DiscoverTạp chí âm nhạc
Tạp chí âm nhạc
Claim Ownership

Tạp chí âm nhạc

Author: RFI Tiếng Việt

Subscribed: 74Played: 893
Share

Description

Góc vườn âm nhạc của RFI

309 Episodes
Reverse
Sinh thời, Claude François nhờ đồng sáng tác nhạc phẩm « Comme d'habitude » (My Way) mà hơn nửa thế kỷ sau, con cháu của nam danh ca người Pháp vẫn sống dư dả nhờ tiền tác quyền. Một cách tương tự, Luis Gardey lúc đầu chọn nghề ca hát, nhưng sau đó lại thành công vượt trội nhờ sáng tác cho các nghệ sĩ khác. Bản nhạc nổi tiếng nhất của ông « Devaneos » từng được chuyển lời Việt thành « Khúc tình dối gian ». Được phát hành vào năm 1981, giai điệu « Devaneos » hiểu theo nghĩa đen là những lời tán tỉnh, còn hiểu theo nghĩa bóng là lời gian dối của kẻ đa tình. Bản nhạc này trở nên rất nổi tiếng nhờ phiên bản ghi âm trong nhiều thứ tiếng của Julio Iglesias. Ông hoàng nhạc La Tinh thu bài này với tiểu tựa « O me quieres, o me dejas » hiểu theo nghĩa : yêu ta hoặc bỏ ta, chứ đừng đùa với con tim. Về thân thế sự nghiệp, Luis Gardey sinh trưởng tại thị trấn Quintes, vùng Asturias, phía bắc Tây Ban Nha. Từ khi còn nhỏ, ông luôn nuôi mộng trở thành ca sĩ chuyên nghiệp, chỉ cần nghe vài lần một giai điệu, ông có thể hát lại thuộc lòng. Ông bắt đầu đi hát tại các quán nhạc năm ông 15 tuổi. Đến Madrid lập nghiệp, Luis Gardey (nhờ vào sự dìu dắt của hai người thầy là Raúl Matas và José Luis Pecker) bắt đầu xuất hiện thường xuyên trong chương trình Cadena Ser trên đài phát thanh thủ đô, bước đệm quan trọng cho nhiều ca sĩ trẻ thời bấy giờ. Năm 23 tuổi, Luis Gardey lần đầu tiên thực hiện được ước mơ của mình khi giành giải nhất cuộc thi hát nhân kỳ liên hoan ca khúc Duero, dành cho các tài năng mới đến từ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Quan trọng hơn nữa là giải Đĩa Vàng do Đài Truyền hình Quốc gia trao tặng vào năm 1966. Nhờ giải này, nhiều bài hát của ông Somos tu y yo, Yo que no vivo sin Ti cũng như Mi vida (phiên bản phóng tác của bài "Ma vie" của Alain Barrière) trở nên phổ biến tại châu Mỹ La Tinh từ đầu thập niên 1970. Trong giai đoạn khởi nghiệp, Luis Gardey đã có được những thành công bước đầu đáng kể, nhưng chính ông cũng không ngờ rằng trong thập niên sau đó, sự nghiệp của ông lại tăng thêm một bậc nhờ soạn nhạc cho các nghệ sĩ tên tuổi. Về giai thoại sáng tác bài hát « Devaneos », ông cho biết là đầu những năm 1980, ông đang bận đi diễn ở Trung Mỹ và ông dự định nghỉ ngơi một thời gian sau chuyến lưu diễn này. Phía hãng đĩa mới đề nghị với ông rằng, họ sẵn sàng thanh toán toàn bộ chi phí của kỳ nghỉ dưỡng, với điều kiện ông sáng tác nguyên một album gồm 10 ca khúc mới để phát hành vào đầu năm sau. Luis Gardey hoàn tất album này sớm hơn dự kiến và nhạc phẩm « Devaneos » được chọn làm ca khúc chủ đạo để quảng bá cho album. Một cách rất tình cờ, giai điệu này lại lọt vào tai của Julio Iglesias. Ông hoàng nhạc tình La Tinh đã mua lại quyền phân phối bài hát cho thị trường Bắc Mỹ và châu Âu. Bản nhạc được đưa vào album phòng thu mang tựa đề "De Niña a Mujer", tập nhạc đầu tiên của Julio phát hành trên thị trường Hoa Kỳ. Nhân một buổi ăn trưa tại Mexico, Luis Gardey nhận được trước 100.000 đô la tiền bản quyền, còn tiền hoa hồng sẽ được trả sau, dựa vào doanh thu của việc bán đĩa. Đó không phải là bài hát duy nhất mà Luis Gardey đã sáng tác cho Julio. Vào năm 1986, Julio Iglesias đã chọn một trong những sáng tác mới của ông làm ca khúc chủ đạo, mở đầu album « Libra ». Với tựa đề « Ni te tengo, ni te olvido » (Tim vẫn chưa có, mà hồn chưa quên) bài hát này giành lấy hạng đầu thị trường Tây Ban Nha và thị trường Hoa Kỳ trong hạng mục pop La Tinh. Trong tiếng Việt, bài này từng được phóng tác thành nhạc phẩm « Tình mãi đam mê » qua phần ghi âm của ca sĩ Hoàng Nam. Thành công của nhạc phẩm Devaneos (tựa tiếng Pháp là Les dérobades) cho ra đời nhiều phiên bản phóng tác trong nhiều ngôn ngữ ăn khách trên thị trường quốc tế. Riêng trong tiếng Việt, bài này có ít nhất đến ba lời khác nhau. Lời thứ nhất « Khúc tình dối gian » là của tác giả Vũ Xuân Hùng. Lời thứ nhì mang tựa đề « Bài ca tình nhớ » là của tác giả Lữ Liên qua phần ghi âm của các danh ca Tuấn Ngọc hay Kasim Hoàng Vũ. Lời thứ ba  « Và rồi nắng ra đi » là của nam ca sĩ Duy Hạnh. Tuy trong đời, Luis Gardey đã sáng tác khá nhiều bài hát, nhưng ít có bài nào ăn khách bằng các bản ghi âm của Julio Iglesias. Với hơn 10 triệu đĩa được bán mỗi năm chỉ trong thập niên 1980, chính ông hoàng dòng nhạc La Tinh đã giúp cho các giai điệu sâu lắng êm đềm của tác giả Luis Gardey càng trở nên khó quên, tên tuổi ông được nhiều trái tim hâm mộ biết đến.
Vào những ngày lễ cuối năm tại châu Âu, thời tiết trở lạnh càng làm cho mọi người cảm nhận được không khí mùa Giáng Sinh. Chính trong những ngày mùa đông băng giá ấy, nhạc phẩm "Winter Wonderland" đã ra đời cách đây 90 năm.  Đặc điểm của giai điệu này vẫn là mặc dù ngày lễ Noël không một lần được nhắc đến trong bài hát, nhưng Winter Wonderland từ gần một thế kỷ qua, thường được xem là một trong những bài hát kinh điển vào mùa Giáng Sinh. Trong tiếng Việt, bài này mang tựa đề : Thiên Đường Mùa Đông. Nhạc phẩm Winter Wonderland được sáng tác vào năm 1934, do Richard Smith viết lời và do Felix Bernard soạn nhạc. Qua nhiều thập niên liền, bài hát này từng được hàng trăm nghệ sĩ thu âm lại trong nhiều ngôn ngữ, thực sự trở thành một trong những ca khúc Noël nổi tiếng nhất mọi thời đại. Giai thoại kể rằng tác giả Richard Smith đã có ngẫu hứng sáng tác một bài thơ, khi ông ngắm nhìn những đứa trẻ vui đùa trên tuyết, từ căn phòng của mình tại viện điều dưỡng West Mountain ở Scranton, bang Pennsylvania, nơi ông đang được điều trị bệnh lao. Từ khung cửa sổ căn phòng, tác giả nhìn ra toàn cảnh công viên Central Park tại Honesdale, phủ đầy tuyết trắng.  Những đứa bé đắp băng thành người tuyết, dùng khúc cây làm thành đôi tay, gắn mũ trên đầu, quàng khăn trên cổ. Từ khung cảnh ấy, ông mới hình dung ra câu chuyện của một đôi tình nhân đang dạo bước, ngắm cảnh tuyệt vời của thiên nhiên khi trời mới vào đông. Trong trí tưởng tượng của tác giả, người tuyết trở thành nhân chứng cho lời thề kết hôn của đôi nhân tình. Bài thơ sau đó đã được nghệ sĩ dương cầm Felix Bernard phổ nhạc và được nam ca sĩ Joey Nash thu âm lần đầu tiên vào mùa thu năm 1934 cho hãng đĩa RCA với dàn nhạc của Richard Himber chuyên biểu diễn tại khách sạn Ritz-Carlton. Vài tháng sau, nhân mùa Noël năm 1934, Guy Lombardo và dàn nhạc của ông mới thu âm phiên bản thứ nhì. Thành công của bản nhạc này vào những ngày lễ cuối năm biến "Winter Wonderland" với thời gian thành một trong những bản nhạc hàng đầu về chủ đề Giáng Sinh. Từ bản thu âm đầu tiên đến nhạc Noël kinh điển Từ giữa thập niên 1940 trở đi, hầu như năm nào cũng có thêm phiên bản thu âm mới của nhạc phẩm Winter Wonderland. Trong số những bản ghi âm lại nổi tiếng nhất, có những bản cover của Perry Como, Pat Boone, Paul Anka, Frank Sinatra, Bing Crosby hay Elvis Presley. Vào tháng 11 năm 2007, Hiệp hội ASCAP chuyên bảo vệ tác quyền tại Hoa Kỳ đã xếp nhạc phẩm Winter Wonderland vào hạng đầu danh sách các bài hát được phổ biến và phát sóng thường xuyên nhất trong những ngày lễ cuối năm, có lẽ cũng vì có rất nhiều phiên bản hoà tấu và Winter Wonderland do nói về mùa đông, cho nên thường được nghe sớm hơn các ca khúc Giáng Sinh khác.  Trong tiếng Pháp, phiên bản của bài Winter Wonderland là nhạc phẩm "Au royaume du bonhomme hiver" (Nơi xứ sở của người tuyết) do ca sĩ kiêm tác giả người Québec, Lucien Brien, sáng tác và thể hiện. Còn trong tiếng Việt, giai điệu này từng được tác giả Nguyễn Thảo viết lời, do Lê Vũ hòa âm phối khí và do nam ca sĩ Quý Anh trình bày. Trong những công viên mùa đông, những gốc thông xanh che chở những con thú nhồi bông trắng, băng tuyết xinh xắn. Tại châu Âu hay Bắc Mỹ, vào mùa này đều có những ngôi làng hay phiên chợ Noël với nhiều trò chơi như sân trượt băng, hay xích đu cầu vòng. Khi màn đêm buông xuống, ánh đèn lung linh khiến khung cảnh phiên chợ làng, càng trở nên huyền ảo. Dù xuất xứ từ đâu, nhưng những bài hát này đều làm bừng sáng mùa lễ hội, mang đến cho mùa đông một chút niềm vui khó quên lạ thường, trong khung cảnh diễm tuyệt thiên đường, vương quốc của người tuyết dễ thương.
Ca sỹ, nhạc sỹ, diễn viên Bruno Mars trụ vững trên đỉnh vinh quang một thập niên qua nhờ âm nhạc pop/soul/R&B, cùng chất giọng trữ tình, mượt mà. Đĩa đơn mới nhất Bruno hợp tác cùng Lady Gaga, Die with a smile (Chết trong nụ cười) leo lên hạng nhất Billboard và lập kỷ lục về lượt nghe trên kênh trực tuyến Spotify. Tài năng được công nhận Nghệ sỹ Bruno Mars sinh năm 1985 tại Hawaii Mỹ, pha trộn hai dòng máu Philipin và Puerto Rico. Anh được nuôi dưỡng trong môi trường âm nhạc từ nhỏ, mẹ là ca sỹ kiêm vũ công, cha anh là nhạc sỹ chuyên chơi nhạc Little Richard. Tuy nhiên, cuộc sống nam nghệ sỹ không phải màu hồng. Khi cha mẹ anh ly dị lúc còn nhỏ, Bruno sống lang thang phiêu bạt trên trên xe hơi. Trước khi nổi tiếng với tư cách nghệ sỹ solo, anh là nhạc sỹ sáng tác và thành viên sáng lập cho nhóm sản xuất Smeezingtons. Nhắc tới Bruno, khán giả nhớ ngay tới một nghệ sỹ nhỏ bé nhưng thoát ra khỏi vùng an toàn, thể hiện được nguồn năng lượng sáng tạo mạnh mẽ. Anh giành được tiếng vang đầu tiên nhờ đĩa đơn leo lên hạng nhất Nothing on you (Không ai sánh bằng em) năm 2009. Kể từ đó, Bruno liên tục nắm giữ chuỗi giải thưởng danh giá và gặt hái thành công thương mại khổng lồ: chiến thắng 16 giải Grammy gồm những giải quan trọng nhất Album của năm, Ghi âm của năm, Bài hát của năm. Nam nghệ sỹ có 9 đĩa đơn xếp hạng nhất tại bảng xếp hạng Billboard. Bruno Mars cũng là nghệ sỹ đầu tiên có trên 150 triệu lượt nghe một tháng trên kênh Spotify. Ba album solo của Bruno, Doo-Wops & Holigan (2010), Unorthdox Jukebox (2012), 24K Magic (2016) là ba dấu mốc quan trọng nhất trong sự nghiệp của nam nghệ sỹ. Theo thời gian, tầm vóc và thành công thương mại của anh tăng trưởng đều. Trong đó, album 24K Magic được đánh giá xuất sắc nhất, hoàn toàn chinh phục Ban giám khảo Grammy năm 2016, ẵm hết các hạng mục quan trọng nhất. Rõ ràng, anh chịu ảnh hưởng lớn từ vua nhạc pop quá cố Micheal Jackson và ông hoàng rock n roll, Elvis Presley từ cách hát, vũ đạo, tiết tấu funky (nhún nhẩy), ca từ hoài cổ. Tất cả những điểm mạnh kể trên định hình phong cách Bruno Mars trở thành biểu tượng nhạc pop đương đại. 10 năm không có album solo mới Gần 10 năm qua kể từ 24K Magic, Bruno không phát hành album solo mới. Điều đó không có nghĩa anh ngừng sáng tạo hay lui vào ở ẩn. Trái lại, anh chú trọng vào sản phẩm hợp tác với các nghệ sỹ tên tuổi khác và đồng thời, sáng tác đĩa đơn có hấp lực thương mại cao. Điển hình như đĩa đơn Wake up in the sky (Tỉnh giấc trên bầu trời) pha trộn hip hop, pop, soul, đồng sáng tác cùng Gucci Mane và Kodak Black. Ra mắt năm 2018, ca từ bài hát ca ngợi cảm giác tốt đẹp và tận hưởng cuộc sống. Bruno còn ghi tên mình trong sản phẩm hợp tác với Ed Sheeran, ngôi sao Anh quốc hay Cardi B rapper người Mỹ. Năm 2021, anh kết hợp cùng rapper Anderson Paak ra mắt album An Evening with Silk Sonic (Buổi tối cùng Silk Sonic - Âm thanh mượt mà). Album leo hạng 5 trong các bảng xếp hạng Mỹ, Canada. Nam nghệ sỹ chứng tỏ đam mê sáng tạo vượt khỏi giới hạn bản thân. Bruno chứng tỏ tư duy cởi mở khi làm nghề, khác biệt với các nghệ sỹ cùng thời: thay vì tách nhóm để hoạt động solo, anh lại tìm nghệ sỹ cùng phổ âm nhạc để hợp tác, thành lập nhóm nhỏ. Ca khúc Leave the door open (Hãy để cửa mở) dưới tư cách bộ đôi Silk Sonic xếp hạng nhất tại Mỹ. Thành công này cho thấy khán giả ưa chuộng gu âm nhạc của Bruno Mars. Ở góc độ nghệ sỹ, Bruno có trực giác nhạy bén, nắm bắt được thị hiếu số đông công chúng. Giới phê bình nhìn nhận anh như chú tắc kè hoa, có độ phủ lớn với đa thể loại âm nhạc, nhưng thế mạnh đi đôi với gu âm nhạc khá cũ, quen thuộc. Sức hút của Chết trong nụ cười (Die with a smile) Die with a smile, đĩa đơn phát hành tháng 8 năm 2024 nhanh chóng trở thành hiện tượng trên Spotify và bảng xếp hạng Billboard. Ca khúc đánh dấu sự hợp tác thành công mỹ mãn giữa Bruno và Lady Gaga, dành được giải Grammy Trình diễn Pop nhóm/bộ đôi xuất sắc nhất. Tác phẩm được sản xuất theo phong cách soft rock, ballad khoe được sự ăn ý và hòa hợp của bộ đôi. Năm 2016, nam nghệ sỹ và Lady Gaga có dịp hợp tác biểu diễn chung trên sân khấu thời trang Victoria Secret. Tám năm sau, tháng 6 năm 2024, Bruno gợi ý muốn hợp tác cùng Lady Gaga một ca khúc hoặc trình diễn chung trên sân khấu Las Vegas Residency. Cả hai nghệ sỹ hiện thực hóa mong mỏi bấy lâu khi Bruno giới thiệu cho Gaga bản nhạc anh đang viết dở. Rất nhanh chóng, Lady Gaga hoàn toàn bị chinh phục bởi giai điệu của sản phẩm anh thai nghén. Cả hai nghệ sỹ dành tặng nhau lời có cánh trên mạng xã hội trong quá trình sản xuất. Chỉ trong vòng hai tháng, bộ đôi trình làng ca khúc hợp tác đầu tiên, Die with a smile. Không nghi ngờ, cơn bão lời khen ập đến với bộ đôi từ cả phía khán giả lẫn giới phê bình. If the world was ending, I'd wanna be next to you ; If the party was over and our time on Earth was through ; I'd wanna hold you just for a while and die with a smile. Nếu thế giới này kết thúc, anh chỉ muốn được gần bên em ; Nếu bữa tiệc đã tàn và thời gian còn lại trên Trái đất sắp qua đi ; Anh chỉ muốn ôm em trong giây lát và chết trong nụ cười. Tờ New York Times nhận xét “bản nhạc dance chậm rãi, lãng mạn trong ngày tận thế cho cả hai cơ hội khoe khoang nốt cao nhất bằng giọng ngực (belting )”. Thêm một lần nữa, Bruno Mars chứng tỏ anh là “chú lùn” tài hoa, nắm được thị hiếu nghe nhạc đại chúng và kỹ năng biểu diễn với mức thẩm thấu cao. Anh biết chơi rất nhiều nhạc cụ trong đó có guitar, piano, keyboard, trống, bass, ukulele, trống conga. Tuy nhiên, lắm tài thường đi đôi nhiều tật, anh từng có tai tiếng liên quan tàng trữ cocaine hay nợ nần 50 triệu đô với sòng bạc MGM Las Vegas. Tuy nhiên, MGM Las Vegas bác bỏ tin đồn nợ nần. Lý do cát xê 90 triệu đô/năm biểu diễn tại MGM hoàn toàn có thể xóa được món nợ như tin đồn. Bruno Mars được bình chọn là Top 20 ngôi sao nhạc pop vĩ đại nhất thế kỷ 21 do nhiều tạp chí uy tín như Times, Billboard. Tài năng thuộc loại hiếm của “chú lùn” được minh chứng trên nhiều  phương diện nhạc sỹ, nghệ sỹ biểu diễn. Anh là người tạo nên kỳ tích chuỗi bản hit thành công thương mại.   (Theo People, Billboard, New York Times)
Trong lĩnh vực nhạc không lời, trước khi có hiện tượng của tay đàn vĩ cầm kiêm nhạc trưởng Hà Lan André Rieu với các điệu valse "tân thời", giới yêu nhạc đã từng thổn thức say đắm với ngàn cung bậc nồng thắm của Paul Mauriat. Năm 2025 đánh dấu đúng 100 năm ngày sinh của nhạc trưởng người Pháp, còn thường được mệnh danh là "ông vua" dòng nhạc hòa tấu.  Sinh thời, Paul Mauriat đã ghi âm hơn 80 album nhạc không lời, bán hơn 50 triệu đĩa hát trên toàn thế giới. Nhân dip kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông, hãng đĩa PolyGram của Nhật cho tái bản bộ đĩa Best Selection, gồm 10 CD. Mỗi đĩa nhạc mang logo của một nhạc khí tiêu biểu cho thời Paul Mauriat chỉ huy một dàn nhạc hòa tấu với hơn 60 nhạc sĩ. Sinh năm 1925 tai Marseille, Paul Mauriat có năng khiếu âm nhạc từ thuở thiếu thời, nên được gia đình cho theo học Nhạc viện thành phố Paris từ năm lên mười. Sau khi tốt nghiệp, ông thành lập ban nhạc khiêu vũ đầu tiên ngay sau thời Đệ nhị thế Chiến và bắt đầu điều khiển dàn nhạc tại các vũ trường và ông chuyên đi biểu diễn tại châu Âu cùng với hai nghệ sĩ trứ danh thời bấy giờ là Maurice Chevalier và Charles Aznavour. Về vai vế, Paul Mauriat (sinh năm 1925) cũng như Raymond Lefèvre (1929) là học trò của ông Franck Pourcel. Cùng với Ray Ventura (cậu ruột của nam danh ca Sacha Distel), Franck Pourcel được xem như là một những người tiên phong ở Pháp trong lãnh vực nhạc hoà tấu. Chinh ông Franck Pourcel, cũng là một người có nguyên quán ở Marseille, đã giúp đỡ "đồng hương" Paul Mauriat đến Paris lập nghiệp từ năm 1958. Trên thị trường quốc tế, Paul Mauriat đạt được thành công lớn nhờ đồng sáng tác nhạc phẩm tiếng Pháp "Chariot" cho Petula Clark. Dưới bút danh Del Roma, ông đã viết bài này vào năm 1961 với thầy là Frank Pourcel (nghệ danh J.W. Stole), ban đầu là một khúc nhạc hòa tấu trên album số 17 "Amour, Danse et Violons" (Tinh yêu, vũ khúc và bộ đàn vĩ cầm). Bản nhạc tiếng Pháp "Chariot" trở nên cực kỳ nổi tiếng khi được phóng tác sang tiếng Anh với tựa đề "I will follow Him".  Tại Mỹ, ca khúc này được Little Peggy March thu thanh và đã giành hạng đầu bảng xếp hạng Billboard trong ba tuần vào năm 1963. Năm 1992, ca khúc lại thành công trên thị trường quốc tế khi được thu làm ca khúc chủ đề cho bộ phim "Sister Act" với Whoopi Goldberg trong vai chính.  Từ giai điệu "Tình Xanh" đến "Nguyện theo chân Ngài" Trong tiếng Việt, bản nhạc này từng được phóng tác thành nhạc phẩm "Cùng theo anh dấu yêu" do ca sĩ Vy Vân ghi âm từ trước năm 1975, bài hát sau đó có thêm lời "Nguyện theo chân Chúa" của linh mục Giuse Trần Cao Thăng và "Theo bước chân Ngài" của tác giả Nguyễn Hoàng Đô, qua phần ghi âm của Phương Uyên. Sau thành công của nhạc phẩm "Chariot", Paul Mauriat lại đứng đầu bảng xếp hạng thi trường Mỹ vào năm 1968 với phiên bản hoà tấu của nhạc phẩm "Love is Blue". Nguyên tác bài hát là của nhac si André Popp từng được nhiều nghệ sĩ trứ danh như Sylvie Vartan hay Vicky Leandros ghi âm. Riêng phiên bản của Paul Mauriat trở thành một trong những giai điệu hoà tấu hiếm hoi lập kỷ lục số bán với hàng triệu bản,  sau khi giành lấy hạng nhất thị trường Hoa Kỳ trong năm tuần liên tục.  Thành công của bài hát này giúp Paul Mauriat trở nên nổi tiếng trên thế giới, từ Bắc Mỹ đến Brazil và đặc biệt là ở Nhật Bản, nơi ông đã từng thực hiện hơn 1.200 buổi hòa nhạc trong vòng 30 năm liền. Khi qua đời tại thành phố Perpignan vào năm 2006 ở tuổi 81, Paul Mauriat đã để lại một di sản âm nhạc đồ sộ, tại châu Á đông đảo người hâm mô tiếp tục sưu tầm các đĩa nhạc của ông. Trước André Rieu cũng như các nghệ sĩ khác chuyên biểu diễn nhạc hoà tấu như Richard Clayderman (dương cầm) hay Francis Goya (ghi ta), Paul Mauriat ngoài việc hoà âm và soạn nhạc còn chuyên chuyển thể, thu gọn các tổ khúc cổ điển, nhằm mang loại nhạc hàn lâm này đến gần hơn với giới yêu nhạc phổ thông. Tuy không cao siêu như kịch opera, tinh tế bằng nhạc thính phòng và giao hưởng, nhưng nhạc hoà tấu không lời  nhờ tính dễ nghe (easy listening) nên thường được phổ biến ở nhiều nơi, được khai thác nhiều trên kênh truyền hình, phim quảng cao hay rộng hơn nữa trong nhạc phim. Tuy không được coi trọng bằng dòng nhạc cổ điển Tây phương, nhưng nhạc nhẹ vẫn được duy trì cho tới ngày nay. Thời hoàng kim của thể loại âm nhạc này là vào những năm 1950-1970. "Thợ kim hoàn" Sinh thời, Paul Mauriat có tài làm đẹp cho nhạc của người khác. Ông thuộc vào hàng bậc thầy, nhờ nghệ thuật hoà âm độc đáo công phu khiến các ca khúc có thêm tiết tấu dễ nhớ, chiều sâu bất ngờ. Điều này giải thích vì sao Paul Mauriat là nhạc sĩ hoà âm yêu thích nhất của danh ca Aznavour, hai người đã hợp tác với nhau để thực hiện hơn 130 bản ghi âm. Ngoài ra, Paul Mauriat còn chuyên hoà âm, tạo bản phối, sắp đặt giọng hát bè cho nhiều nghệ sĩ nổi tiếng của Pháp như Dalida, Léo Ferré, Henri Salvador và nhất là Mireille Mathieu, ông đã sáng tác cho giọng ca này bản nhạc nổi tiếng "Mon Credo". Phong cách hoà âm tinh tế công phu ấy, giờ đây đã thoái trào nhường chỗ lại cho nhạc cụ điện tử. Lối tiếp cận âm nhạc của Paul Mauriat giống như một thợ kim hoàn. Giai điệu đẹp tựa viên ngọc báu, nhưng nhờ lối hoà âm lại có thêm giá trị, khi viên ngọc được kết thành xâu chuỗi, gắn trên khung vòng, nhờ vậy mà tăng thêm nét qúy phái, sang trọng. Đầu thế kỷ XX, các nhạc cụ bằng đồng thống trị các dàn nhạc hòa tấu (nhất là các ban nhạc big band).  Nhưng từ những năm 1950 trở đi, công chúng lại chứng kiến sự trỗi dậy của các bộ đàn dây. Nối bước Franck Pourcel, Paul Mauriat chuyên điều khiển các dàn nhạc hoà tấu hùng hậu, không kém gi dàn nhạc giao hưởng của các nhà hát Opéra. Tuy chưa ngang tầm với dòng nhạc cổ điển hàn lâm, nhưng bộ đàn dây giúp cho các bản phối nhạc nhẹ trở nên quyến rũ hấp dẫn, tràn đầy ma lực say đắm, cho tim thêm ngơ ngẩn, chạm góc hồn mê mẩn.
Thời kỳ cực thịnh của phong trào sáng tác nhạc bolero đã đánh dấu sự trỗi dậy của 4 tài năng hàng đầu tại Mêhicô. Thuộc vào nhóm Tứ Quý, Armando Manzanero (1934-2020) được xem là thế hệ tác giả lãng mạn đầu tiên của Mêhicô thời hậu chiến. Ông cũng là một trong những ca sĩ kiêm nhà soạn nhạc thành công nhất của châu Mỹ La Tinh. Sinh trưởng tại Mérida, bang Yucatán, Armando xuất thân từ một gia đình nghệ sĩ người Maya : thân phụ là ca sĩ kiêm tác giả Santiago Manzanero, còn thân mẫu Juanita Canché chơi đàn ghi ta 8 dây (jarana jarocha), một nhạc cu truyền thống của bang Veracruz. Năm lên tám, ông được song thân cho vào học trường năng khiếu âm nhạc và mỹ thuật (Escuela de Bellas Artes) và sau đó ông được đào tạo nhiều năm, rồi tốt nghiệp nhạc viện thành phố Mexico. Armando bắt đầu sáng tác rất sớm, giai điệu đầu tiên (Nunca en el Mundo / Chưa bao giờ có trên thế giới), sáng tác ở tuổi 15 cho thấy dù còn non tuổi đời, nhưng tay nghề sáng tác của ông đã chín muồi. Vào năm 16 tuổi, Armando Manzanero vào nghề với tư cách là một nghệ sĩ chơi đàn dương cầm chuyên nghiệp. Bảy năm sau, ông trở thành nhạc sĩ trẻ tuổi nhất (23 tuổi) được hãng đĩa CBS International tuyển làm giám đốc nghệ thuật, đồng thời quảng bá âm nhạc cho công ty. Nhờ ký được hợp đồng này, Armando Manzanero trở thành nghệ sĩ hoà âm và chơi đàn piano cho nhiều nghệ sĩ nối tiếng tại Trung-Nam Mỹ như Pedro Vargas, Lucho Gatica hay Raphael ...... Sau vài năm đi biểu diễn cùng với các nghệ sĩ trứ danh, Armando theo đề nghị của một giám đốc điều hành hãng đĩa RCA Victor vào năm 25 tuổi, thu âm album đầu tiên gồm những bản nhạc tình, được đặt tên là "Mi Primera Grabación" (Đĩa ghi âm đầu tiên của tôi). Có thể nói là sở trường sáng tác và hòa âm của Armando Manzanero đã tạo ra một âm thanh mới trong bối cảnh sáng tác đầu những năm 1960, ông tạo ra một lối tiếp cận khác với dòng nhạc bolero, lãng mạn mà không ủy mị, lưu luyến mà không hoài cổ, nhờ vậy ông đã giúp hiện đại hoá thị trường âm nhạc ở châu Mỹ La Tinh. Vào năm 1965, ông giành giải nhất tại Liên hoan ca khúc tiếng Tây Ban Nha ở Miami với bài hát "Cuando estoy contigo" (Khi ta bên nhau). Môt trong những bài hát nổi tiếng của ông "Somos Novios" được Sid Wayne (nhà chuyên soạn nhạc cho Elvis Presley) phóng tác sang tiếng Anh với lời mới. Phiên bản "It's Impossible", được Elvis Presley cũng như Perry Como trình bày, nhận đề cử giải Grammy vào năm 1970. Nhiều thập niên sau đó, đến phiên Andrea Bocelli ghi âm lại một phiên bản để đời. Với khoảng 20 album phòng thu và hơn 500 ca khúc đủ loại kể cả nhạc phim và serie truyền hình, Armando Manzanero được xếp vào hàng Tứ Qúy, bên cạnh các tên tuổi lớn thành công ở nước ngoài như Agustín Lara, María Grever hay Luis Demetrio ..... Vào năm 1993, ông từng được tạp chí Billboard của Mỹ trao tặng giải thưởng đề cao ngòi bút sáng tác xuất sắc. Một thập niên sau đó, Armando Manzanero lại nhận được Giải thưởng Grammy tại Hoa Kỳ vinh danh thành tựu sự nghiệp. Từ năm 2011 cho đến khi ông qua đời vào năm 2020 (86 tuổi) ông là chủ tịch của Hiệp hội các Tác giả và Nhà soạn nhạc Mêhicô. Armando đã tham gia ban điều hành hiệp hội này từ nhiều thập niên trước, nhằm bảo vệ bản quyền của các nhạc sĩ Mêhicô trên thị trường quốc tế. Trong số những nhạc phẩm được biết đến nhiều nhất của Armando Manzanero, có giai điệu "Adoro" do chính ông sáng tác và thu âm vào năm 1967. Bài hát này ban đầu thành công rực rỡ ở châu Âu và Nam Mỹ. Bài hát sau đó đã được phóng tác sang nhiều ngôn ngữ, trong đó có tiếng Ý, Phần Lan, Thổ  Nhĩ Kỳ cũng như hai phiên bản tiếng Anh "I Adore You" của Andra Willis và của Sunny Skylar. Ngoài ra, Armando còn thực hiện bản ghi âm mới vào năm 2001 cho bộ đĩa "Duetos I & II" gồm những bản song ca với nhiều giọng ca lừng danh như Lolita Flores, Alejandro Sanz, Carlos Cuervas ..... Còn trong tiếng Việt,  bài này từng được nhạc sĩ Phạm Duy phóng tác thành nhạc phẩm "Vĩnh biệt tình ta" vào năm 1988, chủ yếu dựa vào phiên bản tiếng Anh "I Adore You", nhiều hơn là nguyên tác tiếng Tây Ban Nha. Lời Việt phản ánh chương cuối của một chuyện tình : tình chỉ còn giá băng của mùa tuyết rơi ..... cạn khô nửa đời rước ta vào đó thôi. Còn nguyên tác tiếng Tây Ban Nha phản ánh giai đoạn mới gặp nhau trong tình yêu lứa đôi, khi đam mê còn rạo rực như muôn ánh sao trời, hai vầng nhật nguyệt sáng chói. Phiên bản ghi âm đầu tiên là của danh ca Ngọc Lan trong loạt album với chủ đề “Những tình khúc bất tử”. Còn phiên bản thu âm gần đây nhất là của nam ca sĩ Quang Dũng.
Nhắc đến Dan Hill, giới yêu nhạc nghĩ tới ngay một ca sĩ kiêm tác giả người Canada. Ông có nhiều bản nhạc pop ăn khách trên thị trường quốc tế trong những năm 1970 và 1990, nổi tiếng nhất vẫn là nhạc phẩm « Sometimes when we touch ». Trong tiếng Việt, bài hát này theo cách đặt lời và diễn đạt của nghệ sĩ Huy M.C là Tình quyến luyến không rời, còn theo tác giả Lan Anh do ca sĩ Lưu Bích trình bày là Vòng tay ấm cho người. Sinh năm 1954 ở Toronto, Canada, Danqua Hill lớn lên trong một gia đình công chức. Ông bộc lộ năng khiếu âm nhạc từ khi còn nhỏ, sau khi được bố mẹ tặng cây đàn ghi ta đầu tiên nhân sinh nhật mười tuổi. Khi còn học trung học, ông bắt đầu đi hát tại các quán cà phê. Trước khi đậu bằng tú tài, ông đã thu âm một băng nhạc demo với sự hỗ trợ của người bạn thời thơ ấu là Matt McCauley, sau này cũng trở thành một nhà soạn nhạc nổi tiếng tại Canada.  Đầu những năm 1970, Dan Hill ký hợp đồng thu thanh với một hãng đĩa độc lập của Canada (GRT Records). Vài năm sau đó, Dan Hill phát hành album đầu tiên cũng với đĩa đơn ăn khách (You make me want to be) trên thi trường Canada. Năm 1977, Dan Hill lúc ấy mới 23 tuổi, sáng tác và thu âm bản ballad « Sometimes when we touch » với sự hỗ trợ của nhà soạn nhạc Barry Mann, đã giúp anh hoàn tất album phòng thu thứ nhì "Longer Fuse". Đây là bản nhạc ăn khách nhất của Dan Hill, đạt hạng 3 trên danh sách Billboard của Mỹ và hahng nhất trên bảng xếp hạng thị trường Canada. Tina Turner từng ghi âm lại bài này vào năm 1978 trên album « Rough » của mình. Có lúc, Dan Hill xem thành công quá lớn của bài hát này như một « rào cản », che khuất các sáng tác khác trong sự nghiệp của mình. Bất kể ông có thu bản nhạc nào, thì bài hát mới cũng bị so sánh với giai điệu « Sometimes when we touch ». Nhiều năm sau đó, ông mới nhận ra rằng chính nhạc phẩm này đã mở cho ông nhiều cánh cửa của ngành công nghiệp giải trí và giúp ông trở thành một nghệ sĩ nổi tiếng. Mặc dù ông có nhiều bản nhạc ăn khách tại quê nhà Canada, nhưng các đĩa đơn tiếp theo lại không mấy thành công tại Hoa Kỳ. Mãi đến hơn một thập niên sau thành công đầu tiên, Dan Hill mới xuất hiện trở lại trên bảng xếp hạng Billboard vào năm 1987 với nhạc phẩm « Can't we try », một bản song ca với Vonda Shepard, mở đường cho Dan Hill thành công với 5 bản nhạc khác lọt vào Top Ten thị trường Hoa Kỳ, đầu những năm 1990.  Chính trong giai đoạn này, Dan Hill mới có cơ hội hợp tác với Céline Dion qua việc trình bày hai bản song ca là « Can't we try » (hát live 1987) và « Wishful thinking » (1989) viết cho album tiếng Anh « Unison » của Céline Dion, nhưng rốt cuộc bài hát lại không được tuyển vào danh sách cuối cùng trên album này. Một trong những ca khúc ăn khách khác của ông là « Seduces me » mà ông đã viết cho Céline trên album « Falling Into You ». Nhờ thành công vượt trội của album tiếng Anh thứ tư của Céline Dion với hơn 32 triệu bản được bán trên thế giới, Dan Hill được trao giải Grammy  năm 1996 với tư cách nhà đồng sản xuất album cho Céline Dion.  Ngoài giải Grammy này, ông còn nhận được sau này nhiều giải thưởng danh giá khác, trong đó có 5 giải Juno của Canada. Trong suốt những năm 1990, Dan Hill ít còn thu thanh các bài hát của mình mà chủ yếu tập trung vào việc sáng tác cho một số ca sĩ nổi tiếng thời bấy giờ như Britney Spears, Backstreet Boys, George Benson hay Reba McEntire .....  Album phòng thu gần đây nhất của ông là  « On the Other Side of Here » được phát hành vào năm 2021, hầu như vào cùng thời điểm ông được vinh danh tại Đại sảnh Danh vọng các tác giả và nhà soạn nhạc Canada. Cũng như nhiều đồng nghiệp là Bruce Cockburn và Murray McLauchlan, Dan Hill thuộc vào hàng tác giả của Canada trưởng thành vào giữa những năm 1970, những người ban đầu chủ yếu  đi hát trong các quán cà phê nhỏ, các tụ điểm văn nghệ « bỏ túi », nhưng nhờ vào tài năng sáng tác và diễn  đạt, Dan Hill đã vươn lên thành một trong những ngôi sao sáng giá trên vòm trời âm nhạc.
Trong số những bài hát gắn liền với tên tuổi của Elvis Presley, The Wonder of You từng  được ông hoàng nhạc rock, thu âm trực tiếp khi hát live và biểu diễn thường xuyên trên sân khấu. Tuy không phải là người đầu tiên hát bài này, nhưng bản ghi âm của Elvis được xem là hay hơn nhiều so với bản gốc. Do nhạc sĩ Baker Knight sáng tác, bài hát này ban đầu được ca sĩ Vince Edwards thu thanh vào năm 1958, nhưng không hiểu vì sao bản ghi âm lại không bao giờ được phát hành trên băng đĩa. Một năm sau đo, đến phiên ca sĩ Ray Peterson vào phòng thu thanh rồi phát hành bản ghi âm này lần đầu tiên dưới dạng đĩa đơn. Bài hát đã ăn khách nhanh chóng, lọt vào bảng xếp hạng Billboard của Mỹ, rồi chinh phục hai thị trường Canada và v ương quốc Anh. Cũng trong năm 1959, bài hát The Wonder of You lại thành công trên thị trường Anh với một bản thu âm khác của Ronnie Hilton. Bản nhạc này sau đó xuất hiện vào năm 2017 trong mùa thứ hai của loạt phim truyền hình "The Crown" nói về hoàng gia Anh. Nhưng bài hát ăn khách đầu tiên vẫn là bản ghi âm của Ray Peterson. Trong một cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh bang Tennessee, Ray Peterson cho biết tác giả Baker Knight từng tâm sự rằng : The Wonder of You ban đầu được sáng tác như một bản nhạc phúc âm và như vậy tựa đề bài hát gốc, có nghĩa là "Điều kỳ diệu của Ngài" : trong mắt dân sùng đạo, Đức Chúa luôn là hiện thân của tình yêu tối cao. Hơn một thập niên sau ngày phát hành phiên bản đầu tiên, đến phiên Elvis Presley thu âm trực tiếp bài The Wonder of You trên sân khấu Las Vegas, vào đầu những năm 1970. Bản nhạc này sau đó được đưa vào album live của anh, rồi được phát hành dưới dạng đĩa đơn vào mùa xuân năm 1970. Lôi diễn đạt của Elvis Presley nâng bài hát lên một tầm cao mới. The Wonder of You là một trong những bản thu âm thành công nhất của Elvis tại Vương quốc Anh, giành lấy vị trí quán quân trong sáu tuần liên tục tại Anh và Ai Len, đồng thời lọt vào Top Ten thị trường Bắc Mỹ : hạng 9 tại Hoa Kỳ, hạng 7 tại Canada. Trước khi thu âm nhạc phẩm The Wonder of you, Elvis từng gọi điện cho Ray Peterson và hỏi rằng : điều đó có làm phiền anh không ? Ray Peterson trả lời : khi đã là ông hoàng Elvis, thì không cần phải xin phép ai cả. Elvis khiêm nhường với đàn anh : dù gì đi nữa, tôi phải nói với anh một lời  ì anh là Ray Peterson. Ngoài thành công của ông hoàng Elvis, nhiều bản ghi âm khác đã ra đời, kể từ đầu những năm 1960, trong đó có các nhóm The Platters, The Sandpipers, The Lettermen …. Vào năm 2016, một phiên  bản hoàn chỉnh của bài hát The Wonder of You kết hợp giọng ca của Elvis với lốihòa âm của Dàn nhạc giao hưởng Hoàng gia Anh, được phát hành trên album tưởng niệm ông hoàng nhạc rock, qua nhiều bản phối mới. Hơn nửa thế kỷ sau ngày được phát hành, The Wonder of You tính đến nay đã có cả ngàn bản ghi âm trong 9 ngôn  ngữ. Trong tiếng Pháp bài này có hai lời khác nhau : phiên bản "Le meilleur de toi" của Jesse Garon và "Mes rêves d'enfant" của Frank Michael. Còn trong tiếng Việt, bản nhạc này từng có thêm nhiều lời : Lời đầu tiên "Tình như thoáng mây bay" của tác giả Nam Lộc do Thụy Anh ghi âm trên Băng nhạc trẻ số 7  vào năm 1974, và sau đó có phiên bản của Nhật Hạ. Lời thứ nhì là "Thế giới riêng em" qua phần trình bày của Elvis Phương.
« Roll with the Punches » hiểu theo nghĩa đen là di chuyển luồn lách để tránh những cú đấm, hiểu theo nghĩa bóng là ứng phó linh hoạt trước tình huống khó khăn. Sau ba năm vắng bóng, nam danh ca Bryan Adams đã chọn ca khúc này làm chủ đề cho album phòng thu thứ 16, được phát hành vào cuối mùa hè năm 2025. Trích đoạn đầu tiên và cũng là ca khúc chủ đề của album là một bản nhạc rock mạnh mẽ, Bryan Adams dùng hình tượng của võ sĩ quyền anh để nói về tinh thần bất khuất và khả năng phục hồi. Cho dù con người có vấp ngã hay bị hạ gục đo ván như thế nào, điều quan trọng chính là ý chí trỗi dậy sức bật đứng lên. Phải chăng Bryan Adams đang muốn nói về những khó khăn anh đang trải qua ? Dù gì đi nữa, sau khi hết hợp đồng với tập đoàn Universal, đây là album phòng thu đầu tiên với hãng đĩa (Bad Records) do chính Bryan Adams thành lập và phát hành, mở ra một giai đoạn mới trong sự nghiệp dài hơn bốn thập niên. Trung thành với nhóm sáng tác của mình (các nhà soạn nhạc Jim Vallance, Mutt Lange và Eliot Kennedy), Bryan Adams dường như đã muốn chọn một hướng đi khá an toàn. Album phòng thu thứ 16 bao gồm 10 sáng tác mới, phiên bản cao cấp « deluxe » lên tới 20 bài, như thể đây là một album đôi, Nhìn chung, đây là bộ sưu tập xen kẽ những ca khúc nhạc rock với giai điệu lôi cuốn và khá dễ nhớ như « Make up your mind » (Quyết định dứt khoát),  « Never ever let you go » (Đừng để người đi), « A Little more understanding » (Cần hiểu nhau hơn) với những tình khúc sâu lắng êm dịu như « Two arms to hold you » (Ôm em trong đôi tay), « Love is stronger than hate » (Tình yêu mạnh hơn hận thù) hay « Will we ever be friends again » (Liệu còn làm bạn với nhau) nhiều ca khúc kinh điển được chơi theo phong cách acoustic, trái với những bản nhạc mở đầu dồn dập dũng mãnh. Song song với album phòng thu thứ 16, Bryan Adams tiếp tục cho phát hành trên mạng các bản nhạc nổi tiếng của mình, thông qua bộ sưu tập kinh điển « Classic Part I & II » cũng như cho tái bản những bài ghi âm lại trên album « Track of my years », trong đó anh trình bày lại khá nhiều giai điệu nổi tiếng của Chuck Berry, Ray Charles, The Beach Boys, The Beatles hay Bob Dylan ….. Thành danh trong làng nhạc từ giữa những năm 1980, Bryan Adams từng được tạp chí Billboard của Mỹ xếp vào trong danh sách 50 nghệ sĩ có tầm ảnh hưởng lớn trong làng nhạc rock quốc tế. Trong vòng 40 năm sự nghiệp, anh đã đoạt giải thưởng âm nhạc của Mỹ và 20 giải Juno của Canada. Bản nhạc gắn liền với tên tuổi của anh vẫn là ca khúc chủ đề « Everything I do, I do it for You » viết cho bộ phim « Robinhood » (Robin, hiệp sĩ rừng xanh) với thần tượng Kevin Costner trong vai chính. Bài này từng lập kỷ lục số bán trên thị trường quốc tế với hơn 15 triệu bản, và nhờ vậy đem về cho anh giải Grammy 1992 dành cho ca khúc nhạc phim hay nhất. Bài hát sau đó đã có thêm nhiều bản phóng tác trong 19 ngôn ngữ khác nhau, kể cả tiếng Tiệp, tiếng Ý, Pháp, Đức, Hà Lan hay Hungary. Còn trong tiếng Việt bài từng được đặt lời với tựa đề « Tất cả cho anh » do danh ca Thanh Lan ghi âm. Dịu dàng ngụm nước ấm, ngọt ngào muỗng mật ong Ngoài thành công rực rỡ của nhạc phẩm « Everything I Do, I Do It For You », Bryan Adams còn là tác giả của nhiều bản ghi âm ăn khách khác. Anh từng chinh phục giới phê bình với album « Reckless » phát hành vào năm 1984, giành lấy hạng đầu Hoa Kỳ và Canada, hạng nhì thị trường châu Âu, để rồi vươn lên vòm trời nhạc rock như một trong những ngôi sao sáng chói thời bấy giờ (Heaven, Somebody, Summer of '69). Bryan Adams có đủ bản lĩnh, chất giọng đanh thép, cứng cựa để không bị lép vế khi thu âm chung (It’s only love) với nữ hoàng nhạc rock Tina Turner. Nổi tiếng nhờ chất giọng khàn độc đáo khó thể nhầm lẫn với những giọng khàn khác trong phái nam như Bruce Springsteen, Rod Stewart hay Joe Cockers, Bryan Adams thực ra có âm vực tương đương với một giọng nam cao với âm sắc trữ tình, cho nên anh từng được mời hát chung với Pavarotti trên sân khấu (năm 1994) mà không hề bị hụt hơi, đuối sức. Thế nhưng trong cách luyện giọng, Bryan Adams do chuyên hát nhạc rock, cho nên anh cố tình làm nổi bật những khía cạnh đứt gẫy, thô ráp, gai góc của một giọng nam cao. Có lẽ cũng vì thế nhiều nhà phê bình từng ví von so sánh giọng hát chai sạn của Bryan Adams như một « sandpaper tenor », giống như tờ giấy nhám có thể mài mòn, cho đến khi thân gỗ thật nhẵn nhụi, phiến đá thật mịn màng. Nơi danh ca Bryan Adams, giai điệu luôn được mài giũa trau chuốt, còn giọng hát không chỉ khỏe khoắn dũng mãnh, mà còn có thêm nét uyển chuyển với thời gian và chiều sâu theo năm tháng. Nổi tiếng nhờ làn hơi mạnh mẽ, giọng khàn mà vẫn trong sáng, lối diễn đạt của Bryan Adams lại càng có có duyên khi anh thử hát nhè nhẹ khe khẽ, mài bóng những nốt trầm. Một chất giọng gọi là « giấy nhám », nhưng vẫn rót vào trong tâm, chút dịu dàng ngụm nước ấm, chút ngọt ngào muỗng mật ong.
« Here You are » là tựa đề tập nhạc mới của Anne Murray, vừa được phát hành vào mùa thu năm 2025. Bao gồm 11 tình khúc chưa từng được phổ biến trước đây, tuyển tập này là album phòng thu thứ 33 đánh dấu nửa thế kỷ sự nghiệp của nữ danh ca người Canada. Sinh trưởng tại bang Nova Scotia (Nouvelle-Écosse), bán đảo miền đông Canada, Anne Murray khởi nghiệp hát vào năm 20 tuổi để rồi thành danh ở nước ngoài vài năm sau đó. Vào đầu thập niên 1970, nhờ giành lấy hạng nhất thị trường Canada và Hoa Kỳ với giai điệu « Snowbird » nổi tiếng, Anne Murray cùng với Joni Mitchell (nhạc phẩm Clouds) là hai giọng ca nữ đầu tiên đến từ Canada nhận đề cử giải Grammy, mở đường sau đó cho Shania Twain và nhất là Céline Dion chinh phục thị trường quốc tế. Tuy gọi là tập nhạc mới, nhưng album phòng thu thứ 33 « Here You Are » của Anne Murray thực ra bao gồm những bài hát chưa từng được phát hành trên băng đĩa, được thu âm trong giai đoạn từ năm 1978 đến năm 1995. Được điều hành bởi nhà sản xuất Bob Rock và nhà hòa âm Adam Greenholtz (từng đoạt giải Grammy và Juno với các nghệ sĩ Bon Jovi, Metallica hay LeAnn Rimes...), album phòng thu này chủ yếu dành cho giới hâm mộ, thích sưu tầm những bản ghi âm hiếm có. Theo lời danh ca Anne Muray, sáng kiến tập hợp lại những bài hát chưa được phổ biến, thực sự đến từ giới hâm mộ trung thành. Sau khi xem đợt biểu diễn của Anne Muray tại Las Vegas năm 2008, một số fan lưu ý với bà rằng có một số bản nhạc hay (trong giai đoạn những năm 1978-1995) nhưng chưa từng được phát hành trên thị trường, đó chủ yếu là những bài hát từng được ghi âm cho nhiều dự án khác nhau, nhưng rốt cuộc lại không lọt vào album phòng thu nào, có lẽ là do vấn đề tác quyền hoặc không hợp với chủ đề ấn định của từng album. Đó là trường hợp của « Rest Easy (In my Love) » đoạn nhạc đầu tiên trích từ album này, bài hát được thu âm vào mùa xuân năm 1989, đáng lẽ ra được đưa vào tuyển tập chọn lọc thứ nhì « Greatest Hits Volume II », nhưng rốt cuộc bài hát lại bị gạch tên khỏi danh sách, có lẽ cũng vì bộ tuyển tập phát hành trên CD bị hạn chế về thời lượng. Một ca khúc nổi bật khác « Heaven In My Heart » lần đầu tiên được người em trai (Bruce Murray) của Anne Murray thu âm vào năm 1984 cho hãng đĩa Capitol Records, giờ đây có một phiên bản thứ nhì với giong ca của Anne như một lời nhắn nhủ, người em quá cố. « How about goodbye » cũng là một lời « giã từ », tưởng nhớ do nhạc sĩ Thom Schuyler sáng tác. Ông từng được vinh danh tại Đại sảnh Danh vọng Nashville do sáng tác nhiều bản nhạc ăn khách cho các danh ca như Kenny Rogers hay John Conlee. Giai điệu « Gone » nhẹ nhàng sâu lắng làm sống lại bản nhạc country kinh điển của Ferlin Husky, từng giành lấy hạng đầu thị trường nhạc đồng quê vào năm 1957, được Anne Murray ghi âm lại vào cuối thập niên 1980, ban đầu được lên lịch phát hành nhưng rồi cũng bị xóa tên do chưa chọn đúng thời điểm. Cuối cùng, nhạc phẩm « Straight From the Heart » ban đầu được thu âm cho album phòng thu thứ 21 « Heart Over Mind » vào năm 1984. Đây là bản ghi âm lại từ tác phẩm kinh điển của Bryan Adams, lần này với giọng hát của hai mẹ con Anne và Dawn Murray. Bản thân hai nghệ sĩ Canada Anne Murray và Bryan Adams đã nhiều lần ghi âm với nhau trong phòng thu, rồi hát chung trên sân khấu để gây quỹ từ thiện. Trong vòng nửa thế kỷ sự nghiệp, Anne Murray đã bán được hơn 50 triệu album trên thế giới. Có thể nói, Joni Mitchell là gương mặt tiên phong của dòng nhạc blues folk, trong khi Anne Murray đã mở đường cho lớp nghệ sĩ sau người Canada như Céline Dion, Shania Twain, Sarah McLachlan hay Alanis Morissette... trong các dòng nhạc country, folk hay pop rock. Trong giai đoạn huy hoàng của sự nghiệp, từ năm 1974 đến 1995, Anne Murray đã đoạt 4 giải Grammy dành cho giọng ca nữ xuất sắc, bên cạnh đó còn có hàng loạt giải thưởng âm nhạc Mỹ American Music Award và nhạc đồng quê Country Music Award. Anne Muray cũng là người nắm giữ kỷ lục với 26 giải thưởng Juno của Canada. Trong năm 2025, ban tổ chức giải này đã vinh danh Anne Murray với giải Thành tựu sự nghiệp, nhân dịp sinh nhật lần thứ 80 của nữ danh ca. Một trong những album xuất sắc của Anne Muray là album song ca với những nghệ sĩ huyền thoại « Duets : Friends & Legends » được phát hành vào năm 2007, trong đó có bài « You needed me », từng được nhiều nghệ sĩ ghi âm lại kể cả Boyzone, Patti Page, Kenny Rogers hay Dana Winner. Bài này giúp cho Anne đoạt giải Grammy và giành lấy hạnh nhất thị trường Bắc Mỹ. Trong tiếng Việt, bản nhạc từng có nhiều lời khác nhau. Lời đầu tiên « Cần có anh yêu » là của tác giả Phạm Duy qua phần ghi âm của ca sĩ Ngọc Lan. Lời thứ nhì « Tình nồng » qua cách đặt lời của Huy MC và do Thu Phương trình bày, lời thứ ba « Ta cần có nhau » là của tác giả Nguyễn Hoàng Đô qua phần trình bày của nữ ca sĩ Thái Hòa. Album phòng thu thứ 33 với tựa đề « Here you are » mang tính bổ sung cho một sự nghiệp lẫy lừng của một trong những tên tuổi hàng đầu trong làng nhạc Canada. Không hiểu vì sao nhiều bản nhạc hay lại bị chôn vùi một cách « vô duyên », như thể thời cơ vẫn chưa đến. Album này tạo cơ hội cho người hâm mộ khám phá những giai điệu từng bị gạt qua một bên, để rồi suýt nữa dần chìm vào lãng quên.
Trong vòng nửa thế kỷ nhạc Pháp tính từ những năm 1960, hầu như thập niên nào cũng có một bản nhạc thuộc vào hàng kinh điển của tác giả Michel Jourdan. Nổi tiếng trước hết nhờ cái tài đặt lời, Michel Joudan còn đồng sáng tác nhiều giai điệu ăn khách. Tài năng ấy giờ đây không còn nữa. Ông đã từ giã cõi đời hôm 29/09/2025 tại nhà riêng ở miền nam nước Pháp, hưởng thọ 91 tuổi. Ngày ông vĩnh viễn ra đi, Michel Jourdan (1934-2025) đã để lại một sự nghiệp đồ sộ. Với hơn ba ngàn ca khúc đủ loại, ông thuộc vào nhóm « Tứ Trụ » của làng nhạc Pháp, bên cạnh các tên tuổi lớn như Pierre Delanoë, Eddy Marnay hay Claude Lemesle. Nhắc đến người bạn sáng tác, nam danh ca Aznavour nói rằng dù không biết nhưng giới yêu nhạc Pháp khắp nơi vẫn từng hát những điệp khúc của Michel Jourdan. Không phải ngẫu nhiên khi đến tuổi xế chiều, Michel Jourdan đã chọn câu nói này làm tựa đề cho quyển hồi ký của mình : « Mes refrains font chanter le monde » (Thế giới hát những điệp khúc của tôi). Sinh trưởng tại thành phố Nice, Michel Jourdan từ thuở thiếu thời, đã có năng khiếu viết lách. Ông chủ yếu tự học chứ không được đào tạo bài bản qua trường lớp. Theo lời khuyên của nhà văn Louis Nucéra, ông rời miền nam nước Pháp, đến Paris lập nghiệp. Thời gian đầu rất khó khăn, nhất là đối với một tác giả vào đời với hai bàn tay trắng. Để kiếm sống, ông làm đủ mọi công việc, nhưng tất cả những gì ông viết lúc bấy giờ : bài hát, tập thơ hay truyện dịch đều bị các nhà xuất bản từ chối. Cho đến ngày Michel Jourdan gặp nhà sản xuất Gilbert Marouani. Vào lúc ấy, ông Marouani đang tìm người phóng tác sang tiếng Pháp các bài hát ăn khách nhân kỳ liên hoan ca nhạc Sanremo. Trong số những tác giả cùng tham gia đặt lời cho bản nhạc "Una lacrima sul viso" (Giọt lệ trên khuôn mặt) của Bobby Solo, bản phóng tác tiếng Pháp của Michel Jourdan được cho là xuất sắc hơn cả : vì ông chẳng những có một ngòi bút, mà còn có thêm năng khiếu âm nhạc. Trong cách đặt lời, ông là người đã tìm được cách đảo câu xếp chữ, sao cho lời ca nghe thật lọt tai. « Una lacrima sul viso » trong tiếng Pháp trở thành « Sur ton visage, une larme » thay vì « Une larme sur ton visage ». Được phát hành vào năm 1964, bản nhạc này là thành công lớn đầu tiên của Michel Joudan, mở đường cho ông hợp tác với nhiều ca sĩ trứ danh thời bấy giờ như Marie Laforêt, Claude François hay Richard Anthony …. Nhân vật quan trọng đã giúp đỡ nhiều Michel Jourdan trong giai đoạn đầu chính là nam danh ca Charles Aznavour, người mà ông xem như bậc thầy. Danh ca này khuyên ông đọc sách cho thật nhiều, kể cả đọc các quyển từ điển, vì điều quan trọng đối với một tác giả chuyên viết ca khúc là từ vựng cần sự phong phú, chữ đồng nghĩa phải dồi dào để tránh lặp đi, lặp lại. Nhờ vào nỗ lực này, ngòi bút của Michel Jourdan đã giúp cho ca sĩ Calogero đoạt giải thưởng nhạc Pháp Victoires de la Musique vào năm 2005, dành cho ca khúc hay nhất : « Si seulement je pouvais lui manquer » (Giá như người có thể nhớ ta). Với hơn 3.000 bài hát trong nửa thế kỷ sự nghiệp, Michel Jourdan đã sáng tác cho ít nhất ba thế hệ ca sĩ. Khó thể nào liệt kê được hết những bài hát ăn khách của ông. Chỉ cần biết rằng tên tuổi của ông gắn liền với nhiều giai điệu kinh điển như « Dis lui » Feelings (Nỗi sầu) hay Rien qu'une larme (Chỉ cần một giọt lệ) của Mike Brant, « Roule s'enroule » (Tình nồng cháy) của Nana Mouskouri) cũng như rất nhiều bản nhạc phóng tác sang tiếng Pháp như Vous les femmes, Viens m'embrasser, C'est ma vie, (Hey) Il faut toujours un perdant …. mà ông đã dành cho ông hoàng Julio Iglesias. Đối với một tác giả cống hiến cho âm nhạc trọn cuộc đời, Michel Jourdan đã để lại nhiều bài hát tuyệt vời. Làng nhạc Pháp từ nay vắng bóng một người, nhưng giới hâm mộ vẫn còn nhớ mãi điệp khúc ngàn lời.
Les meilleures chansons (Những bài hát hay nhất) là tựa đề bộ tuyển tập vừa được phát hành trong tháng này của Aznavour, trong đó có ba ca khúc chưa từng được phổ biến. Bao gồm tổng cộng 44 bài hát, bộ đĩa CD này được cho ra mắt công chúng vào mùa thu, nhân dịp kỷ niệm 7 năm ngày danh ca người Pháp gốc Armenia qua đời (ông mất vào ngày 1/10/2018, ở tuổi 94). Giai điệu đầu tiên trích từ tuyển tập là bản song ca với ca sĩ nổi tiếng người Ý Dalida. Hai nghệ sĩ này đã thu âm nhạc phẩm « Quand on s'aime » (Khi ta yêu nhau) cho một chương trình truyền hình Pháp vào năm 1967, xen kẻ giọng ca và lời thoại. Trong kho lưu trữ cá nhân của Aznavour, được gia đình ông nhượng quyền khai thác cho hãng đĩa Universal, công ty thu âm này đã phát hiện nhiều bản ghi âm thử (demo), trong đó có một băng cát sét ghi âm giai điệu bản nhạc « Khi ta yêu nhau » kèm theo một số lời hướng dẫn dành cho Dalida. Hai danh ca Aznavour và Dalida lần đầu tiên cùng đi biểu diễn với nhau là vào năm 1957. Vào thời bấy giờ, ông đã sáng tác một số ca khúc quan trọng cho cô : « Aie mourir pour toi » và « Pour te garder ». Vào đầu những năm 1970, như một lời tri ân dành cho người bạn diễn trung thành, Dalida đã lén thu âm nhạc phẩm « La Mamma » (Mẹ hiền) cho một chương trình truyền hình mà theo dự kiến Charles Aznavour là khách mời quan trọng. Nhưng vì danh ca Aznavour đang bận lưu diễn tại Nhật Bản, bị trễ chuyến bay nên không về kịp, nên rốt cuộc ca khúc này bị bỏ quên, vẫn chưa được phổ biến. Mãi đến nhiều năm sau khi Dalida qua đời, phiên bản « La Mama » của nữ danh ca mới được phát hành trên bâng đĩa, vào năm 1996. Ca khúc thứ hai trên tuyển tập chọn lọc cũng là một bản song ca của nhạc phẩm « La Mamma » (Mẹ hiền) nhưng dưới dạng phóng tác tiếng Anh « For Mama », được Aznavour thu âm vào năm 1974 với ông hoàng nhạc blues Ray Charles. Ngoài đời, hai nghệ sĩ này rất qúy mến nhau. Họ thậm chí còn bàn đến việc thực hiện một album chung, nhưng dự án này rốt cuộc vẫn không thành. Sinh thời, Aznavour đã có một sự nghiệp lẫy lừng tại Hoa Kỳ. Ông đã hát chung với nhiều nghệ sĩ trên sân khấu như Frank Sinatra, Liza Minnelli, Paul Anka, hay Elton John (Yesterday when I was young) nhưng trong số những nghệ sĩ này, Ray Charles có lẽ là người ngưỡng mộ Aznavour nhiều nhất. Sau khi ghi âm phiên bản phóng tác « Il est mort le soleil » (Nắng đã tắt /The sun died) của Nicoletta, Ray Charles đã ngỏ lời hợp tác với Aznavour trên giai điệu tiếng Anh của nhạc phẩm « La Mamma ».     Ca khúc chưa phát hành cuối cùng là bản phóng tác của nhạc phẩm « Que c'est triste Venise ». Bài hát này từng ăn khách vào năm 1964. Nhưng sau khi có nhiều người hâm mộ ghi nhận là bài hát có nội dung rất buồn, nói về một mối tình tan vỡ. Cho nên sau đó, Aznavour mới thu lại một phiên bản khác với lời ca lạc quan hơn, trong khi bản nhạc được đệm theo một bản phối mới. « Que c'est triste Venise » (Sao Venise buồn quá) trở thành « Que c'est joli Venise » (Sao Venise xinh quá) mô tả thành phố thơ mộng trên nước, trong mắt của những người đang yêu nhau, chứ không phải đã chia tay rồi. Aznavour từng ghi âm bài này dưới dạng song ca với ông hoàng nhạc La Tinh Julio Iglesias. Ngoài 3 ca khúc chưa phổ biến, tuyển tập chọn lọc còn có nhiều bản nhạc hay khác như « L'amour c'est comme un jour » (Tình như ngày vội đi), « Mourir d'aimer » (Được chết vì yêu) hay « Hier Encore » (Mới hôm qua). Bản nhạc này từng có nhiều lời tiếng Việt : « Ngày hôm nao » qua cách đặt lời của tác giả Phạm Duy do Elvis Phương trình bày. Phiên bản thứ nhì là « Tiếc thương ngày qua » do Trung Hành ghi âm. Giai điệu trầm buồn của « Hier Encore » đánh thức trong tim bao nỗi niềm trong đêm vắng canh dài. Thời xuân xanh nuôi bao khát vọng vĩ đại, nhưng lời bài hát kéo ta về chốn thực tại. Giấc mơ ngày xưa nay thành tiếng thở dài, khi ta thoáng nhìn chút quãng đời còn lại.
Trong số những bản nhạc hay từng được Dalida ghi âm vào đoạn cuối cuộc đời, có giai điệu « Il pleut sur Bruxelles » (Mưa trên phố Bruxelles). Được phát hành vào năm 1981, nhân dịp 25 năm sự nghiệp ca hát, bài hát này tựa như lời tri ân mà Dalida đã muốn dành cho bậc đàn anh là thần tượng người Bỉ Jacques Brel. Ông đã qua đời vài năm trước đó, sau một thời gian dài chống chọi với bệnh ưng thư phổi. Khi căn bệnh quái ác bùng phát dữ dội vào giữa những năm 1970, Jacques Brel lúc bấy giờ linh tính rằng mình sẽ khó mà tai qua nạn khỏi, nên ông quyết định thực hiện giấc mơ của một đời người. Ông mua một chiếc du thuyền rồi cùng với vợ Maddly Bamy xuôi buồm du ngoạn đến tận những phương trời xa xăm. Sau hai tháng lênh đênh trên biển, Jacques Brel cập bến quần đảo Marquises (Polynesia thuộc Pháp) ở phía nam Thái Bình Dương. Hồi tưởng lại chuyến đi biển này, ông nói 60 ngày là một khoảng thời gian khá dài, đi thuyền buồm trong khi trời lại vắng gió, biển im sóng lặng khiến ông phải ráng sức chịu đựng, rèn tính kiên nhẫn. Cuối tháng 11 năm 1975, Jacques Brel quyết định ở lại trên hòn đảo Hiva Oa, nơi mọi người đều biết nói tiếng Pháp nhưng vì rất xa xôi nên chẳng ai biết danh ca Jacques Brel là ai : quần đảo Marquises nằm cách thủ đô Paris gần 16.000 cây số, trong khi các phương tiện truyền thông thời bấy giờ chưa được phổ biến rộng rãi. Tưởng đâu chỉ là một trạm dừng, nhưng rốt cuộc nam danh ca người Bỉ chọn sống phần đời còn lại tại ngôi làng Atuona, trên đảo Hiva Oa thuộc quần đảo Marquises. Những bài hát cuối cùng được Jacques Brel sáng tác để ca ngợi nơi ông gọi là « một góc thiên đường » trong chương cuối cuộc đời. Vào mùa thu năm 1978, sau ba năm trời chịu đựng căn bệnh ung thư phổi, Jacques Brel vĩnh biệt cõi trần dù chỉ mới 49 tuổi. Ngày nam danh ca Jacques Brel vĩnh viễn ra đi, rất nhiều người hâm mộ bàng hoàng thương tiếc, trong đó có tác giả khá nổi tiếng thời ấy là Michel Jouveaux (ông vào nghề viết nhạc từ năm 1973). Theo lời kể của tác giả, ông ngẫu hứng sáng tác một bài hát mà trong đó mỗi lời có nhắc đến những địa danh có thật nơi danh ca người Bỉ từng ghé qua (Amsterdam, Ostende, Vesoul, Bruxelles) hoặc những nhân vật hư cấu do Jacques Brel tạo ra lúc sinh thời. Dù có mòn mỏi chờ đợi, nhưng những nhân vật này (Mathilde, Frida, Marieke, Fanette, Jojo, Fernard, Jacky .....) vẫn không thể hình dung nổi người có ơn khai sinh họ nay đã qua đời, biến họ thành những kẻ mồ côi. Điểm khởi đầu của bài hát vẫn là do cảm xúc ngậm ngùi, nên tác giả Michel Jouveaux mới chấp bút thành lời. Khi ông đưa lời ca cho nhạc sĩ Jeff Barnel, thì lúc ấy hai người mới soạn ra một giai điệu theo kiểu đo ni đóng giày cho Dalida, với sự đồng ý của nhà sản xuất Orlando, em trai của nữ danh ca. Vào thời bấy giờ, sau hai thập niên hát nhạc nhẹ (các bản nhạc rất dễ nghe), Dalida chuyển qua hát những sáng tác được xem là có chiều sâu : Avec le temps của Léo Ferré (1971), Je suis malade của Serge Lama (1973), La Mama của Aznavour (1976) và trước khi có giai điệu tưởng nhớ "Mưa trên phố Bruxelles" (Il pleut sur Bruxelles), Dalida đã từng hát lại bản Quand on n'a que l'amour (Khi ta chỉ có tình yêu) của bậc đàn anh Jacques Brel.  Trên album phòng thu đánh dấu 25 năm sự nghiệp, Dalida đã ghi âm khá nhiều bản nhạc ăn khách như « Fini, la comédie » hay « Marjoliane ». Một số bài từng được đặt thêm lời Việt như « Une femme à 40 ans » (Vào thu nửa đời) do Phạm Duy sáng tác và Julie trình bày. « À ma manière » (Sống đời riêng tư) lời của Lê Toàn, do Thanh Hà diễn dạt. Riêng nhạc phẩm « Il pleut sur Bruxelles » được chuyển sang lời Việt thành « Tình đến rồi đi » và từng được nhiều nghệ sĩ ghi âm lại như Thanh Trúc, Khánh Hà, Don Hồ và nhất là Ngọc Lan. Để hiểu rõ ý nghĩa của « Mưa trên phố Bruxelles » (Tình đến rồi đi), phải nhìn vào thủ pháp của tác giả Michel Jouveaux, đối chiếu hai vế hư cấu và thực tế : nhân vật hư cấu quanh quẩn lạc lõng như thể bị kẹt trong không gian âm u, khi trên hàng phố khói sương giăng lối, gió mưa mịt mù. Trong khi danh ca Jacques Brel đã tìm được cho mình một hải đảo tươi xanh dưới bầu trời thiên thanh, mộng lành trong giấc ngủ, yên sóng biển nghìn thu.
Giai điệu « The Power of Love » (Mãnh lực tình yêu) là bài hát đầu tiên giúp diva nhạc pop người Canada Céline Dion giành lấy hạng nhất thị trường Mỹ vào đầu năm 1994. Bản nhạc gốc là của ca sĩ Jennifer Rush, được phát hành một thập niên trước đó (cuối năm 1984) hầu như vào cùng một thời điểm với nhạc phẩm cùng tên của nhóm Frankie goes to Hollywood. Trong vòng bốn thập niên, bản nhạc « The Power of Love » (Mãnh lực tình yêu) đã có đến hàng trăm phiên bản khác nhau. Trước Céline Dion, nhiều giọng ca trứ danh khác đã thu thanh lại bài này chẳng hạn như ban nhạc Air Supply, Engelbert Humperdinck, Laura Branigan, Nana Mouskouri, Martine Chevrier với phiên bản song ngữ Anh-Pháp « Le Pouvoir de l'Amour » ….. Gần đây hơn nữa, bộ tứ Il Divo đã ghi âm lại giai điệu « The Power of Love » chủ yếu bằng tiếng Tây Ban Nha theo lối hòa âm bán cổ điển. Bài hát này được trích từ album phòng thu thứ 10 của nhóm, với tựa đề « XX » được viết theo chữ số cổ đại La Mã, đánh dấu đúng hai thập niên ngày ban nhạc được thành lập. Với « Mãnh lực tình yêu », nhóm Il Divo cất cánh trở lại với vòng lưu diễn vòng quanh thế giới. Sau các chặng dừng ở Nam Mỹ trong tháng mười, nhóm này sẽ ghé châu Âu biểu diễn vào cuối năm 2025. Album với tựa đề « XX » được phát hành chẳng những để kỷ niệm 20 năm ngày nhóm này ra đời, mà còn đánh dấu sự thay đổi với một thành viên mới. Hai năm sau ngày thành viên gốc Carlos Marin qua đời, nhóm Il Divo đã chính thức kết nạp người thay thế là giọng ca nam trung trầm Steven LaBrie, năm nay 37 tuổi. Sinh trưởng tại Dallas, bang Texas, anh từng tốt nghiệp Nhạc viện thành phố Philadelphia và đoạt nhiều giải thưởng nhân các cuộc thi hát opera tại Mỹ (Washington DC, Dallas, Palm Beach …..) Anh từng dạy thanh nhạc tại trường cao đẳng Juilliard và được tạp chí Opera News xếp vào danh sách 10 giọng nam trung trữ tình, xuất sắc của nước Mỹ. Ngoài các giai điệu thính phòng cổ điển, anh còn có sở trường hát nhạc tình tiếng Tây Ban Nha, do mẹ anh là người Mexico. Về phần mình, Jennifer Rush (tên thật là Heidi Stern) thời niên thiếu cũng từng học nhạc tại trường Juilliard. Xuất thân từ một gia đình nghệ sĩ ở Queens,New York, thân phụ là danh ca tenor Maurice Stern, mẹ cô Barbara là nghệ sĩ dương cầm và hai người anh trai (Robert & Stephen Stern) đều là nhạc sĩ chuyên nghiệp, Jennifer theo gia đình sang Đức sinh sống một thời gian, khi cha cô được tuyển làm giọng ca nam chính tại Nhà hát lớn Flensburg (Städtische Bühnen Flensburg), khởi đầu giai đoạn sự nghiệp thứ nhì của ông tại châu Âu. Khi vào nghề biểu diễn, Jennifer Rush chọn nhạc pop rock chứ không đeo đuổi dòng nhạc cổ điển như song thân. Cô ký hợp đồng thu âm với chi nhánh Đức của hãng đĩa CBS, ban đầu với tên thật Heidi Stern, và sau đó lấy nghệ danh Jennifer Rush khi hợp tác với các nhà sản xuất người Đức Gunther Mende và Wolfgang Detmann (bút danh Candy DeRouge). Cùng với Mary Susan Applegate trong nhóm sáng tác, Jennifer đã viết nhạc phẩm « The Power of Love » để tặng người yêu của cô lúc bấy giờ (cựu sinh viên đại học Harvard Steven Engebretson). Hai người sau đó vẫn là bạn cho dù có chia tay nhau. Bản nhạc « The Power Of Love » thành công trên khắp châu Âu vào năm 1985, trở thành đĩa đơn bán chạy nhất mọi thời đại của một giọng ca nữ solo tại Vương quốc Anh. Jennifer nắm giữ kỷ lục này cho tới năm 1992, trước khi bị bản nhạc phim « I will always love You » của Whitney Houston) soán ngôi. Thành công vang dội của « The Power of Love » sau đó đã cho ra đời nhiều bản phóng tác giúp bài hát được phổ biến trên toàn thế giới. Bản nhạc này được ghi âm trong 15 ngôn ngữ, kể cả tiếng hindi và quan thoại. Còn trong tiếng Việt, bài này cũng đã có nhiều lời phóng tác khác nhau. Lời Việt đầu tiên « Mãnh lực tình yêu » là của tác giả Phạm Duy qua phần trình bày của Lưu Bích. Lời thứ nhì « Một đời xin nhớ mãi » của tác giả Khúc Lan do Thanh Hà ghi âm. Lời thứ ba là của tác giả Nguyễn Hoàng Đô qua phần diễn đạt của Hồng Nhiên. Cho dù đã có hàng trăm phiên bản khác nhau, nhưng dường như chưa có bài nào, kể cả bản thu thanh gần đây của nhóm Il Divo, có thể qua mặt được Céline Dion. Một giai điệu sâu lắng, có hồn nhờ vào lối diễn đạt, có thần nhờ bản phối thanh thoát. Nhờ sự cộng hưởng này, « The Power of Love » trở nên hay hơn bao giờ hết, bản ghi âm sau vượt trội bản gốc : Tình mạnh luồng dư âm, rung bình minh thì thầm, dịu dàng bao tiếng sấm, ướt đẫm mộng tình nhân …..  
« Dancin' All Night » (nguyên tác tiếng Nhật Danshingu Ooru Naito) là một ca khúc nhạc trẻ sôi động rất nổi tiếng cách đây 4 thập niên của ban nhạc rock người Nhật Monta & Brothers. Bài hát này từng được tác giả Anh Tài chuyển sang lời Việt thành nhạc phẩm với tựa đề « Bên nhau đêm này ». Thành danh tại Nhật Bản vào đầu những năm 1980, ban nhạc rock Monta & Brothers do nghệ sĩ Yoshinori Monta sáng lập. Bản hit đầu tay « Dancin' All Night » của họ đã bán được hơn 2 triệu bản chỉ riêng tại Nhật Bản và sau đó được phát hành rộng rãi trên thị trường châu Á, đặc biệt là tại Hồng Kông, Đài Loan và Singapore. Giọng hát trầm khàn của Yoshinori Monta (1951-2023) khi mới nghe lần đầu có phần hơi phản cảm, nhưng với thời gian, bài hát này lại trở nên rất quen thuộc với công chúng, nếu không nói là kinh điển trong mắt người hâm mộ. Tên thật là Yoshinori Kadota, ông Monta sinh trưởng trong một gia đình khiêm tốn, nguyên quán ở Honshu thuộc tỉnh Hyogo, miền trung nam Nhật Bản. Thời niên thiếu, khi còn đi học tại trường trung học Kobe, ông khám phá nhạc pop rock Anh-Mỹ,  trở thành một người hâm mộ cuồng nhiệt của nhóm Tứ Quái The Beatles. Cũng từ đó, ông nuôi mộng thành lập một ban nhạc trẻ chủ yếu chơi nhạc rock. Bất chấp lời khuyên của gia đình, ông  quyết định bỏ học trước khi thi tú tài và chọn nghề biểu diễn tại vùng Kansai vào cuối những năm 1960. Sự nghiệp âm nhạc của Monta khởi đầu trong gian nan. Ông tham gia vào nhiều ban nhạc, nhưng không có nhóm nào trụ lại được lâu. Monta quyết định tách ra riêng, ghi âm solo kể từ năm 1971. Tuy nhiên, sau gần một thập niên không có bản nhạc ăn khách nào, Monta nản chí, hầu như đành phải chấp nhận bỏ cuộc. Khi vào phòng thu thanh đầu năm 1980, có thể nói, ông Monta nghĩ rằng cơ hội này giống như ván bài cuối cùng của một tay chơi cờ bạc. Nhân dịp này, ông thành lập ban nhạc Monta & Brothers và cùng với nhóm thử ghi âm nhạc phẩm « Dancin' All Night » do ông soạn nhạc và do Keiji Mizutani viết lời. Tưởng chừng không còn hy vọng, nào ngờ bản nhạc này lại lập kỷ lục số bán khi được phát hành vào mùa xuân năm 1980. Ban đầu lọt vào bảng xếp hạng ở hạng 19, bài hát này sau đó đã nhảy vọt lên vị trí quán quân và ngự trị ở đầu bảng, trong 10 tuần liên tục. Ban nhạc Monta & Brothers gặt hái thêm nhiều thành công lớn nhân các buổi lễ trao giải thưởng âm nhạc của Nhật Bản, « Dancin' All Night » trở thành một trong những ca khúc được biểu diễn thường xuyên trong các phòng trà, hộp đêm tại Nhật Bản. Mặc dù ban nhạc đã tan rã vài năm sau, nhưng Monta vẫn tiếp tục sự nghiệp ghi âm solo và đi biểu diễn với các nhóm nhạc khác chủ yếu ở Kobe và Osaka. Vào mùa thu năm 2023, ông qua đời sau khi lâm bạo bệnh, hưởng thọ 72 tuổi. Bài hát « Dancin' All Night » cũng được các đài phát thanh vùng Kansai bình chọn là một trong những ca khúc tiêu biểu của làng nhạc pop rock Nhật Bản những năm 1980. Dù là fan của The Beatles, nhưng lối sáng tác bài hát « Dancin' All Night » vẫn đậm chất rock nhiều hơn là pop, dung hòa ảnh hưởng của hai nhóm Deep Purple cũng như của Santana. Khi chinh phục thị trường châu Á, « Dancin' All Night » trở nên nổi tiếng nhờ được đặt thêm nhiều lời khác nhau, trong đó có phiên bản tiếng Hoa của nữ ca sĩ người Đài Loan Thôi Thái Tĩnh và nam ca sĩ người gốc Mã Lai Vu Khải Hiền. Còn trong tiếng Việt, bài này được tác giả Anh Tài chuyển thành nhạc phẩm « Bên nhau đêm này » do nhiều nghệ sĩ ghi âm lại. Một khi được phóng tác sang tiếng Việt, «Dancin' All Nigt » nhờ vào các bản hòa âm theo nhịp điệu cha cha, lại trở thành tiêu biểu cho dòng nhạc khiêu vũ, dưới ánh đèn màu những giai điệu, lung linh trong đêm huyền diệu.
Ngoài là ca sĩ chuyên nghiệp, Patricia Carli còn là một tác giả quan trọng trong làng nhạc Pháp những năm 1970. Ngòi bút này từng sáng tác cho Nicoletta nhạc phẩm« Je n'pourrai jamais t'oublier » (Mưa trên biển vắng) hay bản ghi âm của Chistian de Lagrange « Sans toi je suis seul » (Mất em đời hoang vắng). Tên tuổi của bà còn gắn liền với giai điệu « La Tendresse » dịu dàng trầm lắng. Nhiều người yêu nhạc thường hay nhầm lẫn nhạc phẩm « La Tendresse » của Patricia Carli với bài hát cùng tên của Hubert Giraud viết cho Bourvil. Đôi khi cũng có sự nhầm lẫn về hai bản nhạc cùng tên « Sans toi je suis seul » (Mất em đời hoang vắng). Bài của Art Sullivan hát ở điệu si trưởng, còn phiên bản của Chistian Delagrange được hát ở điệu mi thứ. Trở lại với nhạc phẩm « La Tendresse » của Patricia Carli, bài hát này thành công vang dội vào năm 1972 qua bản ghi âm đầu tiên của Daniel Guichard. Trong làng nhạc Pháp, Daniel Guichard (sinh năm 1948) có một con đường sự nghiệp rất khác với nhiều nghệ sĩ cùng thời. Xuất thân từ một gia đình nghèo bố người Pháp, mẹ gốc Ba Lan, anh được tuyển làm nhân viên bốc hàng thời còn rất trẻ tuổi, ban ngày anh làm việc tại kho lưu trữ của hãng đĩa Barclay, ban đêm anh đi hát tại các quán nhạc phòng trà. Cho đến khi giọng ca của anh lọt vào tai của một nhà sản xuất, thì lúc bấy giờ, anh mới ký hợp đồng thu âm với hãng đĩa Barclay.  Ngoài thành công bước đầu với sáng tác của Patricia Carli, Daniel Guichard sau đó còn nhận được sự giúp đỡ của nam danh ca Christophe, từng viết cho Daniel nhạc phẩm « Faut pas pleurer comme ça » (Đừng khóc nhiều như thế). Vào năm 1974, Daniel lúc bấy giờ mới 25 tuổi, ghi âm lại bản nhạc « Mon vieux » (Cha tôi) của nam danh ca Jean Ferrat, sửa vài lời ca sao cho hợp với hoàn cảnh của gia đình anh. Bản nhạc này lập kỷ lục số bán vào mùa hè năm 1974, với chủ đề tình phụ tử chứ không nói về chuyện tình cảm riêng tư. Từ đó trở đi, Daniel Guichard xây dựng hình ảnh của một giọng ca trầm đầy nam tính, không chỉ hát nhạc tình mà còn những vấn đề xã hội, quan hệ trong gia đình.  Với hơn 23 album phòng thu trong hơn 4 thập niên sự nghiệp ghi âm, Daniel Guichard đã khẳng định mình là một trong những nghệ sĩ quang trọn nhất trong những thập niên 1970-1990. Có thể nói con đường âm nhạc của Daniel đi cùng một hướng với Michek Delpech và nhất là Michel Sardou, nhưng anh lại trở thành một nghệ sĩ độc lập (tự sản xuất) chứ không lệ thuộc vào bất cứ hãng đĩa nào. Tuy nhiên, có một điều mà ít ai được biết : Daniel Guichard thành danh với nhạc phẩm « La Tendresse », nhưng đó lại là một thành công bất ngờ, ngoài dự kiến. Theo lời của tác giả Patricia Carli, khi chấp bút sáng tác nhạc phẩm « La Tendresse », bà ban đầu nghĩ tới Mireille Mathieu. Đôi bên đã nhiều lần hợp tác với nhau, và trong giai đoạn những năm 1970-1973, bà đã viết khoảng 10 ca khúc ăn khách cho nữ danh ca người Pháp. Thế nhưng, đến khi gửi sáng tác mới (bài La Tendresse), bản nhạc này lại bị ông Johnny Stark, nhà quản lý của Mireille Mathieu từ chối. Lúc bấy giờ, tác giả mới thuyết phục Daniel Guichard ghi âm, nhưng phải chỉnh sửa lại một số ca từ vì bản nhạc ban đầu được viết từ góc nhìn của một người phụ nữ. Có một chi tiết khá thú vị khác là sau khi bản nhạc thành công rực rỡ trên thị trường Pháp, Mireille Mathieu mới quyết định ghi âm một phiên bản mới dưới dạng song ca của bài « La Tendresse » cho một show truyền hình của Maritie và Gilbert Carpentier. Nghệ sĩ được mời hát chung với Mireille Mathieu thời bấy giờ không ai nào khác, ngoài Julio Iglesias, ông hoàng nhạc tình La Tinh. Bản thân Julio Iglesias cũng đã ghi âm lại bài này vào năm 1978 với tựa đề « El Amor / O Amor » trong hai thứ tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Còn trong tiếng Việt, ca sĩ kiêm tác giả Duy Quang khi ghi âm lại bài này với danh ca Ngọc Lan, chủ yếu đặt thêm lời Việt theo bản phóng tác tiếng Tây Ban Nha, ca từ nói nhiều về tình yêu hơn là sự trìu mến âu yếm như trong nguyên tác tiếng Pháp.  Nhạc phẩm « La Tendresse » hiểu theo ngữ cảnh là khi ta không còn yêu, thì tình vẫn còn nghĩa. Cho dù ngọn lửa đam mê ban đầu đã dập tắt nhưng dòng nước con tim vẫn ngập bờ đôi mi, cho lời thì thầm bao « âu yếm », cho ánh mắt thêm « trìu mến », vì nghĩa tình vẫn chưa quên.
Mặc dù đã qua đời do tai nạn từ hơn 4 thập niên nay, nhưng Claude François cũng như Joe Dassin và Dalida là những giọng ca tiếp tục thành công sau ngày khuất bóng. Tên tuổi của những nghệ sĩ này còn nhiều hào quang nhờ vào những người thừa kế di sản, họ muốn duy trì ngọn lửa sáng thông qua những bộ sưu tập vàng. Sinh thời, Claude François là một trong những ngôi sao sáng của làng nhạc trẻ những năm 1960 tại Pháp. Sở trường của anh là hát những bản nhạc có nhịp điệu lôi cuốn, vì lúc mới vào nghề anh là một tay trống cừ khôi. Trong suốt sự nghiệp của mình, Claude François luôn đắn đo chọn lựa giữa hai con đường : một bên là dòng nhạc trẻ với những nhịp điệu sôi động, có nhiều triển vọng thành công nhờ tính thương mại phổ thông, còn bên kia là những bản nhạc được xem là dành cho người lớn, giai điệu hay ca từ đều được trau chuốt, nội dung bài hát cũng đa tầng hơn, có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Về điểm này, nhạc phẩm « Je sais » (hiểu theo nghĩa Ta biết rồi) do Claude François sáng tác vào năm 25 tuổi (1964), có thể được xếp vào hạng mục thứ nhì do có nội dung sâu sắc hơn và nhất là bản nhạc ra đời trong một hoàn cảnh éo le, đầy những tình tiết ly kỳ. Bài hát này từng được tác giả Phạm Duy chuyển thành nhạc phẩm « Cuộc tình tàn » do nhiều nghệ sĩ trong đó có Vũ Khanh hay Ngọc Lan ghi âm lại. Câu chuyện diễn ra vào năm 1959 tại miền nam nước Pháp, Claude François lúc ấy vừa tròn 20 tuổi vào nghề chơi nhạc như một ca sĩ và tay trống chuyên nghiệp. Tại dàn nhạc của Câu lạc bộ khiêu vũ Monaco, anh gặp cô Janet Woollacott, một vũ công người Anh, chuyên biểu diễn trong các phòng trà, hộp đêm tại các trạm nghỉ mát ven biển. Không lâu sau đó, đôi bạn trẻ này thành hôn với nhau. Trong giai đoạn đầu đời, hai tài năng mới đều thầm ước mơ trong tương lai sẽ có được một sự nghiệp sáng ngời. Chính cũng vì thế vào năm 23 tuổi (1962) cặp vợ chồng này mới chuyển đến Paris lập nghiệp. Claude đi hát show để kiếm tiền nhưng mãi đến hơn một năm sau anh mới thành danh nhờ ghi âm nhạc phẩm « Belles belles belles » (bản phóng tác tiếng Pháp của Made to love của nhóm The Everly Brothers). Còn Janet được tuyển làm vũ công trong đoàn múa phụ họa nhân đợt trình diễn của nam danh ca Gilbert Bécaud tại nhà hát Olympia. Vào năm 1962, Gilbert Bécaud đã là một tên tuổi lớn trong làng nhạc Pháp. Nhạc phẩm « Et maintenant » (What now my love) của ông lập kỷ lục số bán trên thế giới vào năm 1961, còn chương trình phát thanh chuyên về nhạc trẻ « Salut les copains » (Thân chào các bạn) được đặt tên theo bài hát ăn khách của Gilbert Bécaud, vào năm 1957. Phải chăng Janet không còn yêu Claude vì anh quá nghèo, hay vì Claude luôn có tính khí thất thường, hay « nổi máu ghen ». Dù gì đi nữa, Janet quyết định rời bỏ Claude François để đến với Gilbert Bécaud rồi sinh một đứa con gái tên là Jennifer, cho dù lúc bấy giờ Gilbert đã có gia đình. Do Gilbert không chịu ly dị, chẳng đành bỏ vợ con, cho nên quan hệ giữa Janet và Gilbert vẫn là một mối tình vụng trộm không được danh chính ngôn thuận và trớ trêu thay đứa con « ngoại tình » lại không được Gilbert công nhận. Mãi đến năm 1967, tức 5 năm sau mối tình tay ba, Janet Woollacott và Claude François mới ký giấy ly hôn. Trong khi Gilbert vẫn ở lại với vợ con, chứ không lập gia đình với Janet. Phải công nhận rằng Claude François không có nhiều may mắn cho lắm. Anh sẽ lại phải đau khổ một lần nữa khi yêu một thần tượng nhạc trẻ khác là France Gall. Chuyện tình đôi bên cũng kết thúc không mấy tốt đẹp. France Gall rời bỏ Claude để về sống chung với nam danh ca Julien Clerc. Thất tình, Claude François viết lời cho nhạc phẩm « Comme d'habitude », sau đó đi vòng quanh thế giới với phiên bản tiếng Anh « My way » do Paul Anka viết cho Frank Sinatra  Về phần mình, Janet Woollacott từng viết một quyển sách về câu chuyện tình của mình với Claude Francois vào năm 1998, một thập niên trước khi Janet qua đời ở tuổi 73. Còn Claude Francois lập gia đình và có hai đứa với người mẫu Isabelle Forêt. Để hóa giải nỗi đau của những chuyện tình bất hạnh anh đã sáng tác nhạc phẩm « Je sais » vào năm 1964, do chính Claude sáng tác cả lời lẫn nhạc. Có thể xem đây là một trong những bản nhạc hay nhất của Claude François vì anh hát rất thật lòng về một mối tình tay ba, thời anh chưa thực sự nổi tiếng. Một chi tiết khá bất ngờ nhưng không kém phần thú vị là Gilbert Bécaud đã tìm cách hồi âm đồng nghiệp (nhưng cũng là tình địch) khi dựa vào giai điệu của bài « Je sais » để sáng tác nhạc phẩm « Je reviens te chercher » (Trở lại đón người tình). Về những mối tình không thành, Claude François sau đó sẽ ghi âm nhạc phẩm « Le mal aimé » (1974), phiên bản tiếng Pháp của giai điệu « Daydreamer » (Mộng ban ngày) và nhất là « Le chanteur malheureux » (Ca sĩ bất hạnh) cũng từ đó Claude François đi vào lòng người mến mộ với hình ảnh của một nghệ sĩ thành công rực rỡ trên đường đời, nhưng lại kém may mắn trên đường tình. Một người khó tính nhưng lại chung tình, khi đã yêu thì không bao giờ toan tính, cho dù tình có phụ bạc nhưng vẫn yêu hết mình.
Trong làn sóng các nghệ sĩ gốc Ý thành danh vào những năm 1970 tại vương quốc Bỉ, có Claude Michel, Frédéric François và Frank Michael. Điểm chung của ba gương mặt này là họ chuyên hát các giai điệu trữ tình, lấy nghệ danh Pháp dù sinh trưởng trong những gia đình người Ý nhập cư. Tên thật là Franco Gabelli, nam ca sĩ Frank Michael sinh năm 1953 tại thi trấn Bedonia, tỉnh Parma miền bắc nước Ý. Gia đình ông sang định cư gần thành phố Liège, năm ông lên ba tuổi. Thời còn nhỏ, ông tự học hát và tập chơi đàn. Đến khi lớn lên, ông học nghề thợ sửa thiết bị truyền hình. Sự nghiệp ca hát của Frank Michael bắt đầu từ năm 1974 với đĩa nhạc "Je ne peux vivre sans toi" do hãng đĩa RCA phát hành. Mặc dù ít được giới báo chí quan tâm, nhưng ông không ngừng đi hát trong các buổi tiệc cưới, biểu diễn tại các liên hoan địa phương. Nhờ vậy, Frank Michael từng bước gầy dựng uy tín của một ca sĩ chuyên nghiệp và chinh phục khán giả bằng những live show hát nhạc tình theo yêu cầu của người hâm mộ. Với hơn 20 album và 15 triệu đĩa hát được bán trên thị trường Bỉ cũng như tại Pháp, Frank Michael thành công nhờ chất giọng trung trầm, ấm áp, du dương. Ông tiếp nối con đường mà những danh ca cùng thời như Mike Brant hay Frédéric François đã vạch ra. Frédéric François có sở trường hát nhạc khiêu vũ và dân ca miền nam nước Ý, trong khi Frank Michael chuyên hát nhạc Anh phóng tác với nhiều ảnh hưởng của Richard Anthony và nhất là thần tượng của ông là Elvis Presley. Vào năm 2003, ông đã ghi âm tuyển tập « Thank You Elvis », bao gồm 15 ca khúc kinh điển phóng tác sang hai thứ tiếng Pháp và Ý để vinh danh ông hoàng nhạc rock. Một trong những album của Frank Michael lập kỷ lục số bán, được phát hành đầu năm 1997 với tựa đề « Toutes les femmes sont belles » đã thành công vang dội trên thị trường khối Pháp ngữ. Tiếp theo đó là album « Il est toujours question d'amour » mở ra thời kỳ huy hoàng của giọng ca này, với nhiều ca khúc được viết bởi nhóm sáng tác của nhạc sĩ Michel Mallory. Tác giả này nổi tiếng trước đó nhờ chuyên sáng tác cho Johnny Hallyday. Có người từng nói đùa rằng Michel Mallory soạn nhạc rock cho Johnny, nhưng khi viết các giai điệu trữ tình ướt át, ông lại dành cho Frank Michael.  Trong năm 2025, nam ca sĩ Frank Michael bắt đầu chuyến lưu diễn cuối cùng của ông với tựa đề « Farewell Tour ». Ông dự kiến giải nghệ sân khấu cuối năm nay, khép lại một sự nghiệp trải dài trong nửa thế kỷ, kể từ lúc phát hành đĩa hát đầu tay vào năm 1974 cho đến album gần đây nhất « Mes premiers amours » phát hành vào tháng 11 năm 2024. Cho dù ngưng đi diễn trên sân khấu, nhưng có nhiều khả năng ông sẽ vẫn tiếp tục thực hiện các album phòng thu. Trong số các bản nhạc của Frank Michael từng có thêm lời Việt, có nhạc phẩm tiếng Pháp « Une larme sur ton visage » từng được tác giả Khúc Lan chuyển thành nhạc phẩm « Người tình trong mộng ». Bản nguyên tác tiếng Ý « Une lacrima sul viso » là của danh ca Bobby Solo, bài hát này sau đó đã được nhiều ca sĩ hát tiếng Pháp ghi âm lại. Bài hát thứ nhì là « Ti senti sola stasera », phiên bản phóng tác tiếng Ý của nhạc phẩm « Are you lonesome tonight », tác giả Trầm Tử Thiêng từng đặt thêm lời Việt cho giai điệu này thành nhạc phẩm « Tình bơ vơ » do Elvis Phương ghi âm. Một lời Việt khác là « Đêm buồn » của tác giả Nguyễn Hoàng Đô. Bài hát thứ ba là « Dites lui que je l'aime ». Nguyên tác tiếng Anh là nhạc phẩm « Tell Laura I love her » của Jeff Barry và Ben Raleigh. Trong tiếng Việt, bài này có hai lời Việt khác nhau. Lời đầu tiên « Trưng Vương khung cửa mùa thu » lời của tác giả Nam Lộc. Lời Việt thứ nhì là « Ta vẫn yêu nhau » của tác giả Tùng Giang, do Ý Linh hay Ngọc Quỳnh ghi âm. Trong 50 năm sự nghiệp của Frank Michael, chủ đề tình yêu là nguồn cảm hứng bất tận. Trong số 450 bài hát mà ông đã ghi âm, hầu như bài nào cũng nói về chuyện tình cảm lứa đôi. Tuy không nổi tiếng bằng Julio Iglesias hay Adamo, nhưng Frank Michael luôn trung thành với khán giả của mình. Có hàng ngàn cách để hát về tình yêu, nhưng quan trọng nhất trong mắt nguời hâm mộ vẫn là tình yêu tuyệt đối : yêu đến trọn đời, yêu một lần thôi.
Tiếng hát với giọng nữ trầm đặc biệt của Lê Thu Nguyễn từ lâu đã quen thuộc với khán giả khắp nơi, từ Việt Nam trước đây, khi nữ ca sĩ này xuất hiện trên đài truyền hình, ở các tụ điểm ca nhạc, cho đến các sân khấu ở hải ngoại, nhất là ở Pháp và Hoa Kỳ.  Ngày Chủ nhật 28/09/2025, nữ ca sĩ Lệ Thu Nguyễn sẽ có một chương trình ca nhạc đặc biệt kỷ niệm 30 năm định cư tại Pháp, với sự góp mặt của những người bạn thân thiết trong giới nghệ sĩ như ca sĩ Thế Sơn, Sỹ Đan, nhạc sĩ Diệu Hương.  Nhân dịp này, RFI Việt ngữ đã phỏng vấn Lệ Thu Nguyễn để điểm lại toàn bộ sự nghiệp âm nhạc của nữ ca sĩ.  RFI Việt ngữ rất vui mừng được tiếp chuyện với nữ ca sĩ Lệ Thu Nguyễn tại phòng thâu của đài RFI nhân dịp chị đang chuẩn bị cho một chương trình đặc biệt vào tháng 9 để kỷ niệm 30 năm định cư tại Pháp. Xin chào chị Lê Thu Nguyễn. Xin chào Thanh Phương, chị rất hân hạnh hôm nay được đến nói chuyện với Thanh Phương, với khán thính giả của đài RFI. Vâng, trước hết chúng ta có thể đi ngược dòng thời gian để trở lại điểm khởi đầu sự nghiệp âm nhạc của chị. Chị thực sự bắt đầu con đường ca nhạc từ khoảng thời gian nào? Chị có máu nghệ sĩ từ lúc nhỏ xíu! Lúc đó mẹ chị đàn tranh, mỗi lần có các nghệ sĩ ở đâu lên Đà Lạt thì họ tới đàn ca tài tử với gia đình chị. Mẹ thì dạy cho chị của chị hát. Lúc đó chị không có hát vì còn nhỏ xíu à, nhưng chị nghe những bài như Tứ Đại Oán, Văn Thiên Tường, mấy bài cổ nhạc lớn, chị thuộc hết. Từ nhỏ, lúc 10 12 tuổi, cũng cầm đờn, cũng hát hò ở nhà một mình. Gia đình chị khó lắm, không có cho đi hát. Mình đâu có nghĩ là một ngày nào đó sẽ trở thành ca sĩ. Nhưng khi về Sài Gòn năm 1977, chị có cơ hội gặp gỡ thầy Dương Thụ để lập một nhóm hát giao lưu với các trường đại học khác, rồi đi thi thì được huy chương vàng. Từ đó người ta mời mình đi hát, rồi tự nhiên mình cứ đi theo con đường đó, chứ không bao giờ nghĩ mình sẽ trở thành một nghệ sĩ. Vâng, tức là sự nghiệp âm nhạc của chị là bắt đầu từ phong trào văn nghệ sinh viên và từ đó thì giọng ca của chị được các nhạc sĩ để ý đến. Cụ thể, vào thời gian đó là chị làm việc với những nhạc sĩ nào? Năm 79, lúc chị đang học ở trường Đại học Mỹ thuật, có những nhóm ca khúc chính trị, hay những đoàn như đoàn Bông Sen, đoàn Tháng Tám. Chú Hồ Bông, trưởng đoàn Bông Sen, với cô Thanh Trì cứ nói "Lệ Thu về đoàn đi", nhưng lúc đó chị còn đi học, nên từ chối. Nhạc sĩ Thanh Trúc, trưởng đoàn ca nhạc Tháng Tám, cũng mời chị về, "em ơi về về đoàn đi, có tương lai lắm", nhưng lúc đó chị là sinh viên, không thể theo đoàn được. Năm 79, anh Lê Hựu Hà với anh Đình Huấn có tới mời chị về tham gia, tại lúc đó chị hát cho nhóm ca khúc chính trị Thanh Niên Xung Phong. Mấy anh nghe chị hát trong Tao Đàn thì mấy anh mời chị về hát cho ban nhạc Hy Vọng. Chị hát được vài tháng thì ở trường lúc đó, thời 78, 79 rất là khó khăn, chị phải đi theo trường trồng rau muống bên Thủ Thiêm, phải đi đây đi đó, thành ra không tập dợt đều được. Chị phải xin nghỉ. Đến năm 82, theo lời "xúi giục" của mấy người trong trường, chị đi thi thì được huy chương vàng năm 82. Lúc đó mình mới nghĩ bây giờ mình là ca sĩ chuyên nghiệp. Năm 82 trở đi và cho tới những năm cuối thập niên 1980 là thời kỳ cực thịnh của những "tụ điểm ca nhạc". Thời gian đó âm nhạc thì được tự do hơn trước đó một chút, thành ra có rất nhiều nơi để biểu diễn cho công chúng. Và đó là những nơi thi thố tài năng của các ca sĩ mới lên giống như chị ? Chị hát cùng thời với Cẩm Vân, Nhã Phương, Bảo Yến... Đúng rồi, Bảo Yến, Nhã Phương, Cẩm Vân là những người bạn của chị thời đó. Em biết thời đó đâu phải là dễ dàng đâu. Không có được hát nhạc gì hết. Chị thấy có mấy ca sĩ cứ hát nhạc Tây Ban Nha, nhạc Latin, nhưng nói là nhạc Cuba, nhạc này nọ.  Còn chị thì vào thời gian đó vẫn hát nhạc Việt Nam, nhưng chị cũng hát nhạc Pháp và cũng bắt đầu hát nhạc Mỹ, tại vì chị nhớ khi hát cho ban nhạc Hy Vọng, thì chị đã hát bài của ban nhạc Abba. Nhưng sau đó, gặp mấy chú nhạc sĩ, mình phải phải tránh tiếng, tại vì chị nhớ thời tám mươi mấy, hát nhạc nước ngoài là bị phạt. Nhưng rồi cũng có môi trường để chị hát. Chị nhớ 85, 86 là thời thịnh nhất của ban nhạc Đài Truyền hình. Lúc đó hát nhạc Mỹ, nhạc Pháp rất nhiều. Sở trường của chị là nhạc Pháp, thành ra người ta hay yêu cầu chị hát nhạc Pháp. Nhưng chị vẫn rất thích hát nhạc Việt, bởi vì nhạc Việt thấm từ trong máu, là tiếng mẹ đẻ của mình. Nhưng bây giờ người ta yêu cầu sở trường thì mình làm sở trường, yêu cầu sở đoản thì mình làm sở đoản. Nhất là buổi tối thứ sáu hay có chương trình nhạc yêu cầu. Mấy người quen cứ nói " Cứ tối thứ sáu là thấy cái mặt Lệ Thu!". Thời gian đó chị lên truyền hình rất nhiều. Vâng, coi như đó là những môi trường để chị trao dồi về khả năng âm nhạc. Bây giờ nghĩ lại, môi trường đó đã đóng góp như thế nào cho sự nghiệp của chị? Thời gian đó thì cũng khó khăn lắm. Khi lần đầu tiên đi hát, chị đâu có biết nhạc lý. Cầm guitar học mấy cái accord thì mình vừa đờn mình vừa hát bài với accord có sẵn. Nhưng khi đi theo con đường chuyên nghiệp thì lúc đó mấy nhạc sĩ phải đưa bài cho chị. Nhiều khi mấy anh nói: "Lệ Thu ngày mai thâu truyền hình!" Mấy anh đưa hôm nay ngày mai thâu! Lúc đó chị không biết làm thế nào, nhưng may mắn là trong trường chị lúc đó có một cậu học chung, rất là dễ thương, rất vững nhạc lý, tên là Phạm Phúc Toàn. Cậu này bắt đầu dạy chị nhạc lý, vỡ bài cho chị hát. Một thời gian sau đó thì chị vỡ bài một mình được. Ban đầu phải có Toàn kèm chị mới hát được, thành ra mình cũng học hỏi được nhiều. Chị cũng gặp gỡ được ca sĩ này, nhạc sĩ kia. Ngày xưa có một thời gian chị rất gắn bó với nhóm nhạc sĩ của mấy anh Phạm Trọng Cầu, Trịnh Công Sơn, Nguyễn Ngọc Thiện, Trần Long Ẩn, Từ Huy... Gần như ngày nào tụi chị cũng gặp nhau ở Hội Nghệ sĩ. Tình cảm ngày xưa gắn bó lắm, không phải như bây giờ, ít gặp nhau. Vâng, như chị có nói, ngay từ đầu chị đã được khán giả yêu cầu hát  nhạc Pháp, bởi vì chị là người học tiếng Pháp từ từ nhỏ. Như vậy có thể nói là nhạc tiếng Pháp theo đuổi chị cho tới tận bây giờ và chị được biết đến nhiều hiện nay là qua các ca khúc tiếng Pháp. Chúng tôi được biết là ngoài những ca khúc tiếng Pháp đã được chuyển ngữ sang lời Việt, trong đó có những bản rất là nổi tiếng với những lời bài hát mà hầu như ai cũng thuộc, chị cũng đã tự chuyển ngữ một số bài. Việc chuyển ngữ như vậy có khó lắm không, nhất là những ca khúc mà người ta đã biết rất nhiều rồi? Chị nghĩ đó cũng là một cái khiếu, vì không phải ai cũng chuyển ngữ được. Có những bài hát rất là khó, thành ra nhiều khi chị phải mất vài ngày, một tuần lễ để tìm ra được những chữ vừa đúng nghĩa, vừa phù hợp với giai điệu. Nhưng chị vẫn thích làm, bởi vì chị nghĩ rằng khi đưa một bài hát đến với khán thính giả, điều cần thiết là khán thính giả phải cảm nhận được lời hát, cảm nhận hồn của bài hát. Và nếu em không hiểu được lời thì em cũng không cảm nhận được. Thành ra muốn đưa bài hát đến cho khán giả là chị phải tìm cách để cho khán giả hiểu được ý của bài hát, để có thể cảm nhận được dễ dàng hơn. Vâng, nhất là có một số bài hát người ta dịch không hoàn toàn xác nghĩa, thành ra khi ta nghe lời tiếng Việt thì nó hoàn toàn không giống như nghĩa trong bài tiếng Pháp! Chị là một người học tiếng Pháp và trình bày nhạc tiếng Pháp rất nhiều từ khi ở Việt Nam. Chị đã sang Pháp định cư từ năm 1995, tức là cách đây 30 năm. Trong thời gian đó chị đã bắt đầu đi hát trở lại chưa? Có, lúc đó mới qua chị cũng không quen ai hết, nhưng gặp lại chị Họa Mi. Ngày xưa ở Việt Nam hai chị em cũng hay đi hát chung, thành ra gặp lại chị Họa Mi rất là vui. Chị Họa Mi mới giới thiệu chị tới hát tại một nhà hàng ở Boulogne, với chị Tố Liên đệm nhạc. Hai người bạn hát chung với nhau một thời gian thì bắt đầu bên này biết chị, có mời, thì chị mới hòa nhập giới văn nghệ của Paris. Lúc đó các trung tâm băng nhạc lớn như Asia hay Thúy Nga Paris by Night có liên lạc với chị để mời chị hát trong các chương trình đó? Khi mới qua thì một trung tâm có mời chị qua Mỹ, nhưng lúc đó chị đang xin ở lại, giấy tờ còn đang trục trặc, không thể đi Mỹ được, thành ra chị phải đành lỡ dịp. Về văn nghệ ở Paris, chị nghe nói thời cực thịnh là trước khi chị qua, các night club, phòng trà rất là thịnh vượng, khách hầu như đến mỗi đêm, nhưng khi chị qua thì hầu như không còn nữa. Lâu cũng có chương trình này, chương trình kia, cũng ít lắm, nhưng mình cũng có chỗ để mà dụng võ. Còn bây giờ chị thấy phong trào văn nghệ ở Paris xuống cấp quá. Chị rất là buồn vì không còn chỗ nào để người ta đi chơi mà đúng nghĩa nghệ thuật. Nói về vui chơi giải trí thì thiếu gì. Có những cái nhà hàng có ca sĩ hát, khách hát, chỉ cần một người đàn, nhưng thiếu những sân chơi thật sự mang tính nghệ thuật. Vâng, nhưng chị vẫn được mời sang bên Mỹ rất nhiều lần để trình diễn và đặc biệt mỗi lần chị sang đó chắc là khán giả đều yêu cầu hát ca khúc tiếng Pháp? Cái may mắn là chị hát tiếng Pháp vì chị học tiếng Pháp từ nhỏ. Khi qua Mỹ hay là khi chị đi Úc hay các nơi khác, thường thường người ta yêu cầu chị hát nhạc Pháp nhiều hơn. Nhưng chị vẫn pha trộn với những bài Việt Nam, hoặc những bài Pháp nhưng lời Việt. Ca khúc Em Ơi Hà Nội Phố đã gắn liền với  tên tuổi của Lệ Thu Nguyễn, bởi vì chị là người đầu tiên trình bày ca khúc đó do cố nhạc sĩ Phú Quang sáng tác dựa trên thơ của thi sĩ Phan Vũ. Chị có thể kể lại trong hoàn cảnh nào mà chị đã gặp được nhạc sĩ Phú Quang ? Thật lòng với em chứ giờ hỏi chị gặp anh Phú Quang ở đâu, vào thời điểm nào thì chị hoàn toàn không nhớ, nhưng chỉ biết là ngày xưa khi hát ở các tụ điểm thời đó thì chỉ hát nhạc "đỏ" thôi. Chị có nghe một bài hát nghe dịu dàng quá, lời của nó rất là hay, không biết bài này ở đâu. Lúc đó nghe Cẩm Vân hay Lâm Xuân hát, chị mới hỏi thì Cẩm Vân nói đó là bài hát mang tên "Bài ca trở lại" của nhạc sĩ Phú Quang ở Hà Nội vô. Chị cũng bắt chước hát một hai lần. Nếu chị không lầm thì chị gặp anh Phú Quang trong một phòng thâu. Thời gian đó thâu băng thâu đĩa nhiều lắm. Chị nghĩ lúc đó anh Phú Quang là điều khiển chương trình hay là biên tập. Hồi xưa chị hát cho anh ấy rất nhiều. Anh ấy mời chị hát trong một số nh
Vào đầu những năm 1970, thành công ở nước ngoài của nhạc sĩ trẻ tuổi Marc Hamilton đã mở đường cho khá nhiều tài năng xuất thân từ vùng Québec chinh phục thị trường quốc tế. Trong số này, một trong những giọng ca ăn khách đầu thập niên 1980 vẫn là Daniel Hétu. Nhiều sáng tác của anh từng được đặt thêm lời Việt, nổi tiếng nhất là nhạc phẩm « Je suis revenu » (Em hỡi, anh về đây). Sinh trưởng trong một gia đình nghệ sĩ ở Montréal, Daniel Hétu là con nhà nòi, từ nhỏ đã thừa hưởng năng khiếu âm nhạc từ thân phụ. Bố anh là nhạc sĩ Lucien Hétu (1928-1990) chuyên chơi đàn organ, ông bắt đầu sự nghiệp ghi âm vào năm 1959, chủ yếu nhạc hòa tấu và nhạc khiêu vũ. Trong vòng một thập niên, ông đã lập kỷ lục số bán với hơn một triệu đĩa nhạc, nhờ phát hành khoảng 30 album nhạc hòa tấu. Trước khi nối nghiệp thân phụ, Daniel Hétu (1950-2008) bắt đầu học đàn piano từ năm lên 4 (với thầy André Mathieu). Vào năm 11 tuổi, anh đoạt giải thưởng lớn nhờ album ca nhạc đầu tiên « The Parade of the Wooden Soldiers ». Cho đến năm 21 tuổi, ngoài việc học đàn và sáng tác, anh còn học cách hòa âm và điều khiển dàn nhạc tại trường cao đẳng Vincent d'Indy, ở quận Outremont. Hai cha con Lucien và Daniel Hétu có hợp đồng ghi âm tại cùng một hãng đĩa và sau một thời gian đi biểu diễn cùng với bố, Daniel Hétu sau đó tách ra riêng. Trong vòng hơn một thập niên, từ năm 1977 đến năm 1988, anh cho phát hành 5 album phòng thu gồm nhiều bài hát gốc, do chính anh sáng tác, hòa âm và trình bày. Vào năm 1979, anh thành công với giai điệu « Je t'attendais » (Con tim mong chờ), mang về cho anh hai lần đĩa vàng tại bang Québec. Trong tiếng Việt, bài này được nam danh ca Duy Quang chuyển lời thành nhạc phẩm « Anh vẫn đợi em » do ca sĩ Thái Hiền trình bày. Thành công này mở đường cho Daniel Hétu ghi âm nhiều bản nhạc ăn khách khác. Sự nghiệp của anh đạt đỉnh cao trong hơn 10 năm liền cho đến khi anh phát hành album phòng thu cuối cùng vào năm 1988. Ngoài ca hát, anh còn là giám đốc nghệ thuật phụ trách phần âm nhạc của nhiều chương trình truyền hình. Nhờ vào tài nghệ điều khiển dàn nhạc hòa tấu, anh đã hợp tác với nhiều ngôi sao vùng Québec như Ginette Reno, René Simard hay Patsy Gallant. Với tư cách là nhạc trưởng, anh cũng thường xuyên đi lưu diễn ở nước ngoài với nhiều danh ca Pháp như Charles Aznavour, Gilbert Bécaud hay Mireille Mathieu. Từ cuối những năm 1990, Daniel Hétu bắt đầu gặp nhiều vấn đề sức khỏe buộc anh phải ngưng công việc. Khó khăn trong đời tư tưởng chừng nhất thời, nào ngờ anh lại qua đời vì bạo bệnh vào năm 2008, ở tuổi 57. Người nghệ sĩ đa tài ra đi quá sớm để lại cho giới yêu nhạc nhiều giai điệu hay. Giới hâm mộ vẫn còn nhớ đến giọng ca của Daniel Hétu qua các nhạc phẩm như « L'amour que j'ai pour toi » (Tình yêu anh dành cho em), « Je cherche une fille » (Đi tìm cô bé xinh xinh) lời Việt của tác giả Nhật Ngân do ca sĩ Kiều Nga ghi âm. Trong số những sáng tác ăn khách của Daniel Hétu, bản nhạc nổi tiếng nhất (của anh) vẫn là « Je suis revenu » (Anh hỡi em về đây) lời Việt của tác giả Khúc Lan, được khá nhiều giọng ca trứ danh ghi âm lại trong đó có Ngọc Lan, Khánh Hà, Tú Quyên, với giai điệu ngọt ngào sâu lắng Cuối cùng anh vẫn về đây, từ đầu làm lại hôm nay, xung quanh chẳng gì thay đổi, như xưa khát vọng tràn đầy. Hão huyền con tim đã sống, giờ đây chẳng còn ảo vọng, đi đâu rồi cũng về đây, hoài công mong đợi đêm ngày, mong sao đừng cay đắng mãi, chỉ cần dang rộng vòng tay.
Bộ sưu tập vàng (La Colleción de Oro) là tựa đề bộ đĩa gồm những tình khúc chọn lọc của Pepe Aguilar, do tập đoàn Universal cho phát hành vào mùa hè năm nay, nhân dịp kỷ niệm 35 năm sự nghiệp ghi âm của danh ca người Mexico. Về mặt tuổi đời, ông thành danh hầu như cùng thời với ông hoàng Luis Miguel và là đàn em của Juan Gabriel cũng như của Julio Iglesias. Sinh tại bang Texas, Hoa Kỳ, nhưng lại lớn lên ở Zacatecas, miền trung Mexico, Pepe Aguilar (tên thật là José Aguilar) xuất thân từ một gia đình mà bố mẹ đều là nghệ sĩ nổi tiếng : thân phụ là danh ca Antonio Aguilar, một trong những người tiên phong trong việc phổ biến dòng nhạc mariachi ở nước ngoài, còn thân mẫu là ca sĩ kiêm diễn viên Flor Silvestre, một trong những gương mặt hàng đầu trong thời kỳ hoàng kim của điện ảnh Mexico. Thừa hưởng năng khiếu của song thân, Pepe Aguilar dĩ nhiên từ lúc còn nhỏ đã chọn con đường sân khấu. Nhưng có lẽ, để khẳng định tính cách khác biệt, cho nên vào thời niên thiếu, anh chủ yếu hát nhạc rock, gia nhập nhóm "Equs" và thực hiện album đầu tiên của mình với nhiều ảnh hưởng của các ban nhạc rock lừng danh những năm1970, trong đó có Pink Floyd. Mãi đến sau này, khi anh bắt đầu sự nghiệp hát solo, thì lúc ấy anh dần tìm lại các dòng nhạc truyền thống của Mexico qua việc kết hợp âm thanh nhạc pop hiện đại với các bài dân ca cũng như các điệu nhạc mariachi hay ranchero. Gần giống với country, thể loại mariachi (với bộ đàn ghi ta, vĩ cầm và kèn đồng) thường phản ánh sinh hoạt miền đồng quê và đời sống trong các nông trại (ranchero). Thành danh ngay từ lúc phát hành album đầu tay vào năm 1990 (Pepe Aguilar con tambora), giọng ca này nhanh chóng trở thành một trong những nghệ sĩ quan trọng trong làng nhạc Mexicô, rồi từng bước anh chinh phục thị trường nói tiếng Tây Ban Nha, qua các đợt lưu diễn ở châu Mỹ. Đến đầu những năm 2000, qua tuyển tập nhạc tình kinh điển (Por el Amor de Siempre, và sau đó nữa là album Enamorado), bao gồm nhiều bài hát thịnh hành từ những năm 1960 của các nghệ sĩ trứ danh như Camilo Sesto, José José, Juan Gabriel, Luís Demetrio, Carlos Cuevas từng nổi tiếng với nhạc phẩm « Cha cha línda » … Pepe Aguilar đã thổi một làn gió mới vào những ca khúc vang bóng một thời. Thành công rực rỡ của album này đã củng cố hướng đi của anh, xen kẽ những giai điệu xưa như « Contigo Apprendi », hay « No soy de Aqui », với những sáng tác mới như Perdóname (Hãy tha thứ cho anh), Prometiste (Đừng quên lời hứa) Directo al corazon (Từ trong đáy tim) … Trong những năm sau đó, Pepe Aguilar thường hay ghi âm những tác phẩm « để đời » hầu ngỏ lời tri ân thế hệ của những nghệ sĩ đi trước, trong đó có những giọng ca tiêu biểu của thời kỳ hoàng kim của ranchero, dòng nhạc truyền thống của Mexico (như Pedro Infante, Javier Solis, Vicente Fernandez cũng như thân phụ Antonio Agular). Trong vòng ba thập niên sự nghiệp, Pepe Aguilar đã cho phát hành hơn 30 album phòng thu, bán được hơn 15 triệu album trên thị trường quốc tế. Thành công của các bản ghi âm đã đem về cho ông 5 giải Grammy La Tinh, 19 giải Lo Nuestro của Nam Mỹ và một ngôi sao trên Đại lộ Danh vọng Hollywood, nằm ngay bên cạnh ngôi sao của thân phụ Antonio Aguilar. Hồi tưởng lại những năm tháng mới vào nghề, Pepe Aguliar cho biết lần đầu tiên anh lên sàn diễn, anh chỉ mới có ba tuổi, lúc bấy giờ anh được hát chung với bố trên sân khấu nhà hát Madison Square Garden ở thành phố New York. Có lẽ cũng vì thế Pepe Aguilar luôn khuyến khích con cái đeo đuổi con đường nghệ thuật. Sau Antonio và Pepe Aguilar, đến phiên Leonardo và Angela nối nghiệp cha cũng như ông nội, khi chọn con đường nghệ thuật sân khấu. Riêng nữ ca sĩ Angela Aguilar, tuy chỉ mới có 21 tuổi nhưng đã thành công rực rỡ với album chuyên đề bolero phát hành trong năm qua, hội tụ những giai điệu kinh điển hàng đầu như « Besame mucho », « Solamente una vez », hay là « Toda una vida ». Có lẽ cũng vì thế mỗi lần nhắc đến dòng họ nghệ sĩ này, người hâm mộ ở Mexico thường gọi họ là « Triều đại Aguilar », khi ba thế hệ trong cùng một gia đình, luôn hát nhạc La Tinh, những giai điệu xinh, muôn thuở trữ tình.
loading
Comments 
loading