Vụ bê bối máu bẩn tại Anh và khủng hoảng niềm tin vào các chính phủ
Description
Tháng 05/2024, cựu thủ tướng Anh Rishi Sunak đã gửi lời xin lỗi công khai đến người dân vì một bê bối truyền máu nhiễm bệnh, khiến hàng chục nghìn người nhiễm HIV và viêm gan C. Một bê bối từ những năm 70, 80 của thế kỷ trước, mà chính ông Sunak cũng phải thừa nhận rằng đó là “sự suy thoái đạo đức kéo dài hàng thập kỷ trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe” của chính phủ Anh.
Sự thật được phơi bày sau nhiều thập kỷ
Bê bối bắt đầu từ những năm 1970-1980 tại Anh khi có hàng ngàn người cần truyền máu. Những người này được chia thành hai nhóm chính, một là những bệnh nhân thiếu máu trong quá trình phẫu thuật, trong các điều trị y tế, hay những phụ nữ vừa sinh con…
Nhóm thứ hai là những người mắc bệnh máu khó đông, một căn bệnh di truyền do thiếu hụt Yếu tố VIII hoặc IX, những yếu tố cần thiết cho quá trình tạo cục máu đông. Theo hãng tin AP, vào đầu những năm 1970, các bác sĩ đã phát hiện ra một phương pháp điều trị mới, được gọi là Yếu tố đông máu 8 (Factor VIII) và được ca tụng là phương thuốc kỳ diệu. Đây là loại thuốc được tách ra từ huyết tương người, do vậy cần một số lượng lớn nguồn cung huyết tương để sản xuất. Nhu cầu sớm vượt quá nguồn cung trong nước, vì vậy các quan chức y tế Anh đã bắt đầu nhập khẩu huyết tương từ Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, điều đáng nói là lý lịch của những người hiến máu gây nhiều lo ngại vì vào thời điểm đó, Yếu tố VIII được lấy từ máu của hàng chục ngàn người hiến tại Hoa Kỳ. Những người này hiến máu để kiếm tiền. Họ thường là tù nhân, những người làm nghề mại dâm hoặc những người nghiện. Chính điều này làm tăng đáng kể nguy cơ huyết tương bị nhiễm bệnh, mà chỉ cần một người hiến máu bị nhiễm bệnh thì toàn bộ lô sản phẩm đều sẽ bị nhiễm bệnh theo.
Theo ước tính từ cuộc điều tra kéo dài 6 năm mà chính phủ của thủ tướng Theresa May ra lệnh tiến hành năm 2017, hơn 30.000 người đã nhiễm virus viêm gan C hoặc HIV qua truyền máu hoặc do điều trị bằng Yếu tố VIII. Hơn 3000 người chết và hàng chục nghìn người phải sống chung với bệnh tật. Nhiều người còn lây sang gia đình và người thân của mình. Thẩm phán Brian Langstaff, người đứng đầu cuộc điều tra về bê bối “máu bẩn”, đã tố cáo rằng thảm hoạ này hoàn toàn “không phải một tai nạn” mà bắt nguồn từ sự tác trách, coi thường tính mạng của người dân. Giới chức Anh lúc đó đã bỏ qua các cảnh báo nguy hiểm, bỏ qua các phương pháp sàng lọc và xử lý nguồn máu vì lý do kinh tế, bỏ qua cả các quy tắc đạo đức.
Sai lầm nối tiếp sai lầm. Sau khi phát hiện ra những ca nhiễm HIV và viêm gan C do được truyền máu, chính phủ của cố thủ tướng Magaret Thatcher thời điểm đó, những người phải chịu trách nhiệm chính cho vụ việc này, thay vì dừng lại, nhận lỗi và sửa sai thì lại cố gắng che đậy, đưa thông tin sai sự thật đến người dân và tiêu huỷ các bằng chứng. Để rồi hơn 50 năm sau, người dân Anh mới được nhận lời xin lỗi công khai đầu tiên tới từ chính phủ Rishi Sunak. Đáng tiếc là hàng ngàn nạn nhân đã không còn sống để được nghe lời xin lỗi mà họ vẫn mong chờ.
“Vô hại”
“Vô hại” là những gì mà chính phủ nói với công chúng. Theo nhật báo Anh The Guardian, tháng 11/1983, cựu bộ trưởng y tế Ken Clarke đã mạnh mẽ khẳng định trước báo giới rằng “không có bằng chứng thuyết phục” nào cho thấy HIV có thể lây truyền qua đường máu và nguy cơ virus viêm gan C gây bệnh là “rất thấp và không nghiêm trọng”. Để công chúng thêm tin tưởng, các bộ trưởng cũng liên tục nhắc lại rằng người dân Anh “đang nhận được sự điều trị tốt nhất hiện có”. Báo cáo điều tra của thẩm phán Langstaff còn chỉ ra rằng các bác sĩ cũng đóng góp một phần không nhỏ công sức vào việc lừa dối người dân. Các bác sĩ không những không thông báo cho bệnh nhân những nguy cơ tiềm ẩn trước khi bệnh nhân tham gia điều trị mà thậm chí cả khi những người này đã nhiễm virus HIV hay viêm gan C, các bác sĩ cũng che giấu thông tin về nguyên nhân và tình trạng bệnh của họ, dẫn đến những chậm trễ trong việc tiếp cận điều trị chuyên khoa.
“Vô trách nhiệm”
“Vô trách nhiệm” là những gì công chúng nói về họ. Họ ở đây là chính phủ Anh thời điểm đó, và cụ thể hơn là Hệ thống Y tế Quốc gia Anh (National Health Service - NHS). Nhiệm vụ chủ đạo của cơ quan này là chăm sóc, nâng cao sức khoẻ cho người dân, ưu tiên và tôn trọng sinh mạng của bệnh nhân. Thế nhưng họ đã làm gì? ...
Họ làm ngơ trước những hiểm hoạ mà họ biết rõ. Theo đài BBC và tờ The Guardian của Anh, ngay từ những năm 1930, người ta đã biết rõ rằng việc truyền máu có thể làm lây nhiễm nhiều loại bệnh chết người. Virus gây ra bệnh viêm gan C đã xuất hiện ít nhất từ giữa những năm 1970, còn việc lây truyền HIV qua đường máu thì đã được giới khoa học xác nhận vào năm 1982.
Không chỉ vậy, họ còn biết rằng việc nhập khẩu máu và các chế phẩm máu thương mại sản xuất tại Mỹ mang nhiều rủi ro và ít an toàn hơn so với các phương pháp điều trị trong nước. Vào giữa những năm 1970, một giáo sư đã cảnh báo rằng các sản phẩm máu này được lấy “100% từ những người vô gia cư ở các khu vực tồi tàn”, trong khi đó Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) kêu gọi các quốc gia tự chủ về nguồn máu để bảo đảm an toàn. NHS cũng tiến hành tăng quy mô của các bể chứa để sản xuất Yếu tố VIII dù biết như vậy có thể làm tăng đáng kể nguy cơ lây truyền virus.
Biết rõ là vậy nhưng giới chức y tế nước này đã không có những biện pháp cần thiết để bảo vệ người dân. Họ không những không đình chỉ việc nhập khẩu các sản phẩm máu thương mại từ Mỹ, mà cũng chẳng kiểm soát việc phân phối chúng. Việc triển khai xét nghiệm virus HIV và viêm gan C trong các sản phẩm máu được hiến cũng bị trì hoãn. Chính phủ cũng không đầu tư nghiên cứu các phương pháp làm bất hoạt virus, chẳng hạn như qua xử lý nhiệt.
Họ làm ngơ trước tính mạng của người dân. Dù tôn chỉ hành động là “tôn trọng mọi sinh mệnh, không phân biệt đối xử, luôn mang lòng trắc ẩn và sự tử tế” nhưng NHS đã sử dụng các học sinh khuyết tật tại trường Treloar's College như những con chuột bạch để thử nghiệm Yếu tố VIII. Vẫn theo báo cáo điều tra năm 2017, từ năm 1974 đến 1987, 122 đứa trẻ mắc bệnh máu khó đông (haemophilia) đã được điều trị tại ngôi trường này bằng phương pháp mới, một thứ phương pháp “kỳ diệu” khiến ít nhất 72 trong số này tử vong. Họ đa phần đều chết vì nhiễm HIV và các loại virus viêm gan A, B, C.
“Vô vọng”
“Vô vọng” có lẽ là cảm giác mà những nạn nhân của bê bối này phải chịu đựng. Theo chân thông tín viên RFI Emeline Vin tại Anh, chúng ta sẽ cùng lắng nghe câu chuyện của chính những nạn nhân và người nhà của họ.
Rất nhiều người đã chết, trong đó có Collin Smith :
“Collin Smith là nạn nhân nhỏ tuổi nhất bị nhiễm bệnh. Cậu bé được chẩn đoán nhiễm Sida ngay trước sinh nhật năm hai tuổi. Mái tóc vàng và khuôn mặt tinh nghịch, cậu bé đã mất năm 1990, khi mới chỉ 7 tuổi. Bố mẹ của Collin cho biết :
“Trước khi chết, thằng bé rất gầy, nó chỉ còn da bọc xương. Khi đó nó nặng 6 kg, chỉ nặng hơn đứa trẻ mới sinh một chút. Hai tháng cuối dường như kéo dài vô tận với chúng tôi. Chúng tôi rất tuyệt vọng. Chẳng đêm nào chúng tôi ngủ được. Ít nhất bây giờ chúng tôi đã đủ dũng cảm để nhắc về thằng bé. Collin có tính cách rất đặc biệt. Là một đứa trẻ vui vẻ, thằng bé lúc nào cũng tươi cười, nó thường hay trêu chọc mọi người.”
Với những nạn nhân đã qua đời, nỗi đau để lại cho người thân, gia đình của họ. Vậy những người may mắn vẫn sống sót thì sao?
Vào những năm 80, Bob Naylor đã được truyền máu trong một cuộc phẫu thuật và đã bị nhiễm virus viêm gan C từ đó. Bob cho biết : “Tôi thường xuyên cảm thấy không khoẻ. Cảm giác mệt mỏi, uể oải khủng khiếp. Mỗi lần tôi đi ngủ, chân tôi lại bắt đầu bị chuột rút và co thắt. Tôi đau bụng và đau lưng, những cơn đau này chẳng bao giờ biến mất. Một hôm cô y tá đã nói với tôi rằng : Bob, anh biết không, cả đời này anh sẽ phải gặp chúng tôi. Tôi hỏi vì sao thì cô ấy trả lời : Gan của anh đã bị tổn hại nên anh sẽ luôn phải đi viện kiểm tra. Anh sẽ phải lấy máu 6 tháng một lần, siêu âm 6 tháng một lần, làm xét nghiệm Fibroscan 2 đến 3 năm một lần. Anh đã bị suy gan cấp tính.”
Không chỉ có những nỗi đau về thể xác, tinh thần của nạn nhân cũng bị khủng hoảng nghiêm trọng.
“Vào thời điểm đó, những người nhiễm HIV đều bị kỳ thị. Tại một thành phố nhỏ ở xứ Wales, Robert đã phải chịu sự phân biệt đối xử vì bị Sida. Anh cho biết : “Tôi đã kể việc mình bị nhiễm HIV cho chị gái mình và ngay sáng hôm sau, tất cả mọi người đều biết. Trên tường nhà của chúng tôi bị sơn chữ “Gia đình SIDA”. Cửa nhà thì bị vẽ chữ X. Gia đình tôi nhận được hàng tá cuộc điện thoại yêu cầu gửi tôi ra một hòn đảo hoang. Chúng tôi đã phải bỏ trốn, như thể là tôi đã giết người vậy. Thậm chí trong gia đình tôi, có người còn nói với con cái họ rằng đừng động vào đĩa của Robert, đừng động vào cốc của Robert. Nếu chính gia đình mình còn chẳng thể cảm thông với mình thì sao tôi có thể trông đợi là những người lạ ngoài kia sẽ hiểu cho tôi.”
“Vô tội”
Nếu nạn nhân cảm thấy vô vọng thì những người chịu trách nhiệm chính trong vụ việc này cảm thấy gì? Có thể họ cảm thấy mình “vô tội”. Ta cần quay lại vụ bê bối tương tự, diễn ra tại Pháp vào cùng khoảng thời điểm trên. Theo Viện Nghe nhìn Quốc gia Pháp (INA), khi đứng trước toà vào tháng 01/1992, cựu bộ trưởng phụ trách các vấn đề xã hội, bà Georgina Dufoix, vẫn không can tâm và phát biểu một câu “đi vào lịch sử” rằng : “Tôi cảm thấy mình có trách nhiệm nhưng không cảm thấy mình có tội.”
Dù chưa khảng khái trả lời như cựu bộ trưởng Dufoix tại Pháp, nhiều người vẫn tự hỏi rằng phải chăng giới chức Anh lúc đó cũng đã không cảm thấy tội lỗi. Vì nếu thấy có tội, thấy cắn rứt lương tâm, họ đã đứng ra chịu trách nhiệm, họ sẽ không để người dân phải chờ tới vài thập kỷ mà vẫn chưa nhận được lời xin lỗi. Xin nhắc lại rằng lời xin lỗ