DiscoverRFI - Nhịp Cầu Tri ÂmTriều đình Việt Nam bỏ thi chữ Hán năm 1919: Cơ hội để Quốc ngữ ''lên ngôi''? - 15/01/2020
Triều đình Việt Nam bỏ thi chữ Hán năm 1919: Cơ hội để Quốc ngữ ''lên ngôi''? - 15/01/2020

Triều đình Việt Nam bỏ thi chữ Hán năm 1919: Cơ hội để Quốc ngữ ''lên ngôi''? - 15/01/2020

Update: 2020-01-15
Share

Description

Khoa thi năm Kỷ Mùi (1919) là khoa thi Nho học cuối cùng ở Việt Nam. Lý do chấm dứt được vua Khải Định đưa ra trong lời phê tờ trình của bộ Học như sau: ''Trẫm nghĩ rằng quy chế cựu học đã không còn đáp ứng được điều mong muốn, trong khi con đường tương lai của tân học đang thênh thang mở rộng trước mặt'' (sách Khải Định chính yếu sơ tập) .... Quyết định bỏ thi chữ Hán năm 1919 của triều đình Việt Nam có phải là cơ hội để chữ Quốc ngữ lên ngôi?
Khoa cử Nho học chấm dứt nhường chỗ tự nhiên cho sự lên ngôi của chữ Quốc ngữ, về mặt lô-gic hình thức thông thường, đó là điều dễ chấp nhận. Thế nhưng trên thực tế, sự lên ngôi của chữ Quốc ngữ diễn ra như thế nào so với quyết định đặt dấu chấm hết này đối với khoa cử Nho học?
Đây là chủ đề đã được thảo luận khá rộng rãi trong năm vừa qua tại Việt Nam. Theo nhiều nhà nghiên cứu, sự lên ngôi của chữ Quốc ngữ trên thực tế đã diễn ra từ sớm, trước rất nhiều so với quyết định của vua Khải Định bỏ hoàn toàn thi cử Hán học năm 1919.
1915: Hồi trống báo ''chợ văn-chương'' sắp tàn
Sau đây là nhận định của nhà ngôn ngữ học Hoàng Dũng, Hội Ngôn Ngữ Học thành phố Hồ Chí Minh, với RFI tiếng Việt: ''Tôi hoàn toàn đồng ý là đây là một cơ hội, một cái dịp để cho người ta nhìn lại. Chữ Quốc ngữ như một dòng sông, nó có khởi đầu, và trên dòng chảy của nó chúng ta cắt ra 100 năm để chúng ta kỷ niệm, thì cái đó có những lý do khách quan. (…) Tại sao lại chọn cái đạo dụ của ông Khải Định, một ông vua mà lịch sử đánh giá rất là tệ hại ? Trong lời nói đầu của ông chủ tịch Hội ngôn ngữ học thành phố Hồ Chí Minh, để mở đầu cho hội thảo ngày 21/12 vừa rồi (2), tôi cho nói như vậy là đầy đủ, ông ấy nói thế này: Ta biết rằng chữ Quốc ngữ ở miền Nam sử dụng trước, sau đó lan dần ra cả nước. Và năm 1915, ở miền Bắc đã bãi bỏ thi Hương rồi. Ông Phạm Quỳnh nói đó là ''hồi trống sau cùng đã báo từ nay chợ văn-chương không họp nữa. Ai còn gồng nặng, gánh nhẹ mà quẩy về xoay nghề khác''.
Thực ra nói như thế là đúng, vì phải đến ba năm sau, tức 1918, khi Khải Định ra đạo dụ chính thức bãi bỏ khoa cử Nho học. Và năm 1919, khoa thi Hán học cuối cùng được tổ chức ở miền Trung, thì ''thần Cử-nghiệp'' đến đấy mới chính thức chia tay. Ta biết rằng trên sân khấu có hai nhân vật, một là chữ Nho, hai là chữ Quốc ngữ. Mà nhân vật chữ Nho bị đạo diễn cho đi xuống khỏi sân khấu rồi, thì chữ Quốc ngữ trở nên một mình một ngựa. Nếu không kể tiếng Pháp''.
Hơn một thập niên cải cách
Nhà nghiên cứu Hoàng Dũng đặc biệt chú ý đến giai đoạn cải cách giáo dục, kéo dài hơn một thập niên, nhằm thay thế dần dần nền khoa cử lâu đời bằng nền giáo dục mới, với chữ Quốc ngữ và chữ Pháp. Một chủ đề hiện còn rất ít được nghiên cứu và gần như không được công chúng đông đảo biết đến.
Nhà nghiên cứu Hoàng Dũng: ''Không phải là cái đạo dụ chính thức của Khải Định là một cái gì đó ghi nhận công lao của Khải Định đối với văn hóa Việt Nam. Tại sao nói như vậy ? Vì vua Khải Định chẳng qua là thực hiện một chính sách của người Pháp thời đó. Sau khi người Pháp chủ trương phổ biến chữ Quốc ngữ, thì họ đã có một chương trình cải cách giáo dục trong 10 năm, do ông toàn quyền Antony Klobukowski khởi xướng, rồi đến Albert Sarraut hoàn thành, để xóa bỏ dần nhà trường Hán học, bằng cách là trong các kỳ thi Hán học (thi Hương, thi Hội, thi Đình), họ đã xen cài chữ Quốc ngữ. Rồi cho đến lúc quen dần, thì 10 năm sau họ mới chính thức bãi bỏ bằng đạo dụ của Khải Định. Tôi nói rằng, theo cách nói của người Pháp, đấy là dấu chấm trên chữ i thôi, để kết thúc về mặt kỹ thuật, một tiến trình do chính người Pháp chủ trương, chứ không phải chủ trương của ông Khải Định''.
Cho đến nay, vai trò của những người có công đầu tiên trong việc chế tác chữ Quốc ngữ, như Francisco de Pina hay Alexandre de Rhodes đang ngày càng được công nhận trong xã hội Việt Nam, bất chấp một số phản đối ồn ào mới đây chống lại việc đặt tên đường Francisco de Pina và Alexandre de Rhodes tại Đà Nẵng. Tri ân công lao của những người đóng góp cho văn hóa Việt Nam, dù là người trong hay ngoài nước, là câu chuyện ngày càng trở nên một lẽ dĩ nhiên.
Tâm lý ức chế
Thế nhưng vấn đề chữ Quốc ngữ trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX dường như vẫn là một câu chuyện ít nhiều vẫn còn được coi là nhạy cảm, có lẽ do bởi gắn liền trực tiếp với giai đoạn thực dân. Và đây có thể là một trong những lý do chính tạo không khí ức chế trong tâm lý của không ít nhà nghiên cứu, giới quan tâm – nguồn gốc sâu xa của việc hầu như rất hiếm công trình nghiên cứu đáng kể nào về sự phát triển của chữ Quốc ngữ giai đoạn bản lề này. Và đây dường như cũng là một lĩnh vực không mấy thu hút các nhà nghiên cứu trẻ.
Tâm lý ức chế khá phổ biến này được nhà nghiên cứu Hồ Hải Thụy (Hà Nội) thuật lại với RFI tiếng Việt. Theo ông, các nhà nho cải cách Việt Nam đầu thế kỷ XX đã ''đành phải chấp nhận'' chữ Quốc ngữ như một chuyện đã rồi, không có cách nào khác, nếu muốn dân tộc đi lên, thì phải chấp nhận nó. Bởi vì chữ Hán tắc đường rồi, và chấp nhận chữ Quốc ngữ thì còn hơn là chấp nhận tiếng Pháp. ''Cái khôn'' của các cụ là ở chỗ ấy, nhưng là cái khôn ngoan trong tình thế bị áp đặt, trong sự đã rồi. Nhà nghiên cứu Hồ Hải Thụy cũng ghi nhận một thực tế là những người đứng đầu nhà nước quân chủ Nho giáo Việt Nam đã không tỉnh táo nghĩ đến việc mở đường cho chữ Quốc ngữ Latinh trở thành chữ viết quốc gia – trong thời kỳ còn kiểm soát toàn bộ hoặc một phần đất nước.

Áp đặt hay dung hòa?
Chữ Quốc ngữ dần dần trở thành chữ viết chính thức ở Việt Nam có phải đơn thuần do người Pháp áp đặt hay không là một chủ đề còn để ngỏ. Nhà nghiên cứu Hoàng Dũng đặc biệt chú ý đến những mâu thuẫn trong nội bộ chính quyền thực dân Pháp trong việc khuyến khích hay không chữ Quốc ngữ trong giai đoạn này:
''Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, ít người chú ý là thực ra việc phổ biến chữ Quốc ngữ ngay cả người Pháp là một chủ trương không dễ dàng. Họ phải đấu tranh nội bộ. Tôi đưa một dẫn chứng. Etienne Aymonier, một người biết nói tiếng Khmer, biết nói tiếng Việt, rồi ông lấy vợ người Chăm. Ông là tác giả của cuốn sách ngữ pháp tiếng Chăm, từ điển Chăm – Pháp. Về mặt chính quyền, ông đã từng làm đến công sứ Bình Thuận, ông đã từng làm hiệu trưởng đầu tiên của trường Hậu Bổ. Aymonier đã hai lần công khai viết rằng: việc phổ biến chữ Quốc ngữ là nguy hiểm cho người Pháp (3). Cách tốt nhất với người Pháp là biến người Việt trở thành một người Pháp gốc Á, tức là dạy tiếng Pháp cho người Việt. Trong nội bộ họ có những cuộc tranh luận rất là gay gắt. Và cuối cùng như ta đã biết là chủ trương phổ biến chữ Quốc ngữ thắng thế. Ý kiến của Aymonier bị gạt đi. Tôi chỉ nhắc lại một chút về lịch sử như thế để thấy rằng việc phổ biến chữ Quốc ngữ ở những năm này là vấn đề không dễ dàng''.
Từ Hà Nội, nhà nghiên cứu Hồ Hải Thụy cho biết thêm là, trên thực tế, việc thừa nhận chữ Quốc ngữ có thể coi là một ''biện pháp dung hòa''  tốt nhất trong giai đoạn lịch sử này, khi chính quyền thực dân Pháp đã ra nhiều bài học kinh nghiệm từ những nơi khác, trong đó có việc thực dân Anh ở Ấn Độ, tuy thống trị tiểu lục địa này từ lâu, nhưng đã không thể áp đặt được tiếng Anh, đồng hóa được nền văn hóa Ấn Độ. Theo hướng nhìn nhận này, thì giải pháp thừa nhận chữ Quốc ngữ chính là một sự thỏa hiệp giữa quyền lực thống trị thực dân với xã hội bản địa.
Chữ Quốc ngữ là ''hồn trong nước''
Vẫn về bước ngoặt đầu thế kỷ XX, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đặc biệt lưu ý đến sự thức tỉnh bất ngờ của giới nhà nho cấp tiến. Trong hoàn cảnh đặc biệt này, đã nhận ra trong chữ Quốc ngữ, đến từ trời Tây, một phương tiện gây lại ''hồn nước'':
''Thái độ đối với chữ Quốc ngữ của nhà nho đương nhiên là phân hóa theo nhiều xu hướng. Xu hướng những nhà nho cấp tiến, chủ trương Duy Tân, đã tìm thấy ở chữ Quốc ngữ một phương tiện hết sức là tích cực, hết sức là căn bản, trong việc gây lại cái gọi là ''hồn nước'', diễn đạt cái tinh thần dân tộc, cái bản lĩnh dân tộc, tố chất dân tộc. Họ gửi gắm vào chữ Quốc ngữ rất là nhiều.
Mặc dù, nếu khảo sát kỹ, các nhà nghiên cứu thấy rằng các nỗ lực của các nhà nho người Việt suốt nhiều thế kỷ chế tác các chữ Nôm, và phương pháp làm chữ Nôm cũng rất đáng kể, đến mức có thể ghi được những sáng tác bằng tiếng Việt, mà điển hình là Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán… Ví dụ như vần điệu của các tác phẩm thơ như thế chứng tỏ những nỗ lực cực kỳ lớn của những người đã làm ra bộ chữ Nôm, dựa trên các mẫu tự chữ Hán.
Thế nhưng, các nhà nho ở thời hiện đại, đầu thế kỷ XX trở đi, thì lại nhìn thấy trong chữ Quốc ngữ rõ hơn cái tinh thần độc lập của dân tộc mình. Theo tôi, những nhà nho Duy Tân đó đã gửi vào trong chữ Quốc ngữ một kỳ vọng cực kỳ lớn. Đằng sau nó là những giá trị hết sức quan trọng, mang tính xu hướng, giá trị về tính độc lập. Rất có thể trước đó dùng các chữ mượn các phương cách của chữ Hán, thì đến lúc này người ta nhận ra là những cái bản sắc thể hiện ở đó không thể nào rõ bằng việc viết bằng chữ cái abc''.

Vì sao Quốc ngữ bằng chữ cái Latinh vốn xa lạ, lại có thể trở nên thân thiết với người Việt đến như vậy trong nhãn quan của giới nho sĩ, trí thức Hán – Nôm đầu thế kỷ XX ? Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân cho biết cảm nhận của ông:
''Theo tôi, người ta nhìn thấy chữ viết Quốc ngữ ghi tiếng Việt ở dạng hoàn thiện của nó, như một cái gì đó cực kỳ gắn bó với tiếng Việt (4). Bởi vì, cũng là abc, nhưng là một dòng chữ, một câu tiếng Pháp chẳng hạn, thì nó khác, dòng chữ Bồ Đào Nha thì nó khác. Nhưng đây là từng từ một của tiếng Việt. Người ta thấy tiếng Việt hiển hiện ra trong đó. Và người ta thấy: À, đây là Việt Nam! Còn cái việc đằng sau các ký tự này là chữ Latinh chẳng hạn, thì đối với họ, điều đó trở nên không quan trọng nữa. Theo tôi, (ý nghĩa gắn bó thiết thân của chữ Quốc ngữ với người Việt) là ở chỗ đó''.
Nhiều câu hỏi để ngỏ
Đối với nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam, kỷ niệm một thế kỷ chấm dứt nền khoa cử chữ Hán, tồn tại trong suốt gần 1.000 năm, đã là một cơ hội tốt để soi tỏ giai đoạn bản lề cuối thế kỷ XIX - đầu XX, khi chữ Latinh ghi âm tiếng Việt bằng nhiều ngả đường khác nhau, từng bước khẳng định, vươn lên trở thành chữ viết quố
Comments 
In Channel
loading
00:00
00:00
x

0.5x

0.8x

1.0x

1.25x

1.5x

2.0x

3.0x

Sleep Timer

Off

End of Episode

5 Minutes

10 Minutes

15 Minutes

30 Minutes

45 Minutes

60 Minutes

120 Minutes

Triều đình Việt Nam bỏ thi chữ Hán năm 1919: Cơ hội để Quốc ngữ ''lên ngôi''? - 15/01/2020

Triều đình Việt Nam bỏ thi chữ Hán năm 1919: Cơ hội để Quốc ngữ ''lên ngôi''? - 15/01/2020

Trọng Thành