Ma túy tổng hợp: Việt Nam đối phó với các đường dây buôn lậu từ Tam Giác Vàng - Tạp chí Việt Nam
Description
Theo báo cáo do Văn phòng Liên Hiệp Quốc về Ma túy và Tội phạm (UNODC) công bố vào tháng 5 vừa qua, hoạt động sản xuất và buôn bán trái phép ma túy tổng hợp từ khu vực Tam giác Vàng ( khu vực nằm giữa biên giới ba nước Lào, Thái Lan, Miến Điện ) đã tăng gấp bội.
Là quốc gia có đường biên giới chung với Lào, một trong 3 quốc gia của khu Tam Giác Vàng, Việt Nam đang phải đối phó với ngày càng nhiều đường dây buôn lậu ma túy tổng hợp từ nước láng giềng.
Trả lời RFI Việt ngữ ngày 15/09/2025, nhà tội phạm học Lương Thanh Hải, giảng viên Trường Tư pháp hình sự và tội phạm học Griffith, Úc, và là chủ tịch Hội đồng nghiên cứu về tội phạm ma túy tại châu Á của Viện nghiên cứu AICS (Hoa Kỳ), trước hết nêu lên những tuyến đường mà ma túy tổng hợp xâm nhập vào Việt Nam :
Lương Thanh Hải: Đến nay, việc thẩm lậu ma túy từ khu vực Tam Giác Vàng vào Việt Nam trải đều trên cả ba tuyến chính, đó là đường bộ, đường hàng không và đường biển. Việt Nam may mắn là không nằm trực tiếp trong vòng xoáy của Tam Giác Vàng. Thế nhưng Việt Nam lại là hàng xóm, chia sẻ đường biên trực tiếp với nước Lào, một trong ba nước của khu vực Tam Giác Vàng. Thành thử điều không tránh khỏi được là việc thẩm lậu ma túy, đặc biệt là ma túy tổng hợp, vào Việt Nam trải đều cả ba tuyến, đặc biệt là tuyến đường bộ.
Báo cáo mới đây nhất của Liên Hiệp Quốc vào tháng 5 vẫn sử dụng các tài liệu của 63 tỉnh thành. Cho nên tôi cũng theo cái thói quen đó tạm thời đề cập đến các tỉnh trước ngày 01/07 năm nay, khi Việt Nam giảm xuống còn 34 tỉnh thành. Tôi lấy ví dụ đường biên giới Việt Nam và Lào, đặc biệt là các cái cửa khẩu Cầu Treo của Hà Tĩnh, Cha Lo của Quảng Bình và Lao Bảo của Quảng Trị, những vùng rất nóng bỏng, hoặc là tuyến Tây Bắc thì có những khu vực đặc biệt nóng bỏng ở Lóng Luông, Mộc Châu, Sơn La, hay là ở Lạng Sơn, vân vân...
Các trục đường biên giới giữa Việt Nam và Lào là một trong những điểm nóng mà Cục cảnh sát phòng chống ma túy của Bộ Công an Việt Nam đã đưa vào tầm ngắm không chỉ bây giờ, mà từ rất lâu. Ngoài ra, tuyến biên giới Việt Nam - Cam Bốt cũng vậy. Ở các đường biên giữa hai nước như Tây Ninh, An Giang, Long An, giới buôn ma túy cũng lợi dụng các hoạt động thương mại, du lịch và vận tải đường bộ.
Có thể nói rằng trên đường bộ, ngoài các khu vực cửa khẩu mà tôi có nhấn mạnh, với một đường biên giới trải dài tổng cộng hơn 3000 km tiếp giáp giữa Việt Nam, Lào, Cam Bốt, giữa Việt Nam và Trung Quốc, thì có thể nói rằng có rất nhiều đường mòn, lối mở. Lực lượng bộ đội biên phòng cũng như cảnh sát phòng chống ma túy của Việt Nam mặc dù đã chủ động và đã bố trí nhiều điểm chốt nhưng cũng không xuể được. Có thể nói nguồn nhân lực không thể kham hết được.
RFI: Như vậy thì giữa Việt Nam với các nước láng giềng Lào, Cam Bốt, Trung Quốc, các lực lượng thực thi pháp luật có phối hợp với nhau để ngăn chận những đường dây đó?
Lương Thanh Hải: Đó cũng là một trong những khía cạnh rất đáng ghi nhận. Nói gì thì nói, việc tăng cường hợp tác song phương và đa phương giữa Việt Nam và các nước láng giềng cũng có những tiến triển nhất định. Điều này đã được Ủy ban phòng chống ma túy và tội phạm của Liên Hiệp Quốc UNODC ghi nhận. Một điểm tôi muốn nhấn mạnh ở đây, đó chính là mô hình hợp tác song phương đường biên, mà chúng tôi hay gọi là Border Liaison Office, tức là việc bố trí song song lực lượng thực thi pháp luật của cả hai nước, bao gồm cảnh sát, biên phòng, hải quan, vân vân. Hai bên sẽ chia sẻ thông tin, kể cả thông tin tình báo, phối hợp các chuyên án để cùng nhau đánh sập các đường dây ma túy thẩm lậu giữa các nước với nhau.
Tuy nhiên, thành công trong các chuyên án phối hợp song phương hoặc đa phương cũng chỉ dừng lại góc độ chừng mực nhất định. Việc thực thi pháp luật vẫn đang còn những hạn chế, bởi vì thứ nhất, có sự khác biệt về mặt luật pháp. Đôi khi việc bắt và đánh sập một đường dây ma túy sau đó còn liên quan đến việc truy tố, xét xử và thi hành án, thậm chí là có dẫn độ hay không? Tất cả những câu hỏi đó, những rào cản đó cũng góp phần làm cản trở hiệu quả mang tính chất bền vững trong hợp tác quốc tế về phòng chống tội phạm xuyên quốc gia.
Ngoài cái đầu tiên đó là đường mòn, như tôi nói, rất phức tạp, có thể là điểm nóng nhất, thì đường biển cũng vậy. Đặc biệt trong giai đoạn Covid thì hầu hết đường biên giới của các nước đều đóng cả. Chính vì vậy, giai đoạn từ 2021 cho đến 2023 có thể nói là giai đoạn bùng nổ, không chỉ đối với Việt Nam hay ba nước khu vực Tam Giác Vàng, mà kể cả là Úc, Nhật hay Trung Quốc, kể cả Nam Mỹ, tất cả các hoạt động buôn bán vận chuyển trái phép ma túy tổng hợp đều tận dụng đường biển rất nhiều.
Cho nên khu vực eo biển nằm ở Vịnh Thái Lan và đi qua eo biển Malacca có thể nói cũng là một trong những đường biển mà Việt Nam cần phải tập trung để hạn chế tối đa.
Ngoài đường bộ và đường biển, đường hàng không và bưu kiện có thể nói cũng là một trong những hướng thẩm lậu ma túy nổi lên trong nhiều năm trở lại đây đối với Việt Nam, mà lực lượng thực thi pháp luật cũng đã ít nhiều có những thành công nhất định và đã phá được nhiều chuyên án liên quan vận chuyển trái phép ma túy tổng hợp bằng đường hàng không và bưu kiện vào Việt Nam.
RFI: Với lượng bưu kiện nhập vào Việt Nam rất là lớn thì làm sao các cơ quan chức năng có thể kiểm tra để mà phát hiện được ma túy tổng hợp giấu trong những bưu kiện đó?
Lương Thanh Hải: Đây là một trong những vấn đề rất là đau đầu và cũng là một trong những cái khó, bởi vì thứ nhất nó liên quan đến chính sách, pháp luật về kiểm soát và giám sát hàng hóa của từng nước. Việt Nam cũng vậy, không tránh khỏi những vướng mắc và khó khăn. Chẳng hạn về phương tiện trang thiết bị cho các lực lượng thực thi pháp luật, không phải cơ quan nào cũng đều được trang bị một cách tối tân nhất như ở các nước phương Tây. Đó cũng là một hạn chế làm giảm thiểu khả năng phát hiện đối với lực lượng thực thi pháp luật của Việt Nam đối với các đối tượng vận chuyển ma túy qua đường hàng không, hoặc là đường bưu kiện.
Ngoài ra, những phương thức, thủ đoạn của các đối tượng vận chuyển ngày càng tinh vi hơn, không chỉ là giấu trong vali hay các vật dụng, vân vân. Có nhiều đối tượng còn nuốt vào trong bụng và thậm chí còn phẫu thuật để nhét vào các bộ phận của cơ thể, vân vân... Tất cả những điều đó đặt ra những thách thức và đòi hỏi các lực lượng thực thi pháp luật phải nâng cao hơn nữa trình độ nghiệp vụ, cùng với việc sử dụng phối hợp các trang thiết bị.
Hiện nay, đối với Việt Nam thì Cảnh sát Liên bang Úc AFP cũng hỗ trợ rất nhiều cả về vật chất lẫn chương trình đào tạo, hỗ trợ về trang thiết bị. Ở góc độ nhà nghiên cứu và cũng là người thúc đẩy mối quan hệ hợp tác giữa lực lượng thực thi pháp luật Úc và Việt Nam, tôi hy vọng trong thời gian tới sẽ có nhiều hỗ trợ về trang thiết bị tối tân hơn. Ví dụ như các máy tia hồng ngoại có thể rà soát các loại chất ma túy qua đường bưu kiện và đường hàng không, hoặc là có thể có các khóa huấn luyện chuyên sâu đặc biệt đối với các detective dog, chó nghiệp vụ, để hỗ trợ Việt Nam trong quá trình điều tra, phát hiện và suy xét các chuyên án ma túy liên quan đến đường hàng không.
RFI: Cũng nói về hợp tác giữa Việt Nam với Úc, bây giờ có những đường dây vận chuyển ma túy tổng hợp từ Việt Nam sang Úc, chắc là qua đường hàng không nhiều hơn, hay không? Như vậy hai nước phối hợp như thế nào để ngăn chặn những đường dây đó?
Đúng vậy. Tuy nhiên, so với mặt bằng chung, so với các nước khác, việc vận chuyển từ Việt Nam trực tiếp sang Úc thì số lượng không đáng kể.
Theo báo cáo hàng năm của Ủy ban nghiên cứu về tội phạm và ma túy của Úc, hầu hết các đối tượng vận chuyển ma túy tổng hợp từ Việt Nam qua Úc với số lượng vừa phải, nhỏ lẻ. Tức là nếu căn cứ theo định lượng tội danh của khung hình sự thì nó cũng ít nghiêm trọng, chứ không phải là hàng tạ hay hàng tấn, như khối lượng từ Tam Giác Vàng thẩm lậu vào Việt Nam.
Các đối tượng vận chuyển như vậy thì rơi vào các nhóm thứ yếu, có thể là những du học sinh, những người lớn tuổi, những người nhẹ dạ cả tin cầm hành lý hộ, vân vân. Tuy nhiên, ở góc độ về thực thi pháp luật, hợp tác giữa Cảnh sát Liên bang Úc AFP và cảnh sát Việt Nam khá chặt chẽ, bởi vì AFP là một trong những lực lượng thực thi pháp luật triển khai khá sớm con người cụ thể ở đại sứ quán ở Hà Nội cũng như lãnh sự quán ở thành phố Hồ Chí Minh .
Mô hình thành lập trung tâm phòng chống tội phạm xuyên quốc gia Việt - Úc có thể nói là một trong những mô hình đầu tiên mà một lực lượng cảnh sát ngoài Việt Nam, cụ thể là Úc, phối hợp cùng Tổng cục Cảnh sát trước đây, bây giờ là văn phòng cơ quan điều tra phụ trách. Cả hai bên đã phối hợp và xây dựng và đặt tại trụ sở thành phố Hồ Chí Minh.
Trung tâm phòng chống tội phạm xâm quốc gia này hoạt động khá hiệu quả, là nơi trung chuyển, cung cấp, trao đổi thông tin, cả thông tin tình báo lẫn thông tin về các loại tội phạm, đặc biệt là về ma túy, để giúp lực lượng thực thi pháp luật cả hai nước có cơ sở để triển khai các hoạt động phòng chống hiệu quả.

















