĩ và tiến sĩ của tôi với trường Đại học Lancaster của Anh. Vì là một phần trong nghiên cứu sáng tác, cho nên tôi cũng trực tiếp sáng tác bằng tiếng Anh. Việc này cũng khá khó khăn tại vì tôi sinh ra tại Ninh Bình, nhưng lớn lên ở Bạc Liêu, đồng bằng sông Cửu Long. Trường của tôi ngày xưa không có giáo viên dạy tiếng Anh, nên chỉ vào lớp 8 tôi mới bắt đầu học tiếng Anh. Tôi cũng đã viết tám quyển sách bằng tiếng Việt. Trước đây, tôi cũng đã dịch rất nhiều bài thơ từ tiếng Việt sang tiếng Anh của các nhà thơ khác nhau như Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Trọng Tạo, Trần Quang Quý, Hữu Thỉnh,... Tôi đã từng tìm kiếm một tiểu thuyết để dịch cho đến một ngày tôi nghĩ tại sao mình không tự viết tiểu thuyết. Đó là một hành trình khá điên rồ, khi bắt tay vào sáng tác bằng tiếng Anh và bắt tay vào sáng tác tiểu thuyết Sơn Ca. Tôi nghĩ là đối với một nhà văn thì công việc của mình là đọc và học, thử sức mình ở những lĩnh vực khác nhau. Tôi muốn đưa những câu chuyện của Việt Nam ra với bạn bè thế giới và tôi muốn mời bạn đọc quốc tế đến với Việt Nam thông qua văn học.  Qua hai cuốn sách của chị, độc giả có thể thấy rằng có rất nhiều từ tiếng Việt,  được giữ nguyên, có cả dấu, và không được chú thích. Từ những vật dụng như chiếc phản, đến cây phượng, cây bằng lăng, cho đến các câu ca dao dục ngữ "lá lành đùm lá rách", "còn nước còn tát"... Theo chị, liệu đây có phải là một thách thức, làm sao để trung thành với tiếng mẹ đẻ của mình và làm sao có thể tiếp cận độc giả quốc tế ? Nguyễn Phan Quế Mai :Thực ra, trước khi ra mắt hai quyển sách bằng tiếng Anh này, tôi đã có một tập thơ mà tôi dịch cùng với một cựu chiến binh Mỹ, được xuất bản ở Mỹ. Theo luật xuất bản quốc tế thông thường, tên của mình không có dấu, tức là tên tôi không còn Quế Mai nữa mà thành Que Mai. Sau đó, tôi học chương trình thạc sĩ và tiến sĩ, tôi đọc rất nhiều những bài viết hay những quyển sách của những các nhà văn đi trước và họ nói về việc phản kháng lại sự áp đặt trong văn học và tôi thấy việc mình không dùng dấu tiếng mẹ đẻ của mình để làm cho dễ đọc, dễ nhìn hơn với những người phương Tây, đó là cách mình bị áp đặt. Tức là mình phải thay đổi ngôn ngữ của mình để làm vừa lòng vừa tai của họ. Do đó, tôi nói với nhà xuất bản là tôi muốn tất cả tên của tôi, tên các nhân vật, cũng như tất cả từ tiếng Việt, phải được giữ dấu trong các tác phẩm bằng tiếng Anh, dù có phải bán ít sách hơn. Một là tôi muốn tôn trọng ngôn ngữ của mình. Thứ hai, tôi muốn mời độc giả đến với Việt Nam bằng cách trân trọng văn hóa của mình, sự phong phú trong ngôn ngữ của mình. Và tôi nghĩ là đã đến lúc chúng ta thay đổi việc này. Hãy trả lại con dấu của tiếng Việt. Đừng để chúng ta bị áp đặt như thế. Chiến tranh Việt Nam đã được kể nhiều, nhưng phần lớn là từ góc nhìn của người nước ngoài, nhất là trong điện ảnh và văn học Mỹ. Theo chị, điều gì còn thiếu trong cách thế giới hiểu về chiến tranh Việt Nam và văn chương có thể làm gì để thay đổi điều đó?  Nguyễn Phan Quế Mai :Tôi đã nhận được rất nhiều thư của các độc giả. Họ là những người đã xem rất nhiều bộ phim Hollywood về Việt Nam hoặc đọc nhiều sách rất nổi tiếng của các tác giả nước ngoài viết về Chiến tranh Việt Nam. Họ nói với tôi rằng họ rất trân trọng khi mà câu chuyện được kể bởi những người phụ nữ và bởi những đứa trẻ. Ví dụ như trong cuốn Sơn Ca, nhân vật chính là một em bé 12 tuổi, tên Hương. Em ấy phải trải qua rất nhiều sự kiện lịch sử từ những năm 1960 cho đến thời hiện đại. Hương được vực dậy bởi sức mạnh của người bà. Người bà, tên Diệu Lan của em kể những câu chuyện về gia đình mình, để em có thể có thêm sức mạnh để sống sót qua chiến tranh. Tôi muốn nói về những người bình thường, tự nhiên, cuộc sống của họ bị phá tan bởi chiến tranh, không chỉ bởi chiến tranh mà bởi những sự kiện lịch sử. Ví dụ như cải cách ruộng đất, hay là nạn đói năm 1945 hoặc những biến đổi về kinh tế, xã hội, đã gây ra hậu quả cho gia đình của họ. Tiểu thuyết thứ hai của tôi, Bí mật dưới tán cây bồ đề (Dust Child) viết về những thân phận của những người con lai Mỹ ở Việt Nam. Tôi muốn kể một câu chuyện cùng với số phận của những người con lai. Tôi muốn nói về thân phận của những người con gái trong trắng tại sao trong những hoàn cảnh nào đưa đẩy buộc họ phải làm cho những quán bar và buộc họ phải bán thân và sự đau đớn, sự dày vò của họ như thế nào khi họ phải cho đi những đứa con của mình và sau này họ đã làm lại cuộc đời của mình như thế nào. Phải chăng theo chị, viết về chiến tranh là một cách không chỉ để kể lại nỗi đau, kể về những vết thương chiến tranh, mà còn là một cách để chữa lành và thậm chí là để đòi công lý? Nguyễn Phan Quế Mai :Đúng vậy, tiểu thuyết Sơn Ca chẳng hạn, tôi khôn chỉ viết về chiến tranh Việt Nam, mà tôi viết cả về cuộc xâm lược của Pháp, của Nhật, rồi nạn đói năm 1945 những gì mà người Việt chúng ta đã gây ra cho nhau. Khi tôi kể về nạn đói năm 1945, tôi đã tiểu thuyết hóa cái chết của bà nội tôi, là một người nông dân hiền lành ở Ninh Bình và khi mà nạn đói quét qua làng, anh của bà cũng chết vì đói, sau đó là một người con trai của bà. Lúc đó, bố tôi và cô tôi đói lả đi và sắp chết, bà tôi đi tìm thức ăn cho con mình, đi vào một cánh đồng ngô và bẻ trộm ngô để đem về cho con ăn. Người trông coi cánh đồng ngô đó bắt được và trói bà tôi vào những cái cây ngô. Bình thường, khi bị trói vào một cây ngô, thì mình có thể bước ra, đi về được nhưng mà bà tôi lúc đó đói quá, đã chết ngay trên cánh đồng ngô. Sau này nghe kể lại, tôi rất là căm hận người đã gây ra cái chết của bà và tôi đã sáng tác ra một nhân vật rất độc ác trong câu chuyện. Tôi muốn trả thù, tôi muốn những điều khủng khiếp nhất sẽ giáng xuống đầu ông ấy và gia đình ông ấy. Nhưng mà khi tôi viết câu chuyện này thì tôi tìm ra cách kết thúc câu chuyện là sự tha thứ. Tôi nghĩ nếu chúng ta học được sự tha thứ, thì cái trái đất này sẽ được an nhiên hơn, sẽ có được hòa bình nhiều hơn. Nếu con người học cách hiểu nhau hơn, học cách thương yêu nhau hơn thì một ngày nào đó chúng ta không hủy diệt nhau như bây giờ và tôi rất đau lòng khi thấy chiến tranh đang xảy ra ở rất nhiều nơi trên thế giới. Về hai cuốn tiểu thuyết này, tôi viết để ca ngợi tình yêu của con người đối với con người. Tôi viết để ca ngợi lòng trắc ẩn trong những thời khắc đen tối nhất. Tôi viết để ca ngợi sự phong phú và vẻ đẹp của văn hóa Việt Nam cũng như là tình yêu của người Việt Nam dành cho gia đình họ. Cải cách ruộng đất, những cái chết vì nạn đói, những đứa trẻ bị bỏ rơi... Đó là những phần ký ức đau đớn, đôi khi bị né tránh. Liệu chị có cảm thấy áp lực khi viết về những điều này không?  Nguyễn Phan Quế Mai :Là một nhà văn viết về lịch sử, tôi nhớ nhà thơ Trần Dần có một câu thơ, mình phải đi trên một cái sợi dây sự thật, giữ thăng bằng rất là khó, nhưng tôi viết về con người, tôi không viết về tôi. Tôi cũng không phải là một người làm chính trị, tôi muốn viết về số phận của những con người và những gì mà người Việt Nam đã phải trải qua
Sau căng thẳng với đại học Harvard, chính quyền của tổng thống Donald Trump dọa sẽ thu hồi thị thực du học của hàng vạn sinh viên Trung Quốc. Chỉ trong mấy tháng đầu của nhiệm kỳ Trump 2, con số sinh viên Trung Quốc và Ấn Độ tìm cách chuyển hướng du học dự định tại Mỹ sang các nước nói tiếng Anh khác tăng lên. Anh Quốc luôn là điểm đến được sinh viên châu Á ưa chuộng, vậy tình hình mới này có giúp các đại học Anh đón sinh viên không muốn hoặc không thể vào Mỹ du học ? Thông tín viên Nguyễn Giang từ Luân Đôn giải thích : "Đầu tiên chúng ta phải nói rõ là xu thế quan tâm tìm chỗ du học ở Mỹ có giảm đi trong năm qua và có tác động của cái gọi là yếu tố “Trump” (Trump factor). Ví dụ trong 12 tháng qua thì có 19,4 triệu lượt tìm kiếm trên kênh du học quốc tế (Studyportals) chú tâm tới các bằng cử nhân và thạc sĩ ở Mỹ, và có 1,7 triệu lượt tìm kiếm vào các đại học ở Anh. Năm trước (2023-2024) thì con số ở Mỹ có cao hơn khá nhiều : 23,8 triệu lượt, so với Anh là 2,01 triệu (nguồn từ trang PoliticHomes ở Anh), tức là sự chú ý với các khóa học ở Mỹ giảm đi 5,5 triệu lượt, một con số cao. Các báo Anh những ngày qua cho hay Anh, sau đó tới Úc và Canada, là các nước đầu bảng để du học sinh Trung Quốc và Ấn Độ hướng tới, khi mà chính sách visa và có thể nói là thái độ căng thẳng của chính quyền Trump vẫn không thuyên giảm với sinh viên quốc tế". RFI tiếng Việt : Nói riêng về sinh viên Trung Quốc, qua quan sát, anh thấy có gì khác về môi trường cho họ tại Anh so với Mỹ và các nước khác ? Thông tín viên Nguyễn Giang : Thứ nhất là về con số, trừ những năm phong tỏa vì Covid, người ta ước tính hàng năm có trên 1 triệu sinh viên Trung Quốc xuất ngoại để du học. Với con số lớn thế này thì những nước có nhiều trường đại học mới đón đủ. Đài Loan thì có vấn đề chính trị ngoại giao với Trung Quốc nên gần đây hạn chế nhận, Singapore thì nhỏ, ít trường và sinh hoạt đắt đỏ, tuy sinh viên Trung Quốc có tăng trong làn sóng sang các nước láng giềng, nhưng không thể nào bằng thị trường du học đại học hoặc trên đại học ở Mỹ và Anh. Thứ nhì là về các ưu thế truyền thống: Anh thì có rất nhiều điểm vượt trội so với cả Úc, Singapore, Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, về số trường đại học đẳng cấp quốc tế, và cả khối trường tư, dự bị đại học (A-level, Sixth Form Colleges), thậm chí trường nội trú từ cấp 2 cho học sinh nước ngoài, nên Anh có thể “bao trọn gói” việc giáo dục từ nhỏ tới trưởng thành và lên cả cấp trên đại học cho bất cứ người nước ngoài nào tới. Và học sinh, sinh viên Trung Quốc rất thích điều này, chỉ có mỗi nhược điểm là học phí ở Anh cao. Ví dụ một trường tư cho nữ sinh dự bị đại học ở Cardiff có giá là 68 nghìn bảng/năm (trên 90 nghìn USD). Học cấp Sixth Form là 2 năm tức là phải chi tới 180 nghìn USD cho một em. Đây là con số rất cao. Còn thì Anh có ngôn ngữ tiếng Anh tiêu chuẩn, được người Trung Quốc sính hơn là giọng Mỹ, Úc, các đại học có nhiều bộ môn phong phú, từ nhạc cổ điển tới nghệ thuật, kiến trúc, các ngành STEM, kinh tế, xã hội, media ... và đều ở trình độ hàng đầu thế giới. Trong 50 trường hàng đầu thế giới được du học sinh Trung Quốc chọn có nhiều trường của Anh như Nottingham, Manchester, University College London (UCL), Edinburgh, Bristol, và King's College London. RFI : Chính quyền Trump cho rằng du học là ngành phải “phục vụ nước Mỹ trước hết, chứ không phải Trung Quốc” và Mỹ cũng có nhiều lo ngại về “gián điệp Trung Quốc, và sự đánh cắp công nghệ quan trọng từ các viện nghiên cứu của Hoa Kỳ ». Còn tại Anh, có mối lo ngại như vậy đối với sinh viên, nghiên cứu sinh Trung Quốc hay không? Thông tín viên Nguyễn Giang : Chính giới Anh vẫn luôn đánh giá rủi ro “bị xâm nhập” và mất cắp thông tin có giá trị cao về công nghệ trong các ngành trọng yếu, không nhất thiết là đối với những người từ Trung Quốc, mà đối với tất cả sinh viên, nghiên cứu sinh nước ngoài. Từ những năm trước (cụ thể là từ tháng 5/2021), Quốc hội Anh đã nghe báo cáo về việc đảm bảo cho các đại học phải nhận được chứng chỉ an ninh (security clearance), còn gọi là  ‘ATAS certificate’ từ bộ Ngoại Giao, thì mới cho phép sinh viên, nghiên cứu sinh ngoại quốc bước chân vào các ngành có “thông tin công nghệ nhạy cảm”.  Tuy thế, mới đây thì một số tờ báo Anh (như bài của Shaun Wilson ngày 19/04/2025 trên trang The Standard) nói rằng có khoảng 20 đại học Anh vẫn có các quan hệ đối tác với nhóm 7 trường nghiên cứu công nghệ quân sự ở Trung Quốc, sau khi có cảnh báo từ quan chức an ninh tình báo Anh. Chính phủ và các đại học Anh tuy thế vẫn nói rằng họ có cơ chế giám sát và kiểm soát rủi ro. Ví dụ như họ tuân thủ các hướng dẫn UUK guidance, và Trusted Research guidance của chính phủ để đảm bảo an ninh cho các lĩnh vực nhạy cảm như hàng không, khí động học, vi sinh...và những mảng khác. Xin nhắc đây là hợp tác giữa các đại học tức là ở cấp giáo sư, tiến sĩ làm nghiên cứu, chứ không phải là nói về sinh viên. Chuyện sinh viên Trung Quốc bị nghi hay tố cáo như ở Mỹ thì tại Anh chưa thấy báo đài nói tới. RFI: Trở lại giai đoạn trước, tức là nhiệm kỳ 1 của tổng thống Mỹ Donald Trump, có phải khi các chính sách ngày càng chặt hơn về visa du học với sinh viên quốc tế khiến Hoa Kỳ mất đi cơ hội thu hút sinh viên quốc tế từ những năm 2017-2021 ? Thông tín viên Nguyễn Giang : Vâng, một báo cáo của Hội đồng Anh về tình hình các cơ sở  Giáo dục Đại học Anh (UK Higher Education Institutions) vào tháng 02/2025 đã nêu ra một số đánh giá đáng chú ý về xu hướng “tránh chính quyền Donald Trump” trong sinh viên quốc tế, có từ nhiệm kỳ trước của ông Trump (2017-2021). Theo báo cáo này thì ngay trong nhiệm kỳ 1 của ông Trump, sức hấp dẫn của các đại học Mỹ sụt giảm, với con số ghi danh từ sinh viên quốc tế chừng 50 nghìn/năm. Có thể suy đoán rằng thái độ của ông Trump với người Hồi giáo (các vụ trục xuất) khiến sinh viên từ Trung Đông và châu Phi sang Mỹ du học có giảm. Ngoài ra thì người châu Âu cũng ít hơn trước nhưng số người từ Đông Á, nhất là Trung Quốc, tới Mỹ học vẫn tăng đều cho tới đại dịch Covid (2020-2021). RFI: Nói riêng về sinh Trung Quốc, có phải là cứ khi nào Mỹ nhận ít sinh viên du học từ Trung Quốc thì họ lại sang Anh? Thông tín viên Nguyễn Giang : Sang thời Biden (2021-2024) thì số sinh viên Trung Quốc ở Mỹ đã giảm đi và Anh trở nên hấp dẫn hơn. Có thể nói, năm 2023 là thời kỳ đỉnh điểm của du học Anh với sinh viên Trung Quốc. Theo một điều tra thực hiện với 366.380 sinh viên tốt nghiệp ở nước ngoài về nước của Trung Quốc trong cuốn Sách Xanh (Blue Book) thì 25,75% trở về từ Anh, và 14,73% từ Úc và 11,02% từ Úc. Một nguồn khác là The Economist Intelligence cho hay kể cả sau thời Trump thì sang thời Biden, Mỹ đã bác 39% đơn xin visa du học từ Trung Quốc, một con số kỷ lục. Xin nhắc là từ gần 10 năm qua, Trung Quốc và Mỹ đã căng thẳng chứ không phải đợi đến vụ đại học Harvard bị chính quyền Trump cáo buộc là “hợp tác với đảng Cộng Sản Trung Quốc”. Tức là ngay sau nhiệm kỳ 1 của Trump và đại dịch Covid thì Anh vẫn đứng cao hơn Mỹ về số sinh viên Trung Quốc du học trở về. Nay thì con số vẫn cao nhưng không được như trước: năm 2024 có 103 nghìn visa du học được Anh cấp cho sinh viên Trung Quốc, giảm đi gần 50 nghìn so với năm 2023 (154 nghìn). Các đại học Anh đang hy vọng việc Mỹ “xua đuổi”, làm khó dễ cho sinh viên TQ sẽ khiến nhiều người đang học ở Mỹ chuyển sang Anh và lứa nhập học năm tới sẽ chọn Anh thay cho Mỹ ,vốn bị cho là có rủi ro về visa. Thậm chí các điều tra dư luận nói sinh viên Trung Quốc lo sợ bị kỳ thị, bị bạo hành ở Mỹ vì căng thẳng chính trị, thuế quan hai nước. RFI: Cuối cùng, chính sách visa của Anh thực ra cũng đang thắt chặt với  sinh viên Trung Quốc nói riêng và sinh viên châu Á nói chung, gồm cả Việt Nam, Ấn Độ, Indonesia... Vậy nước Anh có thực sự thu hút sinh viên rồi giữ lại nhân tài phục vụ cho khoa học và kinh tế ? Và Anh đang phải cạnh tranh với các nước khác để thu hút dòng sinh viên quốc tế ? Thông tín viên Nguyễn Giang : Gần đây Anh ra chính sách visa chặt hơn, nên sinh viên quốc tế, một khi đã chọn con đường đi du học tốn kém, đều nộp đơn vào nhiều trường ở nhiều nước một lúc (gọi là multi-country application), và Anh chỉ là 1 trong số các nước sinh viên châu Á chọn ghi danh. Về các thị trường cạnh tranh với Anh thì có nước láng giềng với hệ thống giáo dục tương đồng là Cộng hòa Ireland. Tháng 1 năm nay tôi có thăm thủ đô Dublin và giao lưu với một số bạn VN bên đó thì được nghe là không chỉ sinh viên và nghiên cứu sinh tiến sĩ từ Việt Nam sang Ireland cũng tăng, tuy chưa phải là số lượng lớn nhưng là con số ngày càng nhiều chứ không giảm đi. Một bạn nói sau đại học, ở lại kiếm việc giảng dạy tại Ireland dễ hơn ở Anh. Như thế, Anh đang phải cạnh tranh với chính các nước tương đồng văn hóa. Rồi các trường ở Liên Hiệp Châu Âu. Theo quan sát cá nhân của tôi thì EU (Pháp, Đức, Hà Lan, Đan Mạch, hay cả Hungary, Ba Lan) cũng có các trường tốt, thu hút sinh viên học bằng tiếng Anh với giá cho một năm học thạc sĩ chỉ tính bằng tiền nghìn (euro) chứ không phải tiền trên 10 nghìn, thậm chí vài chục nghìn bảng Anh như tại Anh. Con số chính thức cho hay một năm học phí lấy tấm bằng thạc sĩ (MA) ở Anh là từ 17-30 nghìn bảng, so với các nước EU là 6-20 nghìn euro. Khác biệt rất là lớn. Một báo cáo của Hội đồng Anh từ tháng 2 cũng cho hay một thị trường du học cạnh tranh với Anh nay là vùng Đông Á và Đông Nam Á ví dụ như Đài Loan, Singapore, và cả Malaysia, Thái Lan. Các nghiên cứu của đại học East London và Hội đồng Anh đều nói Anh phải có cách hỗ trợ sinh viên Trung Quốc và châu Á nói chung nhiều hơn nữa, như kết nối họ với thị trường lao động sớm hơn để học xong họ có thể tận dụng thời gian gia hạn thị thực 18 tháng để kiếm được việc đúng ngành học. Nói tóm lại thì như tôi nêu ở trên, các đại học Anh đã rất hấp dẫn sinh viên quốc tế, gồm Trung Quốc, từ lâu nay rồi, chỉ có học phí cao và sinh hoạt đắt đỏ là bước cản trở lớn nhất thôi. Ngoài ra thì nếu muốn thu hút nhân tài và có nguồn nhân lực trẻ, có trình độ cao ở lại, thì Anh phải có chính sách thân thiện, tạo điều kiện hơn cho sinh viên quốc tế tiếp cận các ngành công nghiệp, thị trường lao động. Và
loading
Comments